Sunday, 7 October 2018

Nhân vật Saigon-ChợLớn thời Pháp thuộc – Tổng Đốc Phương (Nguyễn Đức Hiệp - Hiệp's Blog)

Nhân vật Saigon-ChợLớn thời Pháp thuộc – Tổng Đốc Phương

 (https://hiepblog.wordpress.com/2015/03/15/nhan-vat-saigon-cholon/)

Nhất Sỹ,nhì Phương, tam Xường, tứ Định”


Cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 20 là giai đoạn mà xã hội Việt Nam bắt đầu chuyển mình và thay đổi rất lớn. Đây không phải là một sự lựa chọn mà là sựbắt buộc. Việt Nam bi bắt buộc phải bỏ sự cô lập đứng riêng với tổ chức chính trị kinh tế xã hội đặc thù của mình và bị ép một cách không cân xứng vào hệ thống kinh tế toàn cầu của sự phát triển tư bản phương Tây, lúc bấy giờ là một hệ thống không công bình và khác lạ với con người Việt Nam truyền thống. Việt Nam coi như là một xứthuộc địa của Pháp: với Nam Kỳthuộc Pháp trong khi Bắc Kỳ, Trung Kỳlà hai xứ bảo hộ.
Trong giai đoạn đầu của thời Pháp thuộc ở Nam Kỳ,nhiều tầng lớp yêu nước khởi nghĩa giúp vua chống lại Pháp, và một số theo Pháp đàn áp khởi nghĩa. Đến cuối thế kỷ 19 thì người Việt Nam nhận ra rằng phải thích ứng với tình thế mới và tìm đường hay phương hướng mớiđể dành độc lập, phát triển quốc gia. Những người như các ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, Lương Khắc Ninh, Trương Duy Toản… mặc dù hấp thụ văn hóa Pháp và tư tưởng Tây Phương nhưng luôn có cái nhìn muốn canh tân, cải cách đất nước. Họ là những người yêu nước và trong giai đoạn đầu thế kỷ 20, đa số họ thành lập hay tham gia trong phong tào Minh Tân, có liên hệ mật thiết với phong trào Đông Du do Phan Bội Châu và Cường Để khởi xướng.
Nhưng cũng có những người hấp thụ văn hóa Pháp, thích ứng với tình thếvà có địa vị trong xã hội, mà không còn nghĩ đến xã hội đất nước trong một phạm vi lớn hơn. Những người nhưvậy được ưu đãi và có lợi thế qua sự hợp tác của họvới Pháp trong lãnh vực kinh tế,chính trị hay qua vị thế của họtrong xã hội như các thương gia Hoa kiều, các người theo đạo. Một trong những người như vậy là ôngĐỗ Hữu Phương, một người Việt gốc Minh Hương ở Chợ Lớn. Bài viết này không có mục đíchđánh giá con người mà chỉmô tả những sự kiện liên hệ đến ông Đỗ Hữu Phương trong bối cảnh xã hội ở đầu thế kỷ 20 qua các tư liệu báo chí Pháp ngữ và Quốc ngữ hiện nay ít được chú ý.
Ông Đỗ Hữu Phương có khác với nhữmg người lúc đầu hợp tác với Pháp là ông rất chuộng văn hóa Pháp. Bắt đầu từ Hội Nghiên cứu Nam Kỳ và Đông Dương (Société des Études Indo-chinoises) là nơi những tầng lớp trí thức và thượng lưu Pháp Việt giao du và học hỏi. Những người Pháp nghiên cứu và có kiến thức rộng về Nam Kỳ và Đông Dương phải kể đến Antoine Landes, Charles Lemire, George Durwell và Việt thì có Trương Vĩnh Ký, Trương Minh Ký. Ngoài ra có những thương gia, kỹ nghệ gia Hoa Việt, các quan lại, công chức trong bộ máy cầm quyền Pháp làm việc chung với người Pháp; và qua đó văn hóa Pháp dần dần ảnh hưởng sâu rộng vào xã hội miền Nam, nhất là ở thành thị.
Ngược lại người Pháp ở chính quốc bắt đầu biết đến vùng đất Đông Dương và họ tò mò tìm hiểu về văn hóa ở Viễn Đông, nhất là trong giai đoạn cuối thếkỷ 19 sau hội chợ thế giới 1889 cho đến thời đại Belle Epoque đầu thế kỷ20 thì sự hấp dẫn văn hóa Viễn Đông đã có tác động lớn vào giới nghệ sĩ, học thuậtở Paris. Trong giai thoại về cô Cléo de Merode với các ông đốc Phủ, ta có thể đoán rằng ông Phủcó quyền thế và giàu có trong câu chuyện, người ngỏ ý mời cô qua Nam Kỳ đến ở dinh ông ởSaigon, chắc phải là ông Tổng đốcĐỗ Hữu Phương (11). Hội chợtriển lãm thế giới năm 1900 ởParis đòi hỏi sự tổ chức qui mô, riêng về phần khu triển lãm Đông Dương dưới sự điều hành của Jules Charles-Roux, Pierre Nicolas ở Paris và Paul Doumer ở Hà Nội, ở Nam Kỳ cóỦy ban địa phương Nam Kỳ (Comité local de Cochinchine) trong đó ông Đốc Phủ Sứ Đỗ Hữu Phương là một hội viên và ông Trương Vĩnh Ký là thư ký. Khoảng cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20, tầng lớp thượng lưu Hoa Việt ở Nam Kỳ đều chịu ảnh hưởng ảnh hưởng văn hóa Pháp mà ông Phương là một thí dụ nổi bật.

Một vài nét về Đỗ Hữu Phương


Đỗ Hữu Phương sinh ở Chợ Đủi, Saigon năm 1840, mất ngày 5 tháng 5 1915. Ông gốc người Minh Hương. Năm 1861, khi Pháp chiếm thành Saigon và đánh đồn Kỳ Hòa, người Pháp đã thấy tầm quan trọng của thương mại người Hoa ở Chợ Lớn, họ đã mua lương thực, trao đổi hàng hóa với người Hoa ở Chợ Lớn trong thời gian công phá đồn Kỳ Hòa. Ngay sau khi đã phá được đồn Kỳ Hòa, người Pháp tuyên bốSaigon là cảng tự do mở cửa buôn bán với thế giới bên ngoài. Thương mại người Hoa ở Chợ Lớn sau bao nhiêu năm bị ức chế, bế quan tỏa cảng, đã bộc phát và cộngđồng người Hoa và Minh Hương ởSaigon – Chợ Lớn hồ hởi tham gia vào tình hình kinh tế mới.
Trong năm 1861 biếnđộng lịch sử này, Đỗ Hữu Phương thấy được cơ hội mới, ông đã tiếp xúc và làm việc với người Pháp chânướt chân ráo cố gắng tuyển dụng người thiết lập một nền hành chánh còn rất sơ khai ởSaigon – Chợ Lớn. Ông được phong ngay làm chức trưởng khu Chợ Lớn (chef de quartier Cholon), sau thành huyện Chợ Lớn.
Năm 1872 ông được phong là Đốc Phủ tỉnh Chợ Lớn và huân chương Legion d’Honneur. Ông vềhưu năm 1897. Theo Brébion (1) thì ôngđã đi qua Pháp 4 lần; viếng các thủ đô ở Âu châu và đi chuyến vòng quanh thế giới vào năm 1884. Trong danh sách các hành khách đi tàu “Anadyr”từ Saigon đến Marseille ngày 29/04/1889, có tên ông cùng với 2 người con (8). Như vậy ta có thể đoán rằng ông đi chu du nước Pháp trong dịp hội chợ thế giới 1889 kỷ niệm 100 năm cách mạng Pháp.
Ông Phương là người có tiếng hiếu khách tiếpđãi người nước ngoài đến thăm tư gia của ông. Ông toàn quyền Đông Dương, Paul Doumer, khi có dịp vào Saigon cũng thường đến tư gia của ông Đỗ Hữu Phương. Paul Doumer là người có trách nhiệm thiết kế và giúp đỡ tổchức khu triển lãm Đông Dươngở Hội chợ quốc tế Paris năm 1900.
Đỗ Hũu Phương giao thiệp rộng rãi và biết rất nhiều các quan chức Pháp ở Saigon. Theo Hứa Hoành (4), ông thường đến nhà hàng khách sạn Continentalở Saigon, và Café de la Paix, nơi gặp gỡ của các bạn bè Pháp Việt thượng lưu trí thức. Nơiđây có các quan chức như ông Paul Blanchy (thị trưởng Saigon), ông Bonnet, ông Morin. Đỗ Hữu Phương đã “Pháp hóa hơn cả người Pháp”. Ông Phương gởi 4 người con trai qua Pháp học, trong đó có ông Đỗ Hữu Chẩn và ĐỗHữu Vị học ở trường võ bịSaint Cyr. Khi khách tới nhà chơi đềuđược Phương đãi rượu sâm-banh, ăn bánh petits beurres de Nantes và uống cà phê “De La Paix”. Café de La Paix là quán cà phê nổi tiếng ở Paris nơi ông Phương đã đến khi qua thăm Paris. Ông đã qua Pháp 4 lần trong đó có lần dự Hội chợ triển lãm 1889.
Theo Hứa Hoành (4) thì ông Nguyễn Văn Vực có nhắc lại hồi đó có một bài ca dao rất phổ thông nói về ĐỗHữu Phương hay đến nhà hàngCafé de la Paix, bài ca dao này đượcTrương Minh Ký dịch ra Pháp văn, đại khái như sau:
“Các quan lại Pháp thường hay đến tửu quán “Cà phê De La Paix”
…để gặp quan Tổng Đốc Đỗ Hữu Phương và quan Bonnet đang ngồi tán dóc ở đó
Bạn sẽ gặp ngài Paul Blanchy (Chủ tịch Hội Đồng Quản Hạt), cùng với ngài Morin ở đó nữa…”
Bài này rất phổ thông hồi đầu thế kỷ 20ở Sài Gòn, nay đã biến mất không còn dấu vết. Dịch giả cùng vài bạn Pháp cũng có đếnđó chơi với Ðỗ Hữu Phương. Những người Pháp-Việt hội nhậpở đó, đã nhớ lại vẻ ấm cúng và thú vị của thuộcđịa Nam Kỳ, so với bầu trời Paris luôn luôn ảm đạm lạnh lẽo.”
Café de la Paix”này là ở ngay trung tâm thành phốSaigon, vị trí trên đường Nguyễn Huệ ngày nay, địa chỉ số 56-64 Boulevard Charner, ngay góc đường rue d’Ormay (Mạc Thị Bưởi) và Charner (12). Trong lúc ông Đỗ Hữu Phương và các nhân vật giàu có và quan chức trong chính quyền như Paul Blanchy, Morin, Bonnet tụ tập ăn uống, trao đổi nói chuyên thì đối diện bên kia đường, trong dãy phố gần toà hoà giải (Justice de la Paix) mà ngày nay là toà nhà Sun Wah Tower, ông Nguyễn An Khương, một nhân sĩ trong phong trào Minh Tân, có khách sạn và tiệm may và bán vải ở số 49đường Charner. Và sau đường Charner, gần Chiêu nam Lầu của ông Khương, ở đầu đường Krantz (Hàm Nghi) là khách sạn của ông Trần Chánh Chiếu, cạnh ga xe lửa đầu tiên ở Saigon. Các ông Nguyễn An Khương (con ông là nhà cách mạng Nguyễn An Ninh) và Trần Chánh Chiếu lúc này đang cố gắng lập hội, làm báo (Nông Cổ Mín Đàm, Lục Tỉnh Tân Văn) để canh tân thức tỉnh nước nhà, trong khi bên kia đường ông Phương đang hưởng thụ cuộc sống với các chính khách Pháp.
Cách sống xa hoa và sự hiếu khách của Ðỗ Hữu Phương với người Pháp đãđược bá tước Pierre Barthélemy kể lại như sau, khi ông Barthélemy và các bạn của ông đến viếng tư gia của Ðỗ Hữu Phương:
“Khi viếng ChợLớn, không thể không có chuyến ghé thăm một ông Phủ giàu có danh tiếng của thành phố này. Đó là điều chúng tôi làm, với sự tháp tùng của vài người bạn Saigon của ông ta. Ông đốc phủtiếp chúng tôi thật nồng nhiệt Ông là một người An-Nam, tuổi khoảng 50, vẻ mặt thông minh; ông hầu như luôn mặc bộ đồ Tây và không do dự cho các con trai ông được theo học một nền giáo dục Pháp. Một trong các con trai ông hiện là một sĩ quan trong binh đoàn Lê Dươngở Algérie, trong khi một người con khácđang học sắp xong ở Paris.
Nhà ông là một sự pha trộn lạ kỳ giữa Âu và Á. Sân trong thiết kế theo kiểu Trung Hoa, chung quanh sân là các phòng kiểu An Nam mà một phòng salon ở tận trong rất đáng chú ý. Đối diện với salon này là một biệt thự kiểu Âu. Bàn thờ trong phòng salon An Nam này là một công trình tuyệt diệu nổi tiếng, bàn thờ được cẩn xà cừ. Những cột nhà làm bằng gổ teck rất quí, trụ mái nhà của phòng salon này trông rất thanh tao và trên một bàn làm bằng gỗ quí là những chai rượu absinthe, amer Picon và những sản phẩm của Pháp khác. Ông Phủthích đãi khách các đồ ănđặc biệt, và ông ta cũng biết thưởng thức các loại rượu của chúng ta. Nếu phải diễn tảhết tất cả sự giàu sang của nội thất An nam này, thì phải viết rất nhiều trang giấy. Tôi thấy đủ hài lòng để chỉ kể lại buổi ăn trưa mà ông chủ nhà đáng mến sẽ làm cho chúng tôi thưởng thức. Thường thì ông Phủ ChợLớn ăn đồ ăn Tây ở nhà, nhưng chúng tôi hôm đó dùng vài món ăn An Nam và kết thúc với các món ăn Tàu. Ông chủchủ tọa bàn ăn “
..“
Thường thì ông Phủ ở Chợ Lớn đãi thực khách bằng thức ăn Tây, nhưng chúng tôi hôm nay được thưởng thức ăn vài món An nam và ông thêm vào các món Tàu. Chủ nhà chủ tọa ngồi vào bàn ăn, chúng tôi vui vẻ tập dùng đôi đũa đểgắp thức ăn vào đủ các dĩa. Thực đơn gồm các món ăn nhưsau
Cháo tổ yến
Cá kiểu An Nam (với các chén cơm) (cá này cóướp nước mắm)
Thịt heo kiểu An Nam (nước mắm)
Đuông dừa (sâu dừa) nướng
Dưa chua với thịt heo theo kiểu Âu
Trứng chiên với fromage kiểu Âu
Tráng miệng: Vải, xoài, vải nhỏ An Nam, gừng và các trái cây nhiệt đới khác.
Những món ăn này hợp với khẩu vị Âu của chúng ta; duy chỉ có một món làm chúng tôi lo âu, đó là mónđuông dừa (sâu dừa). Nhưng chúng tôi biết rằng một món như vậy rất là quí, rất khó tìm các con đuông này. Để có các con đuông, người ta phải chặt nguyên cây dừa và lấy từ ngọn một loại sâu đặc biệt sống ở đó. Một cây bị đốn chết, và vì thế người ta nhận ngay ra là thật tốn kém như vương giả để có một con sâu nướng. Vì thế chúng tôi phải nếm món này như một kiểu ăn mới. Nó nếm giống như sa lách đọt dừa, con sâu ăn rất ngon và chúng tôi không do dự tuyên bố rằng món này thật ngon và xứng đáng là món ăn đặc khẩu thi vị.
Tuy vậy sau buổiăn thử hút ống pip thuốc phiện thì kém thành công hơn cho các bạn đồng hành không hợp chịu thuốc của tôi và đa số chúng tôi không thể theo kịp được với ông Phủ hút thật tài tình. Ông ta kế đó dẫn chúng tôi viếng toà nhà villa kiểu Âu của ông ta. Một phòng tiếp khách lớn nằm ở trung tâm toà nhà. Ở giữa phòng khách này là một bànđỡ một cặp ngà voi thật tuyệtđẹp. Chung quanh là các tủ kính chứa đầy các vật bằng ngọc thạch và cácđồ mỹ nghệ đắt giá. Lúc này chúng tôi không thể không mỉm cười khi thấy các bức màn và giấy phủ trên tường, mà ý định là bắt chước mode mới nhất ở Paris. Nhưng ta không thểquá khắt khe về việc này và Paris thì quá xa Saigon.
Lúc trở ra, chúng tôi phải chiêm ngưỡng một bộsưu tập hình thú bằng sành đặt trên hòn non bộ nằm chính giữa mà chung quanh là suối nước chảy:đó là một trong các vật trang trí trong vườn với vài cây nhỏbé (bonsai) được làm từ Nhật Bản. Ông Phủ rất lấy làm hài lòng dẫn chúng tôi tham quan cơ sởtư dinh của ông ta và chúng tôi từgiã ông rất trễ, sau khi đã cámơn ông ta nồng nhiệt.”

hinh-1
Hình 1 – Một phòng trong dinh Đốc Phủ Đỗ Hữu Phương ở Chợ Lớn
(Nguồn: BáoLe Monde Artiste, Dimanche 27/7/1901)


Toàn quyền Paul Doumer (6), trong hồi ký về Đông Dương, có nói về Nam Kỳ và ông ĐỗHữu Phương như sau:
Ông Phủ ởChợ Lớn tiếp khách người Âu trong nhà ông, mời uống rượu Champagne và bánh petits beurres de Nantes, cho khách xem không mệt nghĩ một vài sản phẩm đặc thù lạ kỳ của người An Nam, và tổ chức, theo sự đòi hỏi ước muốn của khách, xem một tuồng hát của người bản xứ (dịch giả: đây chắc là hát bội). Đó là hình ảnh Nam Kỳ, một chút kiểu cách và bóp méo trong cách diễn tả của người ta và được dùng phổbiến, ngay cả những người ngoài cuộc không biết nhiều. Ông ĐỗHữu Phương đã đến Pháp nhiều lần; ông ta được tiếpđón ân cần và ông trởthành nổi tiếng ở Paris, từ nhà hàng Durand đến Café de la Paix. Ông ta là một trong những người phụng sự cho chúng ta trong những ngày giờ đầu tiên, là học trò ngày xưa của các nhà truyền giáo ky tô, vì thế được chúng ta ban tặng những huân chương và đạtđược sự giàu có”
Ông Đỗ Hữu Phương rất được biết trong giới thượng lưu và nghệ sĩ ởParis. Bạn ông, Charles Lemire có giao thiệp rộng rãi trong giới nghệ sĩ, nghệthuật đặc biệt là nghệ thuật sân khấu, kịch và opera ở Paris. Vì thế ta sẽ không lạ nếu Cléo de Mérode biết về ông Đốc Phủ Đỗ Hữu Phương.
Nhà hát Đông Dương ở hội chợ Paris, một phần có lẽ là dựa vào kiến trúc bên trong của tư gia ông ở ChợLớn. Trong dinh thự của ông ở ChợLớn có nhà hát tuồng, có đền thờ tổ theo phong cách Á đông của người Hoa. Mặc dù không có dự Hội chợ 1900 nhưng ông có ảnh hưởng qua sự giao tiếp rộng rãi với nhiều quan chức tổ chức vàđiều hành khu triển lãm Đông Dương như toàn quyền Paul Doumer, Charles Lemire.
Trong dinh thự ông còn có nhà hát, thỉnh thoảng dùng để diễn các tuồng hát bội. Nhà ông ngày nay trên đường Châu Văn Liêm (trước đó làđường Tổng Đốc Phương) không còn dấu vết gì đểlại. Nhưng qua các ảnh để lại ta có thể thấy sự bề thế của dinh thự ông. Một kiến trúc kiểu Tây nhìn từ phía ngoài nhưng bên trong là phong cách Á đông.

hinh-2
Hình 2: Dinh thự của ông Đỗ Hữu Phương dọc Kinh Xếp, Chợ Lớn


Nhà ông ĐỗHữu Phương ở Chợ Lớn là một toà tư gia to lớn rộng rãi, nằm dọc theo kinh Xếp. Sau này kinh Xếpđược lấp đi thành đường Tổng Đốc Phương (nay là đường Châu Văn Liêm). Theo ông Pimodan (1), ngườiđã viếng thăm nhà ông Phương, một phần tư gia ông Phương được Pimodan mô tả như sau
” Một vài cây số từ Sài Gòn là ChợLớn, một thành phố lớn của người bản địa, mà điểm thu hút chính là tư gia của một người An Nam giàu có, ông Đỗ Hữu Phương, mà từ rất lâu đãủng hộ và là bạn của chúng ta. Ông ta thực hiện một số chức năng hành chính mà chức vụ theo tiếng An Nam là “Phủ” tên mà ông ta được biết đến.
Con trai của ông, một sĩ quan dễ mến của quân đoàn Lê Dương, vừa mới tốt nghiệp trường võ bị Saint-Cyr, tiếp đón chúng tôi ở nhà cha, gồm các toà nhà riêng biệt xây xung quanh một sân rộng lớn hình chữ nhật.
Ở sâu trong toà nhà, nơi tiếp khách, trong một loại nhà sảnh lớn là nơi gia đình cư ngụ. Trên một bàn, ngự trịbức tượng Đức Phật, và cạnhđấy là những bức ảnh của các thành viên gia đình, giữa các bình ly và hoa.
Chung quanh là cácđồ vật đủ loại rất là khác nhau. Chỗ này là đồ nội thất cẩn xà cừ, cổ xưa và rất đẹp, các đồ mỹ nghệÂu châu không đáng kể, được mua rẻ tiền trên các kệ của một chợ nào đó; còn có một cái bàn thấp, trên đó có các trái cau, các lá trầu và vôi nhuộm màu hồng, mà người An Nam nhai chúng chung lại với nhau rất thỏa thích.
Trong một góc nhà, có một hộp âm nhạc to lớn phát ra từng nốt các giai điệuĐông Dương lạ kỳ. Các câu, bao gồm bốn hoặc năm nốt, đôi khi nhạt nhẽo, đôi khi kỳ lạ, đôi khi hài hoà, kế tiếp nhau mà không có phối hợp dựa trên một đơnđiệu. Nó trông giống như một giai điệu chơi bởi một đàn “orgue de Barbarie” (1) cũ, với các xi lanh mòn xóa đi một số nốt nhấtđịnh, thay đổi các giá trịcủa chúng tương đối với các nốt khác, và chỉ phát ra một cách biếm họa của giai điệu sơkhai.
Lúc này, các con gái của ông “Phủ” đến tham gia với chúng tôi. Đây là những thiếu nữ trẻ tuổi dễthương, được dạy dỗ tốt bởi các bà sơ và nói tiếng Pháp rất chuẩn. Họ kể cho chúng tôi một cách duyên dáng là họ đi dự, với y phục truyền thống, khiêu vũ của Toàn quyền và than phiền là họ không khiêu vũ được bởi vì đôi giày đế bằng gỗ của họ.
Chúng tôi đã biết chỗ ở, giờ thì chúng tôiđi tham quan dạo quanh những khu vườn trang trí công phu có óc tưởng tượng độc đáo nhất trong các phong cách làm vườn. Một số cây, thoả mãn trong kích thước nhỏbé của mình, có hình dạng nhưcác lọ bình, các động vật, ngay cả hình cơ thể con người được trang trí với các gương mặt, bàn tay và bàn chân bằng sứ. Những con búp bê như đang đi bộ giữa những con đường mòn dốc của ngọn đồi nhỏ, dưới bóng của các cây sim và cây cam nhỏ lùn phản chiếu trong các hồ nước nhỏhơn kích thước của chậu nước. Xa hơn một chút, trong một chuồng chim thật lớn, có các con vẹt đang cục tác; cạnh đó, là một con chim hét nói huyên thuyên tiếng Việt. Con chim này rất tốn tiền, giá rất cao và người ta đến coi nó vì tò mò. Còn về các tiết mục của nó, dường như nó có rất nhiều “gia vị”, và ngay cảcon vẹt Vert-Vert (2) sẽ đỏ mặt nếu nghe nó nói.”
Ghi chú (1) Orgue de barbarie là một loại đàn máy thường những người hát dạo dùng trên đường phố (2) Vert-Vert là con vẹt trong vở opera Vert-Vert của Offenbach.

hinh-3
Hình 3: Một góc vườn trong dinh tổng đốc Phương, trong hình có
các cây kiểng“bonsai”hình thú đúng với những gì ông Pimodan
và Pierre Barthélemy viết trong sách hồi ký của họ.


Sau khi ông ĐỗHữu Phương mất không lâu, con trai thứ hai của ông, Đỗ Hữu Vịsinh năm 1884 ở Chợ Lớn, phục vụtrong quân đội Pháp cũng đã hy sinh vào tháng 7 năm 1916 trên chiến trường thung lũng sông Somme trong đệnhất thế chiến. Đỗ Hữu Vịcũng là một phi công có tiếng, ông là người đầu tiên bay ởMaroc, Bắc Phi. Hiện nay, ở thành phốCasablanca vẫn còn có tên đường mang tên Đỗ Hữu Vị.
Khi toàn quyền Đông Dương Albert Sarraut nhậm chức, ông Sarraut có mời ông Vị (lúc đó là trung úy không quân) trở lạiĐông Dương dẫn đầu toán nghiên cứu các đường thủy, sông ngòi xem xét khả năng có thể dùng thủy phi cơ phát triển vận tải thủy bộ và hàng không. Ông Vị đã đã viết báo cáo rất thú vị về vấn đềnày, trước khi ông quay lại Pháp khi chiến tranh thế chiến thứ nhất xảy ra (Echo Annamite,1920/04/22 (A1,N41). Ông là phi công gốc Việt duy nhất bay trên chiến trường Alsace-Lorraine và sáu phi vụ trên lãnh thổ Đức.

hinh-4
Hình 4 – Đại úyĐỗ Hữu Vị


Qua những tư liệuđể lại, ta có thể thấy cảgia đình ông Đỗ Hữu Phương, nhất là các con của ông, hoàn toàn bị ảnh hưởng theo văn hóa Pháp. Năm 1920, thì hài Đỗ Hữu Vị được cải táng, mang vềSaigon an táng bên cạnh mộ ông ĐỗHữu Phương trong khu cánh đồng mả(Plaine de tombeaux). Buổi cải tang có sự tham dự của nhiều người Âu và Việt trong đó có toàn quyền le Gallen và tướng Hirtzmann. Tờ báo “Tiếng Vọng An Nam”(Echo Annamite) số ngày 22/4/1920 có viết và tảcảnh như sau:
Hài cốt của ông Vị, từ cảng Marseille được chở trên tàu Porthos ngày 15 tháng 4 vừa rồi, sẽ đến Saigon vào ngày 9 hay 10 tháng 5. Lễ chôn cất sẽ diễn ra một ngày sau khi tàu cập bến vào lúc 4 giờ chiều.
Chúng tôi được biết là các đội lính danh dựsẽ có mặt dự đám tang của người đồng bào của chúng ta. Các đội lính bản địa An Nam tham dự với các đội lính Pháp. Quan tài sẽ được đặt trên vòng dây danh dự trang trí nghiêm trang với các cờ tam tài.
Đây là lộtrình của đám tang: động quan lúc 4 giờ chiều ở Messageries maritimes (bến nhà rồng ngày nay) – cầu xoay – quai de Belgique (bến Chương Dương) – đường Mac-Mahon (Nam Kỳ Khởi nghĩa) – đường Legrand de la Liraye (Điện Biên Phủ) –Route la Polygone (3 tháng 2) – cánh đồng mã nơi chôn cất gia đình ĐỗHữu Phương.
Tiểu sử
Đại úy ĐỗHữu Vị sinh tại Chợ Lớn vào năm 1884 – Con của ông bà ông Đỗ Hữu Phương, Tổng đốc huy chương danh dự bắc đẩu bội tinh (Legion d’honneur).
Ôngđược giáo dục ban đầu tại một trường tốt là trường Taberd – được gởi sang Pháp ở 8 năm tại Paris tại trường trung học Lycée Janson-de-Sailly, Yvelines và sau đó học tại trường Cao đẳng Collège St. Barbe.
Trúng tuyển thi vào trường võ bị Saint Cyr vào năm 1906. ở hạng khá tốt, ông là sinh viên cấp bậc trung sĩ và ra trường hai năm sau đó với chức vụ thiếu úy.
Tràn đầy sức sống, khinh rẻ các đơn vị đồn trú, ông yêu cầu đi phục vụtại miền phía Nam Algérie, nơi ông sống sót sau bốn năm trong cuộc chinh phục Ma Rốc, vừa đến ông ngay lập tức yêu cầu đi khỏi thành và đội quân tinh nhuệ Lê Dương (Légion étranger) của ông là một trong nhữngđội đầu tiên tiến vào thành phố Casablanca. Kế đó ông vàođội quân của tướng Brulard (*), nhưng không thấy cuộc sống này đủsôi nổi, ông gia nhập lực lượng không quân. Ông là sĩ quan không quân đầu tiên của Pháp bay trên nước Ma Rốc.
Trong cuộc chinh phục Ma Rốc, ông đã phụ trách một số nhiệm vụ nguy hiểm bao gồm: liên lạc viên với các quân đoàn Pháp đang bị bao vây ở miền nam Ma-rốc. Chính là từ những chiến dịch này, ông đã nhận được các huy chương ở Casablanca, Ma Rốc v.v…
Rất được quí trọng bởi tướng Lautey, một người bạn của cha mình, Tổng đốcĐỗ Hữu Phương. Trong một thời gian, Lautey đích thân chọn ông làm tùy viên thân cận của mình.
Tuy nhiên, với mong muốn hoàn thiện sự nghiệp hàng không của mình, ông trở về Pháp, ông đã đi khắp nước Pháp bằng máy bay, cùng với Trung úy Ménard.
Ông Albert Sarraut, khi trở thành toàn quyềnĐông Dương, đã triệu hồi ông từ Pháp về và đưa cho ông một nhiệm vụ tìm hiểu các tuyến đường thủy ở Đông Dương, để tìm hiểu việc sửdụng các thuỷ phi cơ. Những nghiên cứu này đã dẫn đến một báo cáo rất thú vị của Trung úy Đỗ Hữu Vị.
Sau khi ông Sarraut rađi, người kế nhiệm tạm thời, ông Van Vollenhoven đánh giá rất cao trung úy của chúng ta, đã dùng ông là sĩ quan tùy tùng thân cận. Trong khi đó chiến tranh đãđến và người đồng hương của chúng ta, coi thường những danh dựdanh vọng khác, ông xin có vinh hạnhđược tham gia chiến đấu ởPháp.
Khi ông vừa đến Paris, từ chối ở lại thủ đô, ông đã ngay lập tức đến mặt trận và chứng kiến những trận chiến khủng khiếp ở Flandre, dưới quyền của tướng Foch, nơi ông phục vụ như là một phi công lái máy bay ném bom. Ông liên tục bay ở Bỉ,trong vài tháng.
Sau các trận chiến ở miền Bắc, ông được gửi đến Alsace, nơi ông tham dự tất cả các chiến dịch: Mulhouse, Alkirch, v.v.. Ông là phi công người Việt duy nhất bay trên Alsace-Lorraine, trong 6 tháng ở đó, ông ta đã hoàn thành xuất sắc sáu nhiệm vụ ở Đức. Qua đó ông được tăng cấp chức đại úy (capitain) và huy chương hiệp sĩ bắc đẩu bội tinh (Légion d’honneur) và huy chương thập tựchiến tranh (Croix de Guerre).
Tại thời điểmđó, máy bay Caudron rất mạnh vừađược sáng chế, và lần đầu tiên được cài đặt các khẩu súng máy. Vì tính luôn tìm việc để phục vụ, đại úy Vị xin bay thử máy bay mới. Trong một chuyến bay, chiếc máy bay bị trục trặc ở độ cao 300 mét và rớt.Đại úy Vị đã bị kẹt và bất tỉnh dưới máy bay, vàđược kéo ra bởi một người phụ nữ sống ở Paris ngẫu nhiên có mặt tại hiện trường xảy ra tai nạn và ngay lập tức ông được vận chuyển bằng ô tô về Paris. Đó là một phép lạ mà ông không bị chết. Vẫn còn bất tỉnh trong vài ngày, chân sọ của ông bịbẹp và hàm dưới bị vỡthành miếng, ông đã được cứu bởi khoa học Pháp, một hàm nhân tạo đã được chếtạo ra cho ông.
Sau ba tháng hồi phục, chính phủ Pháp đưa ông trở về quê hương của mình. Nhưng đại úy Vị trả lời rằng lúc này chưa phải là thời điểmđể trở về, và tất cả mọi người phải ở lại vị trí của mình, bởi vì, như ông đã nói, “Tôi vừa là công dân Pháp và là công dân Việt và vì thế tôi phải làm gấp đôi bổn phận của tôi” (Je suis Francais et Annamite en même temps, je dois faire doublement mon devoir). Những từ cao cả cần được khắc sâu trong mỗi tâm trí.
Không còn có thể được sử dụng trong ngành hàng không, sau tai nạn khủng khiếp của mình, đại úy Vị yêu cầu được trở lại binh đoàn bộ binh cũ của mình. Than ôi!
Khi ông đứng dẫn đầu đội quân của ông, trong các trận đánh lớn khủng khiếp trên chiến trường vùng sông Somme (ở mặt trận miền Tây trong thếchiến thứ nhất) vào tháng Bảy năm 1916, lúc tấn công vào làng Dampierre, đã được phòng thủmạnh mẽ bởi quân Đức, ông đã bị bắn bởi hàng chục viên đạnở cự ly gần. Ông đã hi sinh trước chiến tuyến của kẻ thù và được chôn cất tại hiện trường của cuộc chiến. Được chôn ngay trên chiến trường là niềm an ủi lớn nhất của người chiến thắng!
Nhờ lòng tốt của ông Clemenceau, lúc đó là Chủ tịch Hội đồng, Bộ trưởng Bộ chiến tranh, việc chuyển thi hài vềnước đã được chấp thuận bởi một quyền đặc biệt từcác quy tắc thông thường.
Những người An Nam, cũng như gia đình của anh hùng liệt sĩ biết ơn ông Clemenceau qua cửchỉ có ý nghĩa này. Chính là cho đại úy Vị mà hôm nay chúng ta tưởng nhớ đến người đồng hương của chúng ta, một người xứng đáng của đât nước.
LƯU Ý. – Chúng tôi được gia đình Đỗ Hữu Phương ủy nhiệm để thông báo cho bạn bè của gia đình, các người quen bản địa và người Âu rằng việc chôn cất sẽ diễn ra một ngày sau khi tàu Porthos cập bến, lúc 4 giờ chiều, và không có gửi giấy cáo phó. Thông báo này thay thế cho cáo phó.
B. V. T.
(Bach Van Tham)
(Echo Annamite, Tiếng vọng An Nam, 1920/04/22 (A1,N41)).
(chú thích: (*) Tướng Jean Marie Brulard là vị tướng gan dạ nổi tiếng của Pháp tham dựthế chiến thứ nhất và các trậnđánh ở Bắc Phi, eo biển Dardanelles)

hinh-5
Hình 5: Quang cảnhđại lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm ngày nay) nhìn từBưu điện Chợ Lớn (giữa phía dưới hình). Toà nhà của ông Phương ở phía trái trong lùm cây sau ngã ba đường Đồng Khánh (Trần Hưng Đạo ngày nay) và đại lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm).

Trong một bài khácở Écho Annamite (15/05/1920),đám tang của Đỗ Hữu Vị ởSaigon được tả như sau. Bài viết ký tên B.V.T (Bạch Văn Thắm) lý tưởng hóa con người và sựnghiệp ông Vị, làm người đọc ngày nay nhận ngay ra rằng thật ra ông ta chỉ là người Pháp chứ không còn là người Việt.
Đám tang khởi động
Thi hài được mang xuống từ tàu Porthos hôm qua lúc 10 giờ sáng dưới sự hiện diện của cả gia đình, và một sĩquan cảnh sát; quan tài được đặt trong một nhà nguyện.
Vào đúng 16 giờ bắt đầu lễ tang; đám tang di chuyển ở giữa dòng dân tụtập về đông đúc đáng kể. Một bàn thờ di động trênđó được đặt một chiếc máy bay nhỏ với hình phi công ĐỗHữu Vị, dẫn đường. Tiếp sau là các bàn thờ khác và một chuỗi dài các vòng hoa điếu tang gửi bởi rất nhiều hội đoàn của các hội bản địa, trong số đó có gia đình Hoàng Phú Trọng, các quan của tỉnh Hà Đông, gia đình Đào Hương Mai v.v .. đã hùng hồn thể hiện sự tham gia của chúng ta trong lễ tang gia đình.
Đólà các cống hiến nhỏ tỏ lòng kính trọng, mà xã hội An Nam mangđến cho một trong những người tham gia vào công trình cứu độ giải thoát và giải phóng của chúng ta.
Đoànđại biểu từ tất cả các trường ở Sài Gòn đi ngay trước xe tang lễ, đó là một xe kéođại bác của pháo binh, xe được choàng hoa với đầy các cây xanh, hoa, và được trang trí cao cảnhất bằng các lá cờ tam tài. Cỗ quan tài biến mất dưới các vòng hoa điếu và hoa tự nhiên. Khi nhìn thấy quan tài, chứa di hài còn lại của người mà chúng ta biết đầy sức sống và nhiệt tình, gợi lại trong tâm hồn chúng ta về sự hy sinh vô lượng mà chúng ta đã trả giá trong năm năm chiến tranh.
Sự vinh quang thừa nhận sự bất tử của những anh hùng của chúng ta, đều được làm bằng nước mắt và máu.
Tất cả mọi người đứng cúi đầu khi xe tang đi ngang qua. Gia đình Đỗ Hữu Phương, đại diện bởi Đại tá Chan (Đỗ Hữu Chẩn), chủ tịch Tri (Đỗ Hữu Trí) và ông Thinh (Đỗ Hữu Thịnh), người chi phí tài chánh cho đám tang, đi theo ngay sau xe tang, với một cam chịu nhẫn nhục cao quý với đấng Tạo hóa, đi trên con đường đau khổ nhưngđầy vinh quang, con đường mà người anh của họ được trở về với quê hương, đến nơi an nghỉ cuối cùng.
Chính quyền dân sự và quân sự được đại diện bởi ông Thống đốc Le Gallen và tướng Hirlzmann: nhiều phái đoàn của đủ loại các tổ chức, hội người An Nam, các Hội đồng dân cử, các quan chức đến từmiệt xa, và một đám đông người châu Âu và người bảnđịa cũng đến dự đám tangđể làm nghĩa vụ cuối cùng của họ với người đồng bào của chúng ta.
Các ban nhạc chơi các bài hát tang lễ, các binh lính của đoàn bộ binh thuộc địa và dân quân địa phương đi kèm hai bên đoàn lễ tang, làm hàng rào danh dự cho người có một vị trí với huy chương danh dựquân sự rất cao. Bên trên đámđông, trong bầu trời trong xanh, hai chiếc máy bay của phi đội Sài Gòn của chúng ta, thao diễn trong ánh sáng rực rỡ, nhắc nhở rằng người đồng hương của chúng ta là một trong những phi công quân sự đầu tiên,đã phục vụ nước Pháp.
Lộ trình từbến tàu đến nơi chôn cất giađình Đỗ Hữu Phương ởtrong cánh đồng mã (Plaine des tombeaux) màđám tang đi qua, ở tốc độchậm của sáu con ngựa kéo chiếc xe tang, lâu hơn một tiếng đồng hồ.
Tại mỗi nút giao lộ, đều có một đámđông kính cẩn và cuối chào; người ta đến cánh đồng an nghĩ bao quanh bởi cây cối xanh tươi, nơi có một đội cảnh sát nghiêm trang giữ những người tò mò trong một trật tự thật hoàn hảo.
Cỗ quan tài mang trên hai đòn hỗ trợ; nó được bao bọc bởi cờ tam tài (cờ Pháp), vải đẹp nhất mà có thể bao phủ trên thi hài của một người yêu nước, lúc này là lúc ông Le Gallen phát biểu.
Đólà những gì ít ỏi còn lại của người chiến sĩ Đỗ Hữu-Vi. Nhưng linh hồn vĩ đại của mình, ngọn lửa ấm lòng yêu nước của ông và cho ông hoàn thành hai nhiệm vụ của mình cho hai quê hương, đang lượn bất tử trênđám tang lớn mà Pháp và Đông Dương đang cử hành làm cho ông.
Đại úy Guyomar sau đó đi lên đọc diễn văn, và với đầy hứng khởi vềnhững hy vọng chung và một tinh thần hy sinh quên mình của những người quân nhân như ông và đại úy Vị, ông tuyên bố lời vĩnh biệt cao quý mà người dự đều cảm nhận được sự hy sinh anh dũng của những người đấu tranh trên chiến trường vĩnh hằng chống lại các cám dỗ vật chất vô thường và các kẻ thù .
Người hùng biện thứ hai là tướng Hirtzmann, với giọng nói đầy nam tính dõng dạc, kể lại sự nghiệp của người chiến sĩ thanh cao của chúng ta. Thật là đẹp, tình huynh đệ trong các binh chủng quân đội!. Một đại úy được một tướng lảnh ca ngợi thán phục! Sự nghiệp sáng chói của một người đồng bào của chúng ta đã được phát họa lại trong tất cả mọi chi tiết ngoại vi nhỏ nhất và trong mọi tình huống đã nói lên tinh thần anh dũng của người anh hùng. Trước tiên là ở Nam Algerie, những chiến dịch ở Maroc, những công tác ở Đông Dương , sau đó sau tuyên chiến chiến tranh thế giới thứ nhất, những trận đánh kinh khủng mà tính khí anh dũng của đại úyĐỗ Hữu Vị thích ứng rất tựnhiên.
Lúc đó là thời điểm long trọng, cần có sựcống hiến của tất cả các người con của đất nước, để đi nhanh ra đến chiến trường. Đó là chiến trường danh dự cho những ai đã ngã xuống. Hôm nay chúng ta nhặt những gì còn lại của thi thể ông đã trở thành thiêng liêng vì sự chết cho chính nghĩaở nơi đất thiêng liêng ấy. Và qua sự tiếp xúc của hài cốt, với vùng đất sinh thành của mình, vùng đất này cũng trởthành kính trọng. Đó là, theo chúng tôi biết, ý nghĩa của diễn văn của tướng Hirstmann.
Ông Le Gallen, trong một vài lời nhanh ngắn mang ra ánh sáng cho ta thấy về những công lao của giađình cao quý Đỗ Hữu Phương, gởi đến Đại tá Chấn, ngườiđại diện dòng nam gia đình họ Đỗ. Bắt đầu từ người em út, Đỗ Hữu Vị, sự nghiệp quân sự, mà đại tá Chấn may mắn đã được cái chết tha cho, hôm nay mang lại một hào quang vẽvang, tuôn phát ra từ quan tài này. Sự bất tử được hứa hẹn cho những ai ngã xuống vì chính nghĩa. Lời phát ngôn đầy hy vọng này chắc làm giảm đi sự khổ đau của gia đình, vì lòng tin này mà máu của những người ngã xuống là hạt giống sinh sản dồi dào cho cuộc sống.
Sau sự tỏ lòng thương tiếc thành kính, và lời vĩnh biệt của người đại diện chính quyền, kính cẩn chào ĐỗHữu Vị, và với cử chí có ý nghĩa, mỗi người tham dự nghiêng người kính cẩn, rút đi trái tim đau buồn, với lòng đầy biếtơn và hy vọng trong tương lai đất nước của chúng ta mà Đỗ Hữu Vị đã cống hiến nhiều đểnó trở thành hạnh phúc và tựdo hơn.
B. V. T.
(Bạch Văn Thắm)
Gia đình ĐỗHữu Phương cũng không quên gốc gác Minh Hương của mình. Hội quán Nghĩa Nhuật ở Chợ Lớn được xây dựng với sự giúp đỡ của gia đình ông. Ngày nay không còn dấu tích gì về phần mộ gia đìnhĐỗ Hữu Phương và toà nhà biệt thự sang trọng to lớn của ông và gia đình ở Chợ Lớn trên con đường mang tên ông một thời, tất cả đều không còn. Gầnđó ngay trong khu trung tâm phố xưa của Chợ Lớn ngày nay có một con đường mang tên người cùng thời với ông, cũng có quốc tịch Pháp như ông, nhưng khác với ông, đã bỏhết tâm trí, tài sản sự nghiệp cho công cuộc canh tân con người vàđất nước Việt Nam, mặc dầu phải trả giá rất đắt và nhiều tai họa cho bản thân vào thờiđó nhưng đã được lịch sử ghi nhớ và kính phục: ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, chủ bút hai tờ báo Nông Cổ Mín ĐàmLục Tỉnh Tân Văn, những tờ báo quốc ngữ đầu tiên đầu thể 20 có mục đích canh tân con người và xã hội Việt Nam trong giai đoạn chuyển tiếp giao thời giữa Cựu trào và Tân trào.

2
hinh-6b
Hình 6 – Biệt thự của Đốc phủ sứ ĐỗHữu Phương đầu thế kỷ 20
và cùng vị trí ngày nay (2014), ảnh Tim Doling


Nguyễn Đức Hiệp


Tham khảo:


  1. Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l’Indochine française / A. Brebion ; publié après la mort de l’auteur par Antoine Cabaton, Société d’éditions géographiques, maritimes et coloniales (Paris),: 1935
  2. Pimodan, Claude de Rarécourt de la Vallée (1859-1923 ; comte de), Promenades en Extréme-Orient (1895-1898) : de Marseille à Yokohama, Japon, Formose, îles Pescadores, Tonkin, Yézo, Sibérie, Corée, Chine / Le Commandant de Pimodan, H. Champion (Paris), 1900.
  3. Théophile de Lamathière, Panthéon de la Légion d’honneur. Editeur : E. Dentu (Paris), 1905
  4. Hứa Hoành, Các giai thoại Nam Kỳlục tỉnh, http://sachxua.net/forum/index.php?topic=10090.0;wap2
  5. Pierre Nicolas, Notices sur l’Indo-Chine, Cochinchine, Cambodge, Annam, Tonkin, Laos, Kouang-Tchéou-Ouan, publiées à l’occasion de l’Exposition Universelle de 1900 sous la direction de M. Pierre Nicolas, commissaire de l’Indo-Chine, impr. de Alcan-Lévy (Paris), 1900
  6. Paul Doumer, Indo-Chine française (souvenirs), Vuibert et Nony (Paris), 1905
  7. Pierre Barthélemy, En Indo-Chine 1894-1895: Cambodge, Cochinchine, Laos, Siam méridional, E. Plon, Nourrit et Cie (Paris), 1899.
  8. Saigon Republicain, 1/5/1889, A2, N102.
  9. Écho Annamite, 22/04/1920 (A1,N41)
  10. Écho Annamite, 15/05/1920 (A1,N50)
  11. Nguyễn Lê Tuyên, Nguyễn Đức Hiệp, Quan hệ văn hoá Pháp-Việt đầu thế kỷ 20 qua sự kiện Triển lãm Toàn cầu 1900, http://khoahocnet.com/2015/01/03/nguyen-le-tuyen-nguyen-duc-hiep-quan-he-van-hoa-phap-viet-dau-the-ky-20-qua-su-kien-trien-lam-toan-cau-1900/
  12. Annuaire général de l’Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.

Dân quân xã Hải Chính bắn rơi cái gì ngày 27 tháng 2 năm 1966?

Câu này rất là dài:
Trong những năm 1965-1975 trước bối cảnh cùng cả nước chiến đấu chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, tiếp tục xây dựng XHCN, bảo vệ quê hương, làm tròn hậu phương với tiền tuyến lớn, chi bộ đảng đã lãnh đạo nhân dân xã nhà tích cực sản xuất chiến đấu XD.CNXH và chống chiến tranh phá hoại của Mỹ, trong những năm tháng ác liệt và hào hùng đó, với tinh thần chiến đấu anh dũng, ngoan cường, không chịu khuất phục trước kẻ thù với vũ khí tối tân hiện đại, bằng sự thông minh khéo léo, sáng ngày 27/2/1966 trong lúc dân quân du kích xã nhà đang thực hành huấn luyện trên trận địa đê biển , phát hiện một tốp máy bay địch từ biển sà thấp vào, với 19 tay súng dân quân trong đó có 4 đ/c nữ chỉ bằng 19 viên đạn súng trường đã bắn rơi một máy bay F105 của Mỹ. 

(http://namdinh.gov.vn/Xa-Hai-Chinh/2255/30923/41352/84236/Cong-tac-Dang/Dang-bo-xa-Hai-Chinh---Nhung-chang-duong-phat-trien.aspx) 
Câu này đỡ dài hơn, cũng do người Nam Định viết:
Ngày 27-2-1966, dân quân du kích xã Hải Chính (Hải Hậu) trong lúc đang huấn luyện trên trận địa đã nhanh chóng triển khai đánh địch và chỉ bằng 19 viên đạn súng trường đã bắn cháy một máy bay F105 - mở đầu cho phong trào thi đua bắn rơi máy bay Mỹ trong năm 1966.
(http://baonamdinh.com.vn/channel/5093/201512/lich-su-dang-bo-tinh-nam-dinh-on-dinh-to-chuc-chuyen-moi-hoat-dong-sang-thoi-chien-ky-6-2458641/) 
Hải Hậu (cũng lại Nam Định) viết:

Ngày 27/02/1966 lực lượng dân quân trực chiến xã Hải Chính đã độc lập chiến đấu, bắn rơi một máy bay F105 của địch. Chiến công đã làm nức lòng quân dân toàn huyện, khích lệ tinh thần hăng say sản xuất và sẵn sàng chiến đấu bảo vệ quê hương. Ngày 28/5/2010, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ký quyết định số 738/QĐ-CTN tặng quân dân Hải Chính Danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân. 

Chiến công này cũng như nhiều chiến công làm nức lòng quân dân nửa thế kỷ trước như trận đánh mìn ga Phạm Xá, phát súng của Hà Minh Trí trên cao nguyên, nhấn chìm chiến hạm Amyot d'Inville... nửa thế kỷ sau mới được công nhận là anh hùng.

Ngày 27 tháng 2 năm 1966 không quân Mỹ chỉ mất một máy bay F105D ở Thái Lan vì hỏng máy. Máy bay này mang số đuôi 624362, do thiếu tá Richard A Bevan điều khiển. Vậy cái F-105 bị bắn rơi ở xã Hải Chính mang số hiệu bao nhiêu, do ai lái?  

 

Saturday, 6 October 2018

Nhân vật Chợ Lớn: Bá hộ Xường, Quách Đàm và Tạ Mã Điền (Nguyễn Đức Hiệp - Hiệp's Blog)

(https://hiepblog.wordpress.com/2016/02/12/nhan-vat-cho-lon-ba-ho-xuong-quach-dam-va-ta-ma-dien/)

Nhân vật Chợ Lớn: Bá hộ Xường, Quách Đàm và Tạ Mã Điền

Lịch sử thành phố Chợ Lớn gắn liền với thương mại mà ở thế kỷ 20 xuất hiện các nhân vật đặc biệt. Các doanh nhân này đã để lại dấu ấn ít nhiều trong ký ức người dân Saigon-Chợ Lớn không những về phương diện kinh tế mà còn văn hóa xã hội. Một số các tư liệu mới cho phép ta biết thêm về các nhân vật này trong đó có ông Lý Tường Quan (Bá hộ Xường) và gia đình, ông Quách Xiêm Chi (Quách Đàm) và ông Tạ Mã Điền.
Bá hộ Xường và gia đình
Gia tộc họ Lý bắt đầu từ ông Lý Sáng Công (1781-1855), tên tự là Lý Sáng Ế (hay Ái), người Hoa từ Quảng Đông đến miền Nam lập nghiệp và lấy vợ Việt là bà Trần Thị Thơ mất năm 1855. Lý Sáng Công sống ở Chợ Lớn (tức Saigon lúc bấy giờ được gọi) đầu thế kỷ 19. Ông được người con thứ ba của ông là Lý Tường Quan (1842-1896) an táng ở khu mộ nay là khu một tổ gia đình họ Lý ở khu đất phường 12, Quận 5 ở góc đường Nguyễn Chí Thanh và Ngô Quyền phía sau cây xăng 147 Nguyễn Chí Thanh ngày nay. Ông Lý Tường Quan do có tài và thành công trong thương trường được bầu là bang trưởng bang Triều Châu ở Chợ Lớn và người dân thường gọi ông là Bá hộ Xường.
Chủ đất lúc đó là Lý Thanh Huy (1864-1915), con của ông bá hộ Xường Lý Tường Quan. Khu mộ đất này cũng được gọi nôm na là “khu nhà thờ Xóm Bột”. Ông Lý Văn Mạnh (1884-1937), con của ông Lý Thanh Huy thừa hưởng chủ quyền đất. Sau này khi ông Mạnh mất, người em là Lý Thị Lài (1910-1989, cháu nội bá hộ Xường Lý Tường Quan) là người trông coi khu nhà thờ Xóm Bột sau khi bà về đây ở vào khoảng năm 1948. Khi ông bà Lý thị Lài mất, con ông bà là Trần Lý Trí hiện nay được gia đình họ Lý giao giữ gìn khu mộ này. Trưởng tộc họ Lý ngày nay là ông Lý Toàn Anh (cháu nội Lý Tường Quan) là cán bộ hưu trí vẫn còn sống cư ngụ tại 260 Nguyễn Chí Thanh.
Bá hộ Xường khi còn sinh thời cư ngụ ở trung tâm Chợ Lớn cạnh rạch Chợ Lớn, nay là 292 đường Hãi Thượng Lãn Ông. Nhà của ông cũng không xa ngôi nhà đồ sộ của một người Minh Hương khác là ông Đỗ Hữu Phương (nay là đường Châu Văn Liêm) gần đó và nhà và trụ sở công ty của ông Quách Đàm (114 quai Gaudot). Căn nhà cổ này (nay là Từ đường họ Lý) đã được xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật cấp thành phố vào năm 2009. Gia đình ông bá hộ Xường có nhiều nhà cửa ở Saigon-Chợ Lớn.
Ông mất năm 1896, được an táng ở Phú Thọ Hòa, Tân Phú, khu mộ này nay vẫn còn. Ông là người thông minh lanh lợi, được viên sĩ quan hải quân trẻ người Pháp Albert Gaudot dùng làm thông dịch viên sau khi Gaudot được giao trách nhiệm quản lý thành phố Chợ Lơn năm 1863. Gaudot cũng là sĩ quan tham gia trận đánh đồn Kỳ Hòa năm 1861. Khi Gaudot mất vì bệnh ở Côn Đảo, bến dọc rạch Chợ Lớn được đắt tên là quai de Gaudot (sau này lấp thành đường khổng Tử và nay là đường Hãi Thượng Lãn Ông)
Tất cả các cơ ngơi của ông Lý Tường Quan để lại cho các con ông. Một trong những người con của ông là Lý Thành Huy. Ông Huy tiếp tục con đường kinh doanh của người cha. Theo nghị định đăng trên Bulletin official de lIndochine française năm 1894 (1) cho phép ông Lý Thành Huy (1864-1915) xây lại nhà ở số 3, làng Nhơn hòa, xã Tân Hòa, trên đường lộ 3 (route colonial no. 3, quai de Mytho, nay là đại lộ Võ Văn Kiệt) và xây một cầu qua hố ở bên phải đường, để vô nhà dễ dàng. Nghị định cũng cho phép ông xây lấp hố trên đường số 4 trước nhà ông trên đường Boresse.
Theo nghị định ngày 4 tháng 1 1897 của Phó soái Nam Kỳ (lieutenant-gouverneur), ông Nguyễn Kim Thinh thay thế Lý Thanh Huy, vì ông Huy từ chức chức vụ thông ngôn của mình (2). Một nghị định sau đó ngày 16 tháng 12 1897 cho phép ông Lý Thanh Huy xây lại các nhà trên lô đất ở giữa cột mốc 96 và 97 trên đường lộ 3 ở quai de Mytho (3). Điều này chứng tỏ sau khi từ chức ông Huy tham gia vào các hoạt động thương mại xây địa ốc nhiều hơn vì trước đó ông đã có làm ăn trong thương mại như xây nhà 64 rue de Cai-mai (Nguyễn Trãi ngày nay) và các nhà của ông ở quai de Mytho theo giấy phép ngày 24/12/1895 của chính quyền (4).
Theo văn bia trên mộ của ông có ghi một số thông tin về ông Lý Tường Quan như sau (5)
“Ông Nguyên gốc người tỉnh Quảng Đông, huyện Phiên Ngung thuộc đời thứ 26 phái Cửu Viễn đường họ Lý, tên là Lý Tường Quan, hiệu là Phước Trai, sanh tại thôn Nhơn Hòa (Gia Định) vào năm 1842, lúc mới sanh có “hồng hoa bao để” (đẻ bọc điều) nên đặt tên là Tường Quang.
Thuở nhỏ, làu thông sách vở, trọn đạo hiếu để. Khi lớn lên giữa lòng trong sạch, ra sức làm việc, trên thuận dưới hòa, chăm lo đọc sách, lại phàm việc bắn cung cởi ngựa, viết chữ bói toán, cầm kỳ thi họa đều lảo thông. Thoạt đầu là Bang trưởng bang Triều Châu, khi Pháp đến cử ông làm bang trưởng 7 bang Hoa kiều, kiêm thông dịch cho người Pháp – việc thành lập 25 Hộ trưởng trong đô thành đều do công sức của ông. Sau đó ông về trí sĩ, lo việc buôn bán. Người Pháp nhiều lần mời mọc ông tham gia chính quyền nhưng ông đều từ chối. Tiếp đó, ông nghỉ việc buôn bán, bỏ ra 20 năm đầu tư vào việc xây chợ, bắc cầu, xuôi ngược khắp nơi, vang tiếng một thời.
Đến năm 1896 ngày 21 tháng 10, đang truyện trò cười nói như thường, bỗng nhiên kháng bệnh, rồi mất …”
Theo ông Võ Văn Sổ, ông bá hộ Xường không những giỏi trong thương trường, ông còn là một người có học biết nhiều. Ông bá hộ Xường (Lý Tường Quan) còn để lại ít nhất 3 tựa sách in ở Quảng Đông mà ông là tác giả (Phiên Thành Phước Trai tiên sinh): Ấu học thi diễn nghĩa, Thiên tự văn diễn nghĩa. Tam tự kinh diễn nghĩa. Nội dung thiên về giáo dục, viết bằng chữ Hán và dịch ra Nôm theo thể văn thơ.
Quách Đàm
Trong số các thương gia tiêu biểu giàu có và nổi tiếng đầu thế kỷ 20 ở Saigon và Chợ Lớn, ngoài ông Bá hộ Xường là các ông Tạ Mã Điền, Quách Đàm. Tạ Mã Điền gốc người Phúc Kiến từ Java, thuộc địa Hòa Lan) trong khi Quách Đàm là người gốc Triều Châu từ Trung Quốc, cả hai đến Chợ Lớn lập nghiệp, buôn bán và thành công vượt bực làm chủ các nhà máy xay lúa, địa ốc, các cơ sở làm ăn trong Chợ Lớn trong thập niên 1920. Họ định cư và coi Việt Nam là quê hương thứ hai của họ.
Như nhiều thương gia ở Chợ Lớn, Quách Đàm có liên hệ với các thương gia ở Singapore trong đó có ông Tan Eng Kok (Trần An Quốc). Trong một thông báo đăng trên báo “The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser” ngày 24 April 1923, trang 5 (8), luật sư. A. De Melo, của công ty “Société Thong Hup Nguyen Seng”, và các ông Trần Chiêu Vinh và Quách Đàm (viết theo tiếng Anh là Kwek Tam hay Kwek Siew Tee) đã tuyên bố rút lại các giấy tờ ủy nhiệm quyền đại diện của công ty ở số 80 Boat Quay, Singapore cho ông Trần An Quốc (Tan Eng Kwok cư ngụ tại số 80 Boat Quay) và ở 192 New Bridge Road, Singapore từ các năm 1920, 1921. Công ty Thong Hup (Thông Hiệp) chính là công ty của ông Quách Đàm.
Ngoài tên Kwek Tam (Quách Đàm) hay Kwek Siew Tee (Quách Xiêm Chi) phiên âm ra tiếng Anh, Quách Đàm có thể còn có các tên khác phiên âm qua tiếng Anh. Điều này thường thấy ở người Hoa giàu có, mang các quốc tịch khác nhau như một bài viết trên báo “The Singapore Free Press and Mercantile Advertiser” (4/8/1899) (9) cho biết là tờ báo “Le Mekong” ở Saigon đã có bài than phiền là nhà chức trách Pháp đã quá dễ dàng cho những thương gia giàu ở Chợ Lớn, Nam Kỳ được có quốc tịch Pháp. Và chính những người này cũng đã có quốc tịch khác như Anh, Hòa Lan với các tên khác. Khi ở Nam Kỳ thì họ dùng quốc tịch và tên Anh để dễ làm ăn và có đặc quyền mà lãnh sự Anh có qui chế cho các kiều dân của họ, và ngược lại khi ở các thuộc địa Anh thì họ dùng tên trên giấy tờ quốc tịch Pháp.
Ngoài câu nói “Nhất Sĩ, nhì Phương, Tam Xường, tứ Định” để chỉ các nhân vật giàu có ở Saigon-Chợ Lớn, còn có câu nói riêng về các người Hoa giàu có ở Saigon-Chợ Lớn là “Nhất Hỏa, nhì Đàm, tam Xường, tứ Ích“, cho thấy Quách Đàm là nhân vật Hoa kiều thứ hai sau chú Hỏa về cơ sở thương mại và sức mạnh kinh tế. Trụ sở của nhà buôn Quách Đàm nằm ở bến Quai de Gaudot cạnh rạch Chợ Lớn (sau này khi rạch lấp, Quai de Gaudot trở thành đại lộ Boulevard Gaudot, sau thời Pháp là đường Khổng Tử và nay là Hãi Thượng Lãn Ông). Tòa nhà này hiện nay vẫn còn.
Theo Vương Hồng Sễn (6) thì về sau Quách Đàm rất giàu có, và khi mất,
“Khi Quách Đàm chết, đám ma lớn không đám nào bằng. Bàn đưa không thể đếm. Đủ thứ nhạc Tây, Tàu, Ta, Miên… Khách đi dường có việc, miễn nối gót theo đám ma vài bước là có người lễ phép đến dâng một ly nước dừa hay la ve (bia) và riêng tặng một quạt giấy có kèm một tấm giấy “ngẫu” (năm đồng bạc) đền ơn có lòng đưa đón! Quách Đàm được chôn ở gần chùa Giác Lâm giáp ranh Chợ Lớn và Gia Định” (6)
Cũng theo Vương Hồng Sễn thì tương truyền Quách Đàm rất mê tín, tin phong thủy được thầy bói Tàu nói là nơi trụ sở bến Gaudot là nơi “đầu một con rồng” mà khúc đuôi nằm ở biển cả. Vì thế Quách Đàm không bao giờ đổi trụ sở dù là nhà mướn, đi nơi khác sau khi rất giàu có thành công trên đường làm ăn. Nên khi xảy ra sự việc lấp kinh thành đường thì ông tin rằng cơ sản làm ăn lụn bại vào lúc thời khủng hoảng kinh tế thế giới 1929 là do việc lấp kinh Chợ Lớn này (6). Tuy vậy, Vương Hồng Sễn đã sai lầm về dữ kiện này vì thật ra Quách Đàm đã mất từ năm 1927.
Hai nguồn thông tin mới mà chúng tôi cập nhât thêm về con người và thân thế Quách Đàm đó là hai bài báo đăng ở nhật báo Le Journal phát hành ở Paris và tờ báo Écho Annmite ở Saigon đăng lại bài trên báo L’Impartial nói về đám tang của Quách Đàm.
Trong bài báo tựa đề “Le Bouddha de la richesse“, đăng ở tờ nhật báo “Le Journal” xuất bản ở Paris ngày 18 tháng 7 1927 có đăng bài của phóng viên Georges Manue về cuộc đời và đám tang của Quách Đàm cho biết nhiều chi tiết về con người Quách Đàm (11). Mắc dầu ông bị liệt giường bất động từ nhiều năm trước khi mất, nhưng đầu óc vẫn minh mẫn và ông vẫn tiếp tục điều khiển công việc làm ăn từ giường nằm. Bài báo này cũng cho biết, Quách Đàm từ một người bước xuống Chợ Lớn từ trong hầm tàu đi ra trên tàu khởi hành ở Hồng Kông, trên tay hoàn toàn không có gì mà chỉ không bao lầu ông đã trở thành đại phú đến hai lần.
“…
Lúc thuở ban đầu, ông làm bồi, cu li, bán súp hủ tiếu, tiểu thương kiếm lời từ xu đến chủ tiệm sang trọng, một nhà doanh nghiệp khôn khéo và biết bao nghề khác đã mang lại cho ông một tài sản khổng lồ mà chỉ trong vòng vài giờ ông đã mất hết trong trò chơi thương mại mà trước đó đã phục vụ ông rất tốt.
Hôm qua giàu, sáng nay nghèo giống như ngày ông từ Hong Kong ở trần từ hầm tàu bước xuống Chợ Lớn, ông không một mảy may tuyệt vọng, hay nao núng.
Nghèo tiền, nhưng giàu kinh nghiệm. Cũng chịu cực,cũng trau chuốt, cũng mềm dẽo từ một tinh thần dày dặn như trước kia, chỉ trong vòng 20 năm ông đã làm lại sự nghiệp và vượt quá đến nổi đã làm ngạc nhiên nhiều người Âu khi ông có cả chục triệu tiền piastres nhân lên 12 hay 13 lần để chuyển thành tiền franc

Ông làm ra tiền chỉ vì mê trò chơi thương trường. Ông có nhiều ruộng lúa và nhiều nhà may xay xát. Ông có cả ngàn hec ta cao su, trước khi cao su trở thành mốt làm ăn, và cả đất trồng trà, cà phê và một dội tàu thương mại đi các cảng Singapore, Hồng Kông.
Ông đứng đầu cả trăm tiệm, cơ ngơi thương mại, và điều khiển nhiều chục công việc, xây dựng nhiều khu hoàn toàn mới Nước Pháp đã tặng ôn huy chương Bắc đẩu bội tinh mà ông lấy đó làm hảnh diện.
Trong nhiều ngày thi hài đã dược đặt dưới tán lều để tất cả Chợ Lớn- từ điền chủ và nhà thương mại đi bằng 40 con ngưa đến các cu-li bụng trần – đến cúng viếng. Ngồi hàng dài, mặc đồ tang trắng là các con ngồi bất động, nhận chia buồn và phúng điếu của bá tánh.
Đám tang không những làm ngạc nhiên đối với người Hoa, với họ không hoành tráng nào là đủ, và người Việt, kém xa hoa hơn, mà ngay cả người Âu.
Hai ngàn cờ hiệu bằng lụa, hình chữ nhật dài 3 m và ngang 2m, màu hồng, sám, xanh da trời, vàng và xanh lá cây được trang hoàng bằng những chữ vàng, ca ngợi công đức của người đã mất. Gió làm chúng phồng lên như cánh buồm con tàu có gân vàng, những người mang chúng – dân Chợ Lớn – già có thể được như vây và trẻ ngày mai muốn trở thành Quách Đàm, lưng tròn bám vào các cột tre xanh\. Để người mất không phải bị đói ở thế giới kia, cả trăm cu-li mang trên kiệu những hàng kiến trúc hoa quả đáng phục, các kim tự tháp rau quả, các ma quỷ tạc vào bí rợ hay trái ớt, các con rồng được mô hình trên các trái cây đẹp mắt, và món để dành cao vị nhất là mười con heo to lớn, `mg dài trên đệm bằng giấy, bụng chúng mổ ra, mỏm chúng nướng đỏ tươi sáng\. Những “biểu tượng bề ngoài cho sự giàu có” đi trước xe tang: một xe hơi, lộng lẫy tự nhiên, làm giống y như xe hơi của người đã khuất, xe kéo, xe ngựa buộc vào hai con ngựa kéo nhún nhẩy, và sau cùng một con tàu dài hai thước mang cờ hiệu Pháp-Hoa, một công trình tuyệt vời bằng giấy, bằng giây sắt và lụa mà những người nghèo khó mang rất tự hào trên vai trần của họ
Trước xe tang là thập tử Bắc đẩu bội tinh cao như người bằng giấy cạt tông (carton) do một người cầm trên hai tay.
Xe tang là xe vận tải camion trang trí đầy hoa và quả, ngay trước xe là di ảnh chụp của ông Quách Đàm, trang trọng một cách tự nhiên đầy uy quyền, mĩm cười và trên ngực là các huy chương
Quan tài bình thường nhưng bằng gỗ quý. Đằng sau là 50 xe hơi sang trọng, thuộc tinh hoa của Chợ Lớn, theo sau
Đám tang kéo dài hai tiếng với âm nhạc lạ kỳ.
Dân chúng người Hoa ở đầy vĩa hè, các cửa sổ, trên các cành cây, trên nóc nhà xem đám tang đầy cảm phục nhưng không ngạc nhiên.
Sự đau buồn, không có một dấu hiệu nào ở những người mà cái chết không đáng sợ gì khi mà người đó không còn buộc các con tưởng nhớ họ
Người hướng dẫn viên nói tôi “Anh thấy đó, đây là một bằng chứng mà người Hoa có thể làm được khi mà họ sống dưới một chính phủ vững vàng bảo đảm được an ninh cho họ làm ăn”

Quách Đàm mất ngày 14/5/1927, thọ 65 tuổi. Cáo phó đăng trên tờ Écho Annamite (Tiếng Vọng An Nam) (1) ngày 18/5/1927 (7) như sau
“Avis de décès
Madame Quach-Dam; Monsieur Quach-Khoi ; Monsieur Quach-Tien ; Monsieur Quach-Chi; Monsieur Quach-Hoc ;
Ont la douleur de vous faire part de la perte cruelle qu’ils viennent d’éprouver en la personne de leur époux et Père
Monsieur QUACH-DAM,
Négociant-Industriel, Chevalier de la Légion d’Honneur, Chevalier de l’Etoile Noire, Chevalier de l’Ordre royal du Cambodge,
Décoré par le Gouvernement Chinois de l’Ordre de Chiaho,
décédé le 14 Mai 1927, dans sa 65è année, en son domicile, 114, Boulevard Gaudot, à Cholon.
Les cérémonies rituelles auront lieu les Samedi et Dimanche 21 et 22 Mai courant.
Vous êtes prié de bien vouloi assister au convoi funèbre, qui partira de Cholon, le Dimanche 29 Mai, à 8 heures du matin.

(tạm dịch
Cáo phó
Bà Quách Đàm, ông Quách Tiến, ông Quách Chi, ông Quách Hộc;
Đau đớn báo tin về sự mất mát lớn lao của chúng tôi là chồng và cha chúng tôi
Ông QUÁCH ĐÀM,
Thương gia, kỹ nghệ gia, huân chương Bắc Đẩu Bội Tinh hạng hiệp sĩ, huân chương Sao Đen hạng hiệp sĩ (của nước Phi Châu Dahomey tức Benin ngày nay), huân chương hiệp sĩ Hoàng gia Cam Bốt.
Được thưởng bởi chính phủ Cộng Hòa Trung Hoa huân chương Chia Ho
Đã từ trần ngày 14 tháng 5 1927, thọ 65 tuổi tại tư gia ở số 114 đại lộ Gaudot, Chợ Lớn.
Nghi lễ đám tang sẽ được tổ chức vào ngày thứ bảy và chủ nhật 21 và 22 tháng 5 1927.
Chúng tôi kính cẩn mời quý ông quý bà đến giúp đỡ đưa tiễn đoàn đám tang, rời Chợ Lớn lúc 8 giờ sáng ngày chủ nhật 29 tháng 5.
)
Đám tang Quách Đàm thật là đình đám, khởi hành từ nhà ông đến nghĩa trang Phú Thọ. Tờ Écho Annamite (Tiếng Vọng An Nam) ngày 31/5/1927 (8) đã có bài phóng sự về đám tang Quách Đàm như sau, đăng lại từ báo “l’Impartial” (Trung Lập). Qua bài phóng sự này về đám tang đầy nghi thức Trung Hoa, được hảng phim Indochine Films quay, khen ngợi công dân nhập tích Pháp là ông Quách Đàm, chúng ta cũng biết được tên thật của Quách Đàm là Quốc Triệu Chí (chú thích tác giả: thật ra là Quách Xiêm Chi) và thi hài ông được cải tang mang về Hồng Kông.
Lời nói đầu của báo Tiếng Vọng An Nam, phía trên bài phóng sự trích dẫn từ báo l’Impartial cho thấy quan điển của tờ Tiếng Vọng An Nam là dung bài này để chống lại sự ngụy biện của chính quyền lúc bấy giờ về sự từ chối của chính quyền cho quốc tịch Pháp nhiều người thấm nhuần văn hóa Pháp còn nhiều hơn Quách Đàm và xứng đáng hơn, viện dẫn lý do là họ vẫn còn có văn hóa khác không xứng đáng.
Đám tang Quách Đàm
“Chợ Lớn hôm qua đã làm một lễ tang hoàn tráng cho ông Quách Đàm.
Sau bình minh, đại lộ Gaudot đã đen nghẹt kín người. Nhiều xe hơi đến rất khó khăn di chuyển. Nhiều hàng rào đã được thiết lập liền sau đó bởi một lệnh phục vụ công cộng quan trọng do ông Massei, ủy viên trung ương, điều hành được trợ giúp bởi ông Costa, phó ủy, ông Pétra, thuộc sở kỷ thuật cu/a thành phố Chợ Lớn, v.v…
Những sữa soạn cuối cùng
Trên đại lộ, hai nhà tranh to lớn được dựng lên, một gian để chứa các đồ quan trọng mà khi chôn cất một người Hoa giàu luôn phải có, gian kia bên ngoài giăng các vãi đen và trắng và bên trong là quan tài và rất nhiều băng hiệu vòng hoa (có hơn 1500) đến từ khắp mọi nơi ở Nam Kỳ và một số từ Bắc Kỳ, Cam Bốt và cả Trung Hoa nữa.
Các toán cu-li khuân vác rối rít chung quanh xe tang và đủ loại xe đưa đám. Đằng trước đoàn, chúng tôi để ý một xe mang một ảnh lớn của người đã khuất, bàn thờ tổ tiên và hai xe khác mang đầy loại giấy linh thiêng và các loại biểu tượng khác đủ loại\.
Không lâu sau đó, ở chính giữa một đám đông chật kín, quan tài nặng được mang ra ngoài. Một ban nhạc An Nam khởi xướng âm nhạc, các cồng phát ra tiếng đau buồn. Ban quân nhạc bản sứ dưới sự điều khiển của ông Perulli, đứng thẳng hàng trước xe tang. Thi hài người đã khuất được đặt trong quan tài làm bằng chì, quan tài này được bao chung quanh bởi một quan tài khác rất cao làm bằng gỗ quý, tất cả đều được phủ bởi nhiều vãi. Hai ngọn đèn to lớn ở phía trên cháy chầm chậm. Một toán quân lính, lấy từ Đại đội Chợ Lớn của binh đoàn 1 lính khố đỏ (Tirailleurs Annamite), do trung úy Monnet chỉ huy, đứng vào vị trí để làm vinh dự, vì người đã khuất là hiệp sĩ Bắc Đẩu Bội Tinh.  
Sau đó, trong lúc người quay phim của hảng Indochine Films chăm chú quay, quan tài được mang lên xe tang, hoàn thành hết các thủ tục cuối cùng. Rất nhiều quan khách bắt đầu đi tiến dồn vào.
Rất có phương pháp trật tự, các cờ hiệu đã được đánh số kỹ lưỡng, đi chậm rãi trên đường Lareynière (Lương Nhữ Học ngày nay) và đường rue des Marins (đường Thủy Binh, sau này là Đồng Khánh và nay là Trần Hưng Đạo nối dài), cũng như vô số vòng hoa, bó hoa và ngay cả các thú vật đẹp đẻ làm bằng hoa.
Tất cả thành viên gia đình trong đoàn tang, chịu tang, đàn ông mặc áo dài trắng, đầu phủ một loại mũ khá lạ rất chắc màu nâu đỏ, hay xanh da trời đậm nếu là họ hàng xa. Tất cả những người công bộc giúp việc cũng trong bộ đồ tang, màu xanh lợt và đàn bà thì màu đen.
Bây giờ đến những biểu tượng cuối cùng: hai xe kéo được trang hoàng rất cẩn trọng, một vài xe ngựa làm rất giống như thật, một tàu kéo sà lúp (chaloupe) hơi nước – thể hiện là người đã khuất là chủ tàu và các xe rất thành công. Ở chính giữa rất nhiều những vật như vậy là một cái kiệu nhỏ làm bằng lụa vang và xanh da trời, ngay trước xe tang, và dưới kiệu là một cái gối dựa màu đỏ sậm trên đó có gắn 10 huy chương của người đã khuất, với huy chương chử thâp Bắc đẩu bội tinh ở hàng đầu. Kiệu này được cung kính khiêng cho đến nghĩa trang bởi những người thân nhất của người đã khuất.
Trong lúc đó, nhiều người nói chuyện. Những người lớn tuổi ở Chợ Lớn cho những người trẻ, hay những người khác chưa biết về cuộc đời lao lực tân tâm và những hoạt động phi thường của ông Quách Đàm, từ hơn 40 năm ở Nam Kỳ, bắt đầu từ một tình huống tầm thường khiêm tốn, nhưng nhờ nghị lực chuyên tâm rất hiếm, đã thay đổi vận mệnh. Ban đầu là tiểu thương, sau đó buôn bán gạo, rồi chủ tàu, buổi đầu của chiến tranh thế giới 1914 đã phá sản hoàn toàn sản nghiệp rất lớn của ông. Ông không bì sóng đánh chìm mà trở lại thành công còn hơn trước.
Nhưng lúc nào cũng nghĩ đến thuở hàn vi, và mặc dầu do bịnh liệt từ 10 năm, hạn chế trầm trọng hoạt động của ông, ông đã chịu đựng can đảm cho đến phút cuối cùng, vẫn biết giúp đỡ ủy lạo làm nhẹ bớt sự khốn quần trong xã hội, luôn hổ trợ các bệnh viện, trường học và các hội thợ thuyền, và không bao giờ thờ ơ đến sự đau khổ của người khác cũng như công việc cu/a mình.
Đoàn đám tang
Hiển nhiên chính là để tỏ lòng kính trọng cuối cùng đến tất cả các đặc tính xuất sắc rực rỡ này mà rất nhiều nhân vật Saigon và Chợ Lớn đã hiện diện sáng hôm qua, sau 7 giờ rưỡi chung quanh quan tài.
Chúng tôi nhận thấy những nhân vật, mà ngòi viết không viết hết đầy đủ được, ông Gazano, thị trưởng Chợ Lớn; ông Lefèvre, thị trưởng Saigon; ông Merle, tổng thư ký thị sảnh Chợ Lớn ; ông Thomas, giám đốc Hảng rượu Bình Tây (Distilleries de Binh Tay) ; ông Levillain, des Services du Port; những hội viên cu/a Phòng thương mại người Hoa (Chambre de Commerce chinoise); ông Brandela, của nhà Bank Đông Dương (Banque de l’Indochine) ; bà Lasseigne và Soulet, của Banque Franco-Chinoise ; bác sĩ Massias, bác sĩ trưởng bệnh viện Hôpital Drouhet, và phu nhân; bác sĩ Pradal ; ông André, trưởng phòng tòa thị sảnh Chợ Lớn: ông Kerjean, thư ký tòa án; ông Dété, quản trị viên công ty Société Commerciale ; ông Mathieu ; ông Béziat ; ông Gonon; ông Cavillon và hầu như tất cả thương kỹ nghệ gia ở Saigon và Chợ Lớn; Dr Ferrey, bác sĩ hải quân ; ông Magnien giám đốc đường lộ ; bà hiệu trưởng trường nữ sinh Chợ Lớn (Ecoles de filles de Cholon) ; ông Denome, kỹ sư ; ông Robert, hiệu trưởng trường lycée Franco-Chinois ; đoàn đại biểu báo chi Hoa ngữ ở Nam Kỳ, tất cả các bang trưởng các bang người Hoa và rất nhiều trưởng các khu phố, ông Autret, giám đốc L’U. C. I. A. ; ông Scotto, cu/a công ty Société Commerciale française d’Indochine; đoàn đại biểu nhân viên phòng Thương mại ; ông Caffort ; ông Poulet, của công ty Courtinat ; giám đốc nhà máy cung cấp nước và điện (Usines de la Cie les Eaux et Electricité) : ông Génis, công ty Denis Frères, các đại diện Hải quân, Sở Y tế etc. etc.. và rất nhiều các nhân vật khác mà chúng tôi xin lỗi là không nêu tên hết được vì một cột báo không đủ và cũng rất là khó khăn, hôm qua, đi được nhanh khắp nơi để ghi nhận.
Hành trinh cuối cùng
Nhưng lúc này là 8 giờ.
Ba người con trai của người đã khuất, trong y phục tang trắng, đến đứng sau xe tang, cũng như các con dâu, cháu và những họ hàng, mỗi người được hổ trợ diều đi bởi hai người giúp việc, ở đây không có những người “khóc mướn” chuyên nghiệp.
Một lệnh ngắn được ra: sửa soạn nghim. Kê đó là tiếng lệnh mạnh mẽ: gác súng lên. Những nốt nhạc đầu tiên của bài La marche funèbre của Chopin, được chơi bởi Ban quân nhạc bản xứ, và từ từ, đoàn đám tang bắt đầu di chuyển.
Thời tiết lúc đầu thì bất định, lúc này thì lại sáng hơn chút. Một vài tia sáng mặt trời ấm xuất hiện chỉ trong chốc lát.
Trước xe tang, các cờ hiệu nối nhau như tranh vẽ một dãi lụa nhiều màu sắc dài đến gần 2km, chỉ có màu đỏ, màu của sự vui mừng là không có thôi; vãi lụa bóng sáng khắp nơi, ca tụng những công trạng của Quốc Triệu Chi – tên thật của ông Quách Đàm – với tất cả sự hối tiếc giữa những người Hoa ở Đông Dương về sự ra đi của ông.
Không tránh khỏi có vài lúc đi rồi lại phải dừng, đoàn đám tang đi trong lộ trinh đã định sẵn: đường rue Lareynière (Lương Nhữ Học), rue des Marins (đường Thủy binh, nay là Trần Hưng Đạo nối dài), avenue Jaccaréo (Tản Đà), quai de Mytho (bến Lê Quang Liêm, nay là đại lộ Võ Văn Kiệt), quai de Gaudot (nay là Hãi Thượng Lãng Ông), rue de Canton (Triệu Quang Phục). quai de Mytho — trở lại lần nữa — và rue de Paris (Phùng Hưng)..
Kế đó, từ đại lộ Tổng Đốc Phương (Châu Văn Liêm ngày nay) và đại lộ Thuận Kiều, đám tang đi chậm rãi đến nghĩa trang Phú Thọ.
Tất cả cờ hiệu lóng lánh, lung linh dưới ngọn gió hay dưới sự ve vuốt của mặt trời, tạo nên một quang cảnh rất ấn tượng. Chợ Lớn, ngày thường thì rất ồn ào, nhưng lúc này thật yên lặng, dường như bị rơi vào trạng thái sững sờ. Tất cả mọi người muốn xem, nhưng không có tiếng kêu than, hay xô đẩy chen lấn. Ông Quách Đàm ngay cả lúc mất vẫn luôn tạo một sự kính trọng !.
Một vài ban nhạc An Nam hay Trung Hoa, xen kẻ trong đoàn rước tang. Sáo, cồng, trống và đờn kéo được thay phiên nhau dạo lên. Trên nhiều cáng khiêng, có các con heo rô ti hay phết bóng, con dê, trái cây, bánh, hai con heo bụng mổ, đồ cúng, giấy bùa ngãi linh và những hình tượng khác. Tất cả những thứ này đi rất thứ tự và trong yên lặng dọc theo bến quai de Mytho, rue de Paris (đường Phùng Hưng) giữa sự kính trọng của người dân.
Sau gia đình và những nhân vật như đã kể trên, nhiều đoàn thể quan trọng cũng đi trong đám tang. Đây, trước tiên là học sinh trường tiểu học Nghĩa An, trường Văn hóa thể dục, và nhiều trường nữ, và đại diện cu/a rất nhiều nghiệp đoàn công nhân, mà ông Quách Đàm là người ân nhân bảo trợ: ngiệp đoàn Tiên Quan, nghiệp đoàn Won Quan, nghiệp đoàn Lit-Yut, nghiệp đoàn Đức Hòa, nhóm quan trọng có thế lực là nghiệp đoàn Si-Trac (công nhân rơm sợi) và nghiệp đoàn Si-Koc với ban nhạc của họ. Tất cả mọi người mặt đồ trắng biểu hiệu tang lễ hay đồ màu sám “quốc gia”, với các huy hiệu và hoa gắn ở lỗ nút áo, đứng chung dưới các băng rôn to lớn hay các cờ hiệu, mà đặc biệt trong đó có một cờ hiệu gây sự chú ý với hàng chữ “kính chào lần cuối từ tất cả nghiệp đoàn ở Chợ Lớn”.
Đúng vậy, cái chết không tha ai kể cả những người may mắn có tài. Ở Phú Thọ, lúc rất trễ gần đến hết buổi sáng, dưới bầu trời âm u, sau khi chôn cất còn có quan tài thứ ba đợi lúc bóc xác ông Quách Đàm. Bởi vì trong một năm, sau khi “hết hạn cơn gió lốc”, người Tàu giàu nhất ở Chợ Lớn sẽ lại lên đường đi Hồng Kông, để đến nơi an nghĩ thật sự vĩnh viễn ở đất tổ tiên và cuối cùng, sau một cuộc đời thật trọn vẹn, hưởng sự bình yên tuyệt đỉnh mà đức Phật đã hứa hen và đạt được hạnh phúc trong cõi Niết bàn”
Một chi tiết đáng để ý là theo bài nói về câu chuyện giữa hai ông Celestin Miche và ông Jean Boudot do ông Nguyễn Phan Long viết trên tờ Tiếng Vọng An Nam số ngày 4/6/1927 (9) khi hai ông này dự đám tang Quách Đàm và tranh luận về các nghi thức văn hóa người Hoa có hợp hay không với vị trí công dân Pháp của Quách Đàm. Trong đó Bouchot và Miche được đưa phong bì có tiền sau khi thăm viếng. Bouchot muốn từ chối nhưng Miche nói đó là phong tục của họ thì phải theo như nhập gia tùy tục. Dữ kiện này cũng phù hợp với dữ kiện mà ông Vương Hồng Sễn có viết là mỗi người dự đám tang Quách Đàm đều nhận được tiền.
Con trai trưởng Quách Đàm là Quách Khôi cũng mất sau đó vào năm 1929, đám tang Quách Khôi cũng đình đám và lần này có phi công, ông Poulet tham dự và đặc biệt một phi cơ của công ty “Air-Asie” vừa mới sáng lập, bay trên doàn đám tang và thả bông hoa xuống (14)
Ba năm sau khi ông Quách Đàm mất, báo Tiếng Vọng An Nam số ngày 17/3/1930 có bài phóng sự về buổi khai trương tượng Quách Đàm làm bằng đồng và bồn nước trong sân vào của chợ Bình Tây ngày 14/3/1930 với sự hiện diện của bà Quách Đàm, các con Quách Tiêu, Quách Thi, Quách Fat, ông Eutrope đại diện thống đốc Nam Kỳ, ông Renault thị trưởng thành phố Chợ Lớn, ông Nguyễn Văn Của chủ nhà in và nhiều viên chức, doanh thương các công ty.
Ngày nay ký ức của người Saigon-Chợ Lớn về ông Quách Đàm chủ yếu là gắn liền với chợ Bình Tây và toà nhà trụ sở công ty Thông Hiệp trên đường Hãi Thượng Lãn Ông. Tuy nhiên còn nhiều dữ kiện về sự nghiệp thương mại, tính cách đầu tư và cá tính của ông còn chưa được biết. Báo Écho Annamite đăng ngày 2/5/1927 về nhà máy xay xát lúa của ông ở Mỹ Tho rất ô nhiễm đã làm 2 phần 3 dân chúng phải chịu bụi khói xã ra từ các ống khói vào nhà dân, bàn ghế, đồ gia dụng, quần áo bám đầy bụi, đường xá nhiều nơi phủ bụi dầy đến nổi không thấy được mặt đường nhựa hay cát. Ống khói nhà máy cao đến 32m nên xã bụi hầu như đến toàn thành phố và dự định sẽ làm cao thêm 6m. Và qua nhiều lần trinh báo của dân đến chính quyền về vấn đề ô nhiễm gây hại đến sức khỏe do nhà máy gây ra, nhưng vẫn không được giải quyết cho thấy Quách Đàm có thể khuynh đảo chính quyền địa phương cho ông được có thế hơn trong thương trường như tác giả bài báo đã cho rằng sức khỏe dân chúng bị đã đồng tiền áp đảo.
Ông Quách Đàm còn tham gia ủng hộ ông Candelier vào năm 1924 (12), khi Văn phòng cảng Saigon, muốn cho thuê trong hai mươi năm lợi nhuận thuế cảng, cộng với sự độc quyền chuyên chở gạo và ngô ở cảng Saigon cho tổ hợp thương mại Pháp Homberg-Candelier. Thống đốc Nam kỳ Maurice Cognacq ủng hộ cho thuê độc quyền này nhưng các đại biểu Việt Nam trong Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial) chống lại. Đại biểu Nguyễn Phan Long, sau đó mở ra chiến dịch vận động chống lại sự độc quyền này, trên tờ báo do ông làm chủ bút, “Echo Annamite” (Tiếng vọng An Nam). Những thương gia người Hoa khác ở Chợ Lớn cũng tham gia với ông Nguyễn Phan Long chống lại thành công vụ “affair Candelier” độc quyền. Điều này cho thấy ông Quách Đàm bắt tay chặt với chính quyền và quyền lợi của một một số tư bản Pháp trong công việc làm ăn của mình. Năm 1926, Quách Đàm được thống đốc Nam Kỳ Cognaq, một người bảo thủ ác cảm với những nhà yêu nước Việt Nam, trao huy chương Bắc đẩu bội tinh ở dinh phó sứ (13).
Tạ Mã Điền
Tờ báo Écho Annamite (13/5/1925) (10) có đăng tin về một tai nạn xe mà chủ xe là ông Tạ Mã Điền cư ngụ ở nhà số 270 rue de Caymai (Nguyễn Trãi ngày nay). Lúc này xe hơi đã có nhiều ở Saigon, tin đăng như sau
“Hôm qua, vào buổi xế trưa, một tai nạn kinh hoàng đã xảy ra trước nhà số 49 Quai Testard (bến Testard cạnh rạch Phố Xếp, sau này lất thành đường ngày nay Châu Văn Liêm).
Đứa trẻ tên là Phan Văn Tri, con của ông Phan Văn Ngạn, ngụ tại địa chỉ trên, muốn băng qua đường, vừa lúc xe hơi số C 3886, của một người Hoa tên là Tja Mah Yen làm chủ, cư ngụ ở số 270 rue de Caymai (Nguyễn Trãi ngày nay), người lái xe tên là Trần Văn Minh 29 tuổi, cư ngụ ở nhà chủ xe, ông chủ xe hoảng hốt xuống nhanh như sao băng xem sao.
Đứa trẻ Trí không kịp để chạy vô nhà, xe hơi đã đụng làm Trí té nhào; Xe làm bé bị thương, một bánh xe cán qua người Trí.
Chủ xe kêu xe dừng lại, đứa trẻ bị thương nên chở ngay vào bệnh viện l’Hôpital Indigène de Ooohinchine.
Bác sĩ pháp y chẩn đoán bị lũng ruột và nạn nhân được giải phẩu ngay sau đó.
Một cuộc điều tra được tiến hành để xem ai là người chịu trách nhiêm tai nạn này.

Kết quả cuộc điều tra không rõ, nhưng chủa xe là người thế nào ?
Ông Tja Ma Yeng (Tạ Mã Điền) tục danh là Má Chín Dảnh sinh năm 1862 ở Batavia (Java) và mất năm 1940 ở đường Mai Sơn (trên đường này có chùa Mai Sơn tự), Chợ Lớn và được chôn ở nghĩa địa Minh Đức ở Phú Thọ. Ông là người Hoa gốc Phúc Kiến từ đảo Java (thuộc Hòa Lan lúc này) đến Chợ Lớn vào năm 1885 buôn bán và xuất khẩu gạo. Cũng như Quách Đàm, ông có các tàu vận tải chở hàng chạy bằng hơi nước và rất nhiều nhà cửa ở Saigon và Chợ Lớn. Ông là bang trưởng bang Phúc Kiến, hội viên của Hội Đồng thành phố Chợ Lớn.
Ông sở hữu hai nhà máy xay lúa Bang-aik-Guan (Vạn Ích Nguyên) và Ban-Hong-Guan. Trong giai đoạn đầu ông lập công ty buôn bán gạo “Ban Guan” (Vạn Nguyên), gia nhập quốc tịch Pháp năm 1905 và sau đó mua lại một nhà máy xay lúa chạy bằng hơi nước của một công ty Pháp (của ông Andrew Spooner trước kia) sắp sửa phải đóng cửa. Ông đặt lại tên nhà máy là Ban Aik Guan Steam Rice Mill Co. Ltd. Ông xuất khẩu gạo qua công ty của ông là “Hock Guan Hong. Bốn người con trai của ông, theo Tây học, Tạ Thanh Thuyền, Ta Thanh Tông, Tạ Thanh Hảo và Tạ Thanh Tri cũng đều tham gia vào lãnh vực thương mại.
Sau đó Tạ Mã Điền thấy nhà máy Ban Aik Guan Steam Rice Mill vẫn còn nhỏ. Để phát triển thêm, ông mua đất ở dọc bến Bình Đông và xây một nhà máy lớn hơn trang bị với máy xay lúa mới và đặt tên nhà máy mới này là “Ban Hong Guan”. Ông còn có cơ sở mua bán lúa và nhà máy xay lúa nhỏ ở 231 quai de Mytho.
Ông là người thành lập trường tiểu học Min-Zhang (Minh Dương) ở Chợ Lớn và trường trung học Pháp Hoa (Lycée Franco-Chinois), sau này gọi là trường Bác Ái (ngày nay là Cao đẳng Sư Phạm). Ông là bang trưởng bang Phúc Kiến, hội viên của Hội Đồng thành phố Chợ Lớn và “La Maison Retraite” (Asile des vieilards et des infirmes, thành lập ngày 27/11/1902 với F. Drouhet, thị trưởng Chợ Lớn, là chủ tịch). Ngoài ra ông còn là hội viên của “Association Nguyen Van Chi Pour la protection des aveugles asiatiques de cochinchine” (thành lập ngày 12/4/1905) mà trong Hội đồng quản trị của hội này có ông Rodier (Phó soái Nam kỳ) là chủ tịch danh dự, F. Drouhet, thị trưởng Chợ Lớn là chủ tịch và ông Quách Đàm, nghị viên thành phố Chợ Lớn là phó chủ tịch.
Qua sự đóng góp về phát triển kinh tế ở nam Kỳ, năm 1932 ông được chính phủ Pháp ban thưởng huy chương hiệp sĩ Bắc đẩu bội tinh (chevalier de Légion d’honneur).
Tham khảo
  • Bulletin official de l’Indochine française, N1, PART1, A1894
  • Bulletin official de l’Indochine française, N1, PART1, A1897, pp. 78
  • Bulletin official de l’Indochine française, N12, PART1, A1897, pp. 1278
  • Bulletin official de l’Indochine française, N1, A1896
  • Võ Văn Sổ, Tham luận về Hán-Nôm: Một số hiểu biết về Hán-Nôm, Gia Phả Việt Nam, Hội Khoa học Lịch sử Thành phố Hồ Chí Minh, http://giaphatphcm.com/giapha/chitiettintuc.php?id=59
  • Vương Hồng Sển, Saigon năm xưa, Nxb Trẻ, 2002.
  • Echo Annamite, 18/05/1927, A8, N879
  • Echo Annamite, 31/05/1927, A8, N889, Les obsèques de M. Quach Dam
  • Echo Annamite 4/6/1927, A8, N893, Nouvelle pour 1930.
  • Écho Annamite, 13/5/1925.
  • Georges Manue, “Le Bouddha de la richesse”, Le Journal, 18 Juillet 1927.
  • Nguyễn Phan Long, “Élements de conviction”, Écho Annamite, 2 Fevrier 1924.
  • Écho Annamite, 10/3/1926
  • Écho Annamite, 10/9/1929