Tuesday 17 January 2012

Nguồn gốc tên làng Hội Kê (tỉnh Thái Bình)

. Nguyên tại làng Thượng Hộ, xuôi về phía hạ lưu sông Hồng, có nổi thêm một khu đất bồi, rồi thành một khu bãi tiếp theo với một khu đất của làng Thượng Hộ và được ghi danh là MA-KÊ-XỨ với một diện tích khá rộng. Ma-Kê nghĩa là gì không ai hiểu rõ, chỉ đoán chừng là một nơi có trồng nhiều vừng. Khu đất Ma-Kê-Xứ này trước đó chỉ là một xóm của làng Thượng Hộ, và hiện nay thuộc về đất làng Gia Lạc, giáp với Mả Cả gần đình Gia Lạc hiện giờ. Ta cần nhớ rằng ở vùng này, trước kia cũng như bây giờ, Thượng Hộ là làng lớn nhất vùng, nên đã một thời được lấy tên để đặt cho tổng. Đó là tổng Thượng Hộ. Ngày nay, đơn vị hành chính không còn tổng nữa, chỉ có thôn, xã rồi huyện, tỉnh chứ không còn tổng và phủ nữa. Người đang viết đây còn nhớ rất rõ, hồi nhỏ đi học phải khai lý lịch như sau : Nguyễn văn Mỗ, làng Hội Kê, tổng Thượng Hộ, huyện Duyên Hà, phủ Tiên Hưng, tỉnh Thái Bình. Phải khai đầy đủ như vậy mới được coi là trúng cách.
          Khi được phép thành lập làng, các tổ phụ chúng ta đã đặt tên làng mới là HỘI KÊ. Theo sự diễn tả nôm na thì HỘI có nghĩa là sự hội họp của bốn họ sau đây :
          1. Nguyễn Hữu              3. Nguyễn Huy     2. Nguyễn Đình             4. Lương Huy
          Sau này có thêm một họ nữa là họ Trần ở bên kia sông Hồng thuộc Tảo Môn, Phương Trà, lúc đầu đến ngụ cư và sau này mới chính thức là dân làng, và Kê là địa danh của khu đất của xã Thượng Hộ, phía trên khu đất tân bồi. Nhưng sự thật bên trong, chữ Hội Kê còn hàm ý nghĩa rất sâu xa, chỉ con cháu dòng họ Nguyễn Hữu mới được nhắc nhở và hiểu rõ ý nghĩa. Ngày xưa, thường khi đặt tên cho một làng mới, các cụ đều có dụng ý sâu xa, ngầm nói lên được nguyện vọng của mình và để nhắc nhở, thúc đẩy tinh thần con cháu sau này luôn luôn nhớ đến trách nhiệm đối với tổ tiên.
          Theo chữ Nho thì chữ HỘI còn được đọc là CỐI. Vậy HỘI KÊ cũng có thể đọc là CỐI KÊ mà người đặt tên cố ý đọc là HỘI KÊ để che đậy thâm ý khỏi bị triều đình nghi kỵ.
          Cối Kê là nơi Việt vương Câu Tiễn bị quân nước Ngô đánh bại phải chạy về đó (thời Đông Chu liệt quốc). Câu Tiễn thế cùng lực kiệt phải đầu hàng nước Ngô và cả hai vợ chồng Câu Tiễn bị bắt giam lỏng ở đó. Hằng ngày Câu Tiễn phải đi chăn ngựa và có khi phải đi dắt ngựa cho Phù Sai khi cưỡi ngựa đi chơi. Còn vợ thì đi cắt cỏ cho ngựa. Người ta kể rằng Câu Tiễn phải nuốt nhục chịu đựng và đã có lần phải chịu nhục nếm phân cho Phù Sai khi Phù Sai đau để đoán bệnh, cốt để lấy lòng tin yêu của Phù Sai. Câu Tiễn đã đạt được ý nguyện và được vua Ngô tha cho về nước. Câu Tiễn liền về Cối Kê, chọn nơi này làm kinh đô nước Việt. Ở đây, Câu Tiễn nuôi chí phục thù, và sau một thời gian nằm gai nếm mật, ra sức chiêu binh mãi mã, tạo được một đội quân hùng mạnh. Rồi Câu Tiễn mang quân diệt được nước Ngô, trả được mối thù xưa. Sau này trong văn chương, người ta dùng chữ CỐI KÊ để chỉ sự nằm gai nếm mật, nuôi ý chí phục thù, khôi phục lại cơ đồ sự nghiệp như hai câu thơ nổi tiếng sau đây :
            “Cối kê cựu sự quân tu ký
Hoan, Ái do tồn thập vạn binh”.
(Bạn hãy nhớ lại việc cũ ở Cối Kê. Hai châu Hoan và Ái, tức là vùng Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay hãy còn mười vạn quân).
          Hai câu này nói về nước Việt Nam, mỗi khi bị quân Tàu xâm lăng, lúc đầu quân Việt thường là bị thua, nhưng sau khi đã rút được vào rừng Hoan, Ái, dựa vào địa thế địa lợi, củng cố lại được thực lực, sau cùng cũng đánh bại được quân xâm lăng, khôi phục được chủ quyền đất nước. Tổ phụ ta ngày trước dụng ý đặt tên làng là CỐI KÊ (ngụy trang là HỘI KÊ) là cốt để con cháu mai sau đoàn kết lại, hầu khôi phục lại cơ đồ sự nghiệp. Ngày nay lịch sử đã đổi thay, mục đích của hai chữ CỐI KÊ đã không còn nữa, vì nước Việt cả Nam lẫn Bắc đều bị quân Pháp xâm chiếm và thống trị. Sự khôi phục lại quyền tự chủ cho đất nước, là đánh đuổi thực dân Pháp cũng đã hoàn thành.
Nguyễn Hữu Quyền di cảo
(Tìm về quá khứ - Quê cũ năm xưa)

Monday 16 January 2012

Băng bó là từ mượn âm tiếng nào?


Một số nhà nghiên cứu cho rằng băng trong băng bó là từ mượn âm tiếng Pháp. Thanh Nghị (1967:89), Vương Toàn (2011:66) quy về panser;  Nguyễn Quảng Tuân (1992:59) quy về bander. Hoàng Trọng Ngôn (2000), tức Cao Xuân Hạo cho rằng gốc của băng là một từ Hán Việt ( ). Từ này cũng có nghĩa là quấn lại, buộc lại.
Từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) không có băng của băng bó. Nhưng gần như cùng thời ấy, Gustave Hue (1937:32) lại có một mục từ như thế này:
BĂNG  C)   (Vplr: Banh), Bande, bander, panser: ─  bó, ─  buộc : id.;  đái: bandes.
Tức là theo Gustave Hue, băng của băng bó cũng là từ gốc Hán.

Cũng cùng thời ấy Nam Phong Tạp Chí lại dùng băng trong ngoặc kép như một từ mượn âm tiếng Pháp:

Kẻ thanh-niên theo đảng Phi-xi (fasciste) gặp khi ra chiến-đấu mà bị thương, thời trên cái “băng” buộc vết thương đó có viết một câu: “Ta chẳng cần gì”, câu ấy có ý-nghĩa sâu-xa lắm, không những là tỏ ra cái thái-độ can-đảm đối với sự đau-đớn, lại là tiêu-biểu cho một cái chủ-nghĩa không những là thuộc về chính trị mà thôi, chính là một cách đoàn-luyện người ta để ra chiến-đấu với đời, cam-tâm chịu hết một sự nguy-hiểm; có thể cho là một lối sinh-hoạt mới cho dân tộc nước Ý. (Nam Phong số 177, 1932:334,T-C)

Sunday 15 January 2012

Su hào có phải là bắp cải không?


Su hào xưa có tên là củ cải Xiêm (Bon & Dronet, 1889:44)
Nguồn gốc tự nhiên của su hào là cải bắp dại, được đem trồng lấy phần thân mập (mà ta hay gọi là củ) làm rau ăn. Tiếng Pháp gọi thứ rau này là chou-rave (trong từ ghép này có chou, nghĩa là bắp cải), Người Việt nghe thành su hào:
Cải xoong, cải bắp, su hào,
Trong ba cây ấy cây nào anh ưa?
Em hỏi thì anh xin thưa:
Su hào xuất khẩu anh ưa suốt đời. (Ma Văn Kháng, 2009:104)
su hào là từ mượn âm, nhiều người viết không phân biệt su hào / xu hào, thậm chí trên cùng một trang:
* Miếng su hào này chưa được vuông vắn… ừ mà phải cắt mỏng ít nữa. (Nhất Linh, 1935:155)
* Cắt nốt chỗ xu hào này phải tỉa cho hết bát củ cải kia. (Nhất Linh, 1935:155)
Về sau các từ điển chỉ chấp nhận một dạng là su hào (Lê Văn Đức, 1970b:1312; Lê Khả Kế, 1981:54; Nguyễn Như Ý, 1999:1464), nhưng trên thực tế hiện nay vẫn có người viết xu hào:
* Vườn tược gì bé bằng cái bằng cái chiều dọc mà dui vào đến trăm thứ: xu hào, cải cúc, rau thơm, ớt, sả… lại còn hoa hoét nữa chứ. (Nguyễn Kiên, 2004:434)

Saturday 14 January 2012

Nghệ sĩ mắc chứng gì mà phiêu linh?


Từ điển của Đào Duy Anh (2005:611) cắt nghĩa phiêu linh (chữ Hán là 飄零 ) là lá cây bị gió lay rụng. Nghĩa bóng là thân thế không may, bị nhiều nỗi vất vả. Xem ra cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng đều không thể áp dụng cho các nghệ sĩ hiện nay mỗi khi họ phiêu linh.
Khi VNEXPRESS đưa tin Tùng Dương - Hà Trần phiêu linh trên đất Mỹ, ta thấy hoạt động của họ gồm cả vui chơi đây đó, chụp ảnh làm dáng..., như đang phiêu lưu hay phiêu du ở một miền đất lạ. Cũng tờ báo ấy khi đưa tin ca sĩ phiêu linh trong đêm tưởng nhớ Bảo Phúc lại chụp toàn ảnh ca sĩ hát như xuất thần.
Phiêu linh trên sân khấu lại là cảm xúc (nghe na ná tiếng Anh là feeling). Có một công ty kinh doanh các mặt hàng âm thanh lấy tên tiếng Việt là Phiêu Linh và tiếng Anh là Feeling Audio. Có vẻ như phần đông giới nghệ sĩ dùng từ phiêu linh với nghĩa là cảm xúc, nhưng họ kiêng dùng tiếng Việt mà thích dùng tiếng Anh, sang trọng hơn, chuyên nghiệp hơn.
Lê Kiều Như, ca sĩ – người mẫu – diễn viên kiêm tác giả Sợi Xích, tuyên bố: Đã hôn là phải phiêu linh Đọc kỹ bài phỏng vấn thì thấy rõ ý cô ấy muốn nói Đã hôn là phải thích, phải sướng... nhưng nói thế rất tục. Còn nói là phải có cảm xúc thì xoàng quá, bởi ai cũng có thể có cảm xúc.Chỉ nghệ sĩ mới có phiêu linh thôi. Và phiêu linh không chỉ là cảm xúc. Cho nên người thường có thể đi chơi trên đất Mỹ nhưng Tùng Dương – Hà Trần thì phiêu linh ở chốn ấy. Người thường chỉ có thể có những bức ảnh đẹp hớp hồn hay mê hồn gì đó trong khi Lương Bích Như đằm thắm đầy phiêu linh.

Thursday 12 January 2012

Năm Thìn, sao không là năm Long? - An Chi (Năng Lượng Mới, Xuân Nhâm Thìn, 2012)

Trong ngôn ngữ, có hiện tượng một vật, một khái niệm có nhiều tên, ngay trong một thời đoạn, hoặc qua những thời kỳ khác nhau. Trong tiếng Việt hiện đại, con chó còn là cày tơ, cẩu, cờ Tây, cún (chó con), hươu thềm, khuyển; điện thoại di động còn là dế, có người còn xài tiếng Anh mà gọi là mô-bai; ếch còn là gà đồng, ai biết chữ Nho thì còn gọi là điền kê; rờ-mốt có người gọi đơn giản là cái đồ bấm và nghe nói bên Hoa Kỳ một số người gốc Việt còn gọi là cái cồn-trô; ti-vi, truyền hình và màn ảnh nhỏ cùng là một thứ; v.v..
Trên đây là lý do chung. Còn sở dĩ ta không gọi năm con Rồng là năm Long mà gọi là năm Thìn là vì ta đặt cách gọi này vào phạm vi của thập nhị địa chi: Tí, Sửu, Dần, Mão (Mẹo), Thìn, Tị, Ngọ, Vị (Mùi), Thân, Dậu, Tuất, Hợi. Trong phạm vi này, ta cũng không gọi năm con Trâu là năm Ngưu  mà gọi là năm Sửu ; không gọi năm con Cọp là năm Hổ  mà gọi là năm Dần ; không gọi năm con Rắn là năm Xà  mà gọi là năm Tị , không gọi năm con Ngựa là năm Mã  mà gọi là năm Ngọ , v.v.. Nhưng điều thú vị là chính những tên chi này, từ Tí cho đến Hợi cũng vốn là những cái tên rất xưa – dĩ nhiên là trong tiếng Hán – của từng con vật cầm tinh tương ứng, như chúng tôi đã chứng minh ở  một vài chỗ khác
Vậy thì tuy ta không gọi năm con Rồng là năm Long, mà gọi là năm Thìn nhưng Thìn cũng vốn có nghĩa là Rồng.
Sở dĩ “thìn” liên quan đến “rồng”, theo chúng tôi, là do mối quan hệ kép sau đây:
1. Thìn chính là một giống rồng:
2. Thìn còn là sấm mà con rồng thì lại chính là thần Sấm.
Trước khi đi vào hai điểm cụ thể trên đây, chúng tôi phải nói rõ rằng rồng ở đây thực chất và nguyên mẫu là cá sấu,  như có thể thấy trong bài “Con rồng chẳng qua là con cá sấu «lên đời»” của Huệ Thiên, đăng trên Kiến Thức Ngày Nay số 340 (Xuân Canh Thìn, năm 2000).
Bây giờ xin đi vào điểm thứ nhất. Trong Giáp cốt văn tự nghiên cứu, Quách Mạt Nhược đã thừa nhận rằng chữ thìn  và chữ thận  vốn là một chữ nhưng ông lại giảng rằng đây là một thứ nông cụ. Chúng tôi không tin ở cách giải thích của nhà bác học họ Quách mà chỉ tin ở lời giảng truyền thống cho rằng thận  là con thuồng luồng (Xin x. Khang Hy tự điểnTừ nguyênTừ hải, v.v.). Nghĩa này của chữ thận  cũng là nghĩa đã mất của chữ thìn  (chữ này hiện nay chủ yếu dùng để ghi và gọi tên của chi thứ năm trong mười hai địa chi). Vậy thìn là thuồng luồng mà thuồng luồng là một giống cá sấu. Thật vậy, trong Cổ sử Việt Nam (Nxb Xây dựng, Hà Nội, 1955), Đào Duy Anh đã viết: “Người mình gọi con crocodile (một loài cá sấu nhỏ – AC) là thuồng luồng mà sách chữ Hán của ta cũng gọi là giao long. Về sau trong các sông ở Bắc nước ta, giống crocodile thành hiếm, thỉnh thoảng thấy một con, người ta cũng gọi là thuồng luồng, nhưng người thường không biết hình dạng nó thế nào nên tưởng tượng nó là một giống thủy quái hình dạng như rắn” (Sđd, tr.26). Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên (Nxb KHXH, Hà Nội, 1967) cũng giảng thuồng luồng là “cá sấu” (nghĩa 2), bên cạnh nghĩa 1 là “loài vật dữ ở dưới nước, hình rắn, hay hại người”. Còn trong tiếng Tày-Nùng thì luồng chính là rồng –  mà theo chúng tôi thì tiếng Việt và tiếng Tày-Nùng có một mối quan hệ tế nhị về ngữ tộc.
Tóm lại, thìn  và thận  chỉ là những biến thể ngữ âm và biến thể tự dạng của nhau và ta có đẳng thức kép:
–  thuồng luồng = cá sấu = rồng.
Nhưng có thật rồng và cá sấu có liên quan với nhau về nguồn gốc hay không? Sau đây là bằng chứng mà ta có thể dựa vào để khẳng định rằng đó hầu như đã là một sự thật hiển nhiên. Trong hai năm 1987-88, tại Tây Thuỷ Pha 西水坡, thành phố Bộc Dương 濮陽, tỉnh Hà Nam (Trung Quốc), người ta đã khai quật 186 ngôi mộ thuộc nền văn hoá Ngưỡng Thiều, cách đây trên dưới 6.000 năm. Tại mộ M45, người ta đã tìm thấy hài cốt của một người lớn, mỗi bên có một tượng động vật đắp bằng vỏ sò; bên trái là tượng một con hổ, bên phải là tượng một con rồng. Chung quanh còn có hài cốt của 3 cá thể người nhỏ tuổi . Một số tác giả khẳng định rằng đây là tượng Thương Long và Bạch hổ. Nhiều tác giả còn nâng cấp con rồng này lên thành “Trung Hoa Đệ Nhất Long” 中华第一龙. Vậy đây là một con rồng như thế nào? Thưa đó chẳng qua là một con cá sấu không hơn không kém . Cứ nhìn vào toàn thân con vật bọc vỏ sò, nhất là cái mỏm chiếm đến 2/3 chiều dài của cái đầu rồi so sánh với mõm cá sấu bây giờ  thì sẽ thấy ngay.
Cũng cần phải phân biệt rõ ràng khái niệm “rồng” đang bàn ở đây với khủng long hoá thạch, mà một số nhà báo và phương tiện thông tin cũng gọi là “rồng” một cách vô trách nhiệm hoặc vô ý thức, chẳng hạn mẩu tin sau đây trên Dân Trí ngày 3-7-2007 do TV viết theo Asia News, nhan đề “Trung Quốc: phát hiện hóa thạch của rồng” với lời dẫn:
“Ai bảo rồng là loài vật hư cấu chỉ tồn tại trong truyền thuyết? Từ năm 1996, các nhà khảo cổ Trung Quốc đã tìm thấy bộ xương hóa thạch nguyên vẹn của một con rồng với hai sừng nhọn, lỗ mũi to và hếch y hệt mô tả trong truyện cổ dân gian.”
và lời kết:
“Đây là lần đầu tiên Trung Quốc tìm thấy rồng hóa thạch có bộ sừng. Phát hiện này là chứng cớ khoa học quan trọng giúp giới khảo cổ lần tìm nguồn gốc loài rồng –  một loài vật tưởng chừng chỉ có trong những tác phẩm hư cấu.”
Đây là một sự nhầm lẫn thô thiển – hay một sự đánh lộn sòng trắng trợn theo kiểu bành trướng văn hoá của bọn Tàu? – chẳng khác nào gọi thạch sùng là “cọp” vì nó còn có tên là bích hổ 壁虎. Con rồng truyền thuyết của Tàu (và mấy nước Đông Á khác) có già lắm cũng chỉ trên 10.000 năm tuổi chứ con “rồng” của Dân Trí là một loài khủng long sống ở kỷ Tam điệp (Trias) xa lắc xa lơ, cách đây những trên 200 triệu năm. “Long” (= rồng) và “khủng long” là hai khái niệm hoàn toàn khác nhau. Chính vì vậy nên xin khẳng định lại rằng con rồng truyền thuyết của Tàu chỉ gắn với con cá sấu "Trung Hoa Đệ Nhất Long" mà thôi. Chỉ về sau thì các tư tưởng gia của vua chúa mới cho nó vào mỹ viện của ý thức hệ phong kiến mà giải phẫu thẩm mỹ cho nó thành con rồng như hiện nay. Cho nên nếu có cái gì đó của con rồng mà giống với cái gì đó của khủng long thì đây cũng chỉ là chuyện ngẫu nhiên thuần tuý mà thôi.
       Vậy, sở dĩ năm Thìn là năm con rồng là vì Thìn có nghĩa gốc (đã mất) là rồng. Đó là điểm thứ nhất.
Thứ hai là vì chữ thìn còn có một nghĩa cổ nữa (cũng đã mất) là sấm mà con rồng thì lại chính là thần Sấm. Về nghĩa này, Thuyết văn giải tự của Hứa Thận đã giảng như sau:
“Thìn 辰 là sấm vậy. Tháng ba, khí dương chuyển động, sấm vang sét giật, là lúc dân cày cấy vậy, muôn vật đều sinh sôi”.
Đó là nói về chữ thìn 辰 với nghĩa là sấm. Còn về chuyện con rồng là thần Sấm thì Vương Lập Thuyên đã bàn rất kỹ trong một thiên nghiên cứu nhan đề “Long thần chi mê” (Bí ẩn của thần Rồng) đăng trênTrung Quốc văn hóa 中国文化 số 5, tháng 12-1991 (tr.89-104). Sau đây xin trích nêu một số dẫn chứng.
Sơn hải kinh, chương “Hải nội Đông Kinh” chép: “Trong đầm Sấm có thần Sấm, mình rồng mà đầu người, vỗ bụng (thành tiếng sấm)”. Cùng một sự việc, Sử ký, “Ngũ đế bản kỷ”, chép hơi khác: “Đầm Sấm có thần Sấm, đầu rồng mép người, vỗ bụng mình thì thành tiếng sấm”. Khác nhau về chi tiết nhưng thống nhất ở một điểm: thần Sấm hình rồng. “Thuyết quái truyện” (Kinh Dịch) giải thích: “Chấn là sấm, là rồng”. Sở dĩ có lời giảng như thế là vì rồng chính là thần Sấm. Người xưa vẽ hình để chỉ rõ rồng là thần Sấm bằng hai cách. Một là vẽ rồng há to mõm mà gào rống (là cách rất thường thấy). Hai là vẽ hình mình rồng phát ra lửa. Nước Trạch đời Chu dùng phù tiết khắc hình rồng, thân mình phát ra lửa, biểu minh rồng là thần Sấm ở trong đầm. Rồng ở đây chẳng qua chỉ là cá sấu mà thôi.
Trên đây là một số trong những chứng lý mà Vương Lập Thuyên đã nêu ra còn Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier và Alin Gheerbrant (bản dịch do Nxb Đà Nẵng ấn hành năm 1997) thì đã viết tại mục “Rồng” như sau:
“... Rồng lại được gắn liền nhiều nhất với việc sinh ra mưa và sấm...”, “Sấm không thể tách rời khỏi mưa, mối liên hệ của nó với rồng gắn với khái niệm về bản thể tích cực, sáng tạo; Hoàng Đế là rồng, cũng là thần Sấm...” Sấm ra, tức là Dương lên, là triều dâng của sự sống, của cây cối, của sự đổi mới theo chu kỳ, được biểu thị bằng sự xuất hiện của rồng (...)” (tr.781).
Vậy, rõ ràng là trong tâm thức xa xưa của người Trung Hoa thì hiện tượng sấm có liên quan đến hoạt động của con rồng. Tóm lại, từ tất cả những điều đã phân tích trên đây, chúng ta có thể kết luận rằng sở dĩ chi Thìn ứng với con rồng là vì thìn chính là rồng và vì thìn còn có nghĩa là sấm mà con rồng thì lại được tín ngưỡng dân gian Trung Hoa xem là thần Sấm.
Người Trung Hoa xưa đã đặt ra nhiều dị thể của chữ long; những chữ này đã phản ánh một cách sinh động ngoại hình và đặc tính của con cá sấu – vì như đã nói, long vốn là cá sấu – mà cái tự dạng đã đánh bạt các dạng khác để lưu hành trên hai ngàn năm nay chính là chữ , vẫn còn lưu hành tại Đài Loan, Singapore và nhiều cộng đồng người Hoa ở các nước khác, còn tại Đại lục thì nó đã chính thức bị thay thế bằng chữ giản thể năm nét là .

Tuesday 10 January 2012

Tả pín lù, tạp pín lù _ An Chi (RCMCN, Người Đô Thị số 74 (10-6-2010)).

“ Những cái còn thừa sau bữa ăn ở các trại lính, người ta vun lại, quét lại, tống vào thùng, vào bao tải. Rồi quảy, rồi cho lên xe bò, kéo ra (...) Những đĩa sào đã được trút vào cái xô nhôm thành nồi sào tạp bí lù bạc nhạc, xương sườn xương sụn thịt nhả bã với cà chua, lổn nhổn hành tây, cần tây, lá xà lách. Nước súp cũng được dồn vào nồi ba mươi, thùng gỗ, thùng nứa ghép vẫn để gánh nước. Chẳng đun lại, đổ thêm hàng phạng nước máy, mà nồi canh vẫn sao mỡ vàng khè...”.
(Tô Hoài, Chuyện cũ Hà Nội,
Hà Nội, 1986, tr. 192-193).
Sau khi trích dẫn Tô Hoài như trên, tác giả Nguyễn Dư nhận xét:
Tạp pín lù  (...) là món ăn cầu kì, đắt tiền. Thức ăn toàn là đồ tươi chứ không phải đồ ăn còn thừa như lâm vố. Tô Hoài nhầm cái váy thời trang được cắt may, lắp ghép bằng nhiều miếng vải với cái váy đụp, đầy mụn vá của mấy bà nhà quê.”
Thực ra, không chỉ có Tô Hoài mới biến cái váy thời trang thành váy đụp, mà chính Vũ Bằng cũng đã đánh đồng món tả pín lù với xào bần và lâm vố, ngay trong cái đoạn mà chính Nguyễn Dư đã trích dẫn để mở đầu cho bài “Cao lầu, hẩu lốn, loạn... sà bần” của mình. Xin nhắc lại câu của Vũ Bằng:“ Thực là kỳ lạ: cũng thuộc vào loại hẩu lốn, Tàu có ‘tả pín lù’, Tây có ‘lâm vố’, mà ở đây thì có ‘sà bần’ ; ba thứ này, cũng như hẩu lốn, đều do các thứ ăn đổ lộn lại với nhau nấu chín lên.” Đấy, Vũ Bằng không xếp cùng loại hai thứ váy đó sao? Có điều cần nói rõ là ở đây, Vũ Bằng chỉ bất cẩn trong việc sử dụng từ ngữ mà thôi, chứ cái món tả pín lù thì ông lại quá sành. Ông viết:
“Thưởng thức “tả pín lù”, công phu lắm. Muốn cho thực đủ vị, phải có cá, tôm, mực, gà, lợn, bào ngư, hầu sì, bong bóng... mỗi thứ gắp một miếng nhúng vào trong nước dùng, rồi gia thêm cải bẹ xanh, cải soong, hành hoa để cả cuộng, rưới nước dùng vào bát mà ăn, chính lúc các món ăn đương nóng.”
Cứ như trên thì tả pín lù [H.1 (của Tàu) và H.2 (của ta)] với lâm vố hoặc xào bần khác nhau một trời một vực. Với nhiều người Việt thì tả pín lù đã được phát âm thành tả pí lùtạp pí lù hoặc tạp pín lù, v. v.. Đây là một món ăn vốn gốc từ thảo nguyên Mông Cổ, được đưa vào Trung Quốc rồi từ Trung Quốc, sau này người Quảng Đông mới đem sang nước ta. Tả pín lù là âm Quảng Đông của ba chữ 打邊爐, mà âm Hán Việt là đả biên lô. Một đặc điểm về văn tự của người Quảng Đông là họ đã làm cho một số chữ Hán mất gia phả nên phải tạo ra một số tục tự Quảng Đông để thay thế cho những chữ đó. Ở đây, 邊 là một tục tự thay thế cho cái chữ bị mất gia phả là 甂 nên nếu được phục nguyên thì tả pín lù sẽ là .Pín 甂 là một loại nồi còn  爐 là lò. Pín lù  爐 là một thứ lò trên đó có đặt một loại nồi để ăn nóng tại chỗ một loại thức ăn có nước. Vậy pín lù   chẳng qua là cái lẩu, mà vài chục năm trước đây, trong Nam còn gọi là cái cù laoLẩu bắt nguồn từ âm Triều Châu của chữ  爐 chứ không phải âm Quảng Đông lô-ù, như đã cho trong Tầm-nguyên tự-điển Việt-nam của Lê Ngọc Trụ (Nxb TPHCM, 1993).
Trên đây dĩ nhiên chỉ là so sánh về văn tự và ngữ âm chứ bản thân món ăn thì lại là một chuyện khác. Nếu chẳng phải là quý tộc thì tả pín lù cũng là một món ăn sang. Sở dĩ nhiều người xếp nó ngang hàng với lâm vố, xào bần thì một là vì chưa làm quen với món này; hai là đã thế mà lại còn suy diễn từ cái tên đã bị làm cho  ... méo mó. Chẳng là, như đã nói ở trên, âm tiết đầu của tả pín lù nhiều khi bị nói trại thành tạp (Nguyễn Dư: tạp pín lù, Tô Hoài: tạp bí lù) nên chính cái chữ tạp này đã làm cho nhiều người loại suy từ các cấu trúc có hình vị tạp như: tạp âmtạp chấttạp hoátạp nhamăn tạplai tạp, v. v.., mà làm cho giá trị của món ăn này bị hạ thấp. Còn sở dĩ, với nhiều người, tả lại có thể trở thànhtạp là vì hai nguyên nhân song hành. Một là về ngữ âm thì phụ âm cuối zero (tức hiện tượng không có phụ âm cuối) của tả đã bị phụ âm đầu p- của pín đồng hoá (nên khuôn vần -a mới trở thành -ap); rồi hai là sự đồng hoá này ngay lập tức lại bị áp lực của hình vị tạp trong các thí dụ đã nêu nên cuối cùng thì tả đã biến thành tạp.

Monday 9 January 2012

Tàu ro-ro là tàu gì?

Trong mấy năm gần đây Liên Xô đã đưa vào vận chuyển trên các tuyến đường biển từ cảng biển Hắc Hải, Viễn Đông đến các cảng biển Việt Nam nhiều loại tàu hiện đại như tàu ro-ro, tàu lát, tàu chở công-te-nơ v.v. (Nhiều Tác Giả, 1988:25, Bùi Danh Lưu)
Ro-ro hay RORO là dạng tắt của Roll-on/Roll-off là một thuật ngữ trong ngành vận tải ngoại thương dùng cho các loại hàng tự vận hành lên tàu được (xe hơi, xe tải ...), khác với phương thức thông thường là lo-lo hay LOLO (tức lift-on/lift off) đối với hàng công-ten-nơ hay hàng xá (phải sử dụng cần cẩu để đưa lên). Các mặt hàng siêu trường, siêu trọng (out-of-gauge/super heavy) không vào công-ten-nơ được  thì buộc phải sử dụng phương thức ro-ro, sau đó sẽ có những phương án cố định đặc biệt để tránh cho hàng không dịch chuyển (shifting) trong suốt quá trình vận chuyển.

Sunday 8 January 2012

Cứu cánh là cái gì? Nó cứu ai?


Câu tiếng Pháp La fin justifie les moyens thường được dịch ra tiếng Việt là Cứu cánh biện minh cho phương tiện, cũng có khi được dịch là Mục đích biện minh cho phương tiện, có khi lại được dịch là Mục đích cuối cùng biện minh cho phương tiện hay Kết quả biện minh cho phương tiện.
Hán Việt từ điển giản yếu định nghĩa cứu cánh (chữ Hán là  ) là cuối cùng, kết quả và cho  ví dụ cứu cánh mục đíchcái mục đích cuối cùng (Đào Duy Anh, 2005:142). Như vậy dịch finmục đích hay mục đích cuối cùng hay cứu cánh đều được. Chỉ có điều là ai cũng hiểu ngay mục đíchmục đích cuối cùng (ít phổ biến hơn), nhưng lại hiểu cứu cánh không giống nhau. Người thì bảo nó phải cùng nghĩa với mục đích (vì cứu cánhmục đích từ cùng một câu tiếng Tây mà ra). Người lại bảo cứu cánh phải là cái gì đó cứu được mình mặc dù chẳng ai hiểu được cái phương tiện cứu mình biện minh cho phương tiện nào.
Tháng 3/1998, nhóm nghiên cứu của ông Bùi Khánh Thế (Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh) điều tra trên 285 sinh viên năm thứ hai của khoa Ngữ Văn Anh (Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh) và 167 học sinh lớp 10 trường phổ thông trung học Nguyễn Chí Thanh (quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh). Kết quả thu được, theo báo cáo của Nguyễn Hoài Thu Ba và Trần Thị Kim Anh (2001:172) cho thấy:
-Đa số chọn câu trả lời sai (45,5% sinh viên và 88% học sinh) hoặc không trả lời (25,2% sinh viên và 0,8% học sinh).
-Rất ít người chọn câu trả lời đúng (29,3% sinh viên và 11,3% học sinh).Kết quả thu được với các từ ngữ Hán Việt khác trong cùng đợt khảo sát khiến ta có quyền nghi ngờ rằng câu trả lời đúng rất có thể chỉ là một kết quả may rủi. Số người thật sự hiểu nghĩa của cứu cánh có lẽ còn thấp hơn rất nhiều.

Friday 6 January 2012

Nõ (nõn) nường _ An Chi (KTNN 224, ngày 10-10-1996)

ĐỘC GIẢ: Từ điển tiếng Việt 1992 của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên có mục từ: “nỏ.p. (ph). Chẳng. Nỏ được. Nỏ biết”. Chữ “nỏ” ở đây mà đánh dấu hỏi như quyển từ điển này đã làm thì có đúng hay không? Nếu là nõ (dấu ngã) thì tiếng “nõ” này có liên quan gì với “nõ” trong “nõ nường”, và cả “nõ” trong “nõ điếu”, “nõ cối”? Có phải “nõ nường” cũng nói thành “nõn nường”? “Nõn nường” ở đây có phải cũng là một với “nõn nường” trong “đẹp nõn nường” hay không? Tại sao?
AN CHI: Chữ do ông nêu mà đánh dấu hỏi (ʔ) như đã làm trong Từ điển tiếng Việt 1992 của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Phê chủ biên chỉ là một biến thể. Chính tả của nó phải là nõ, đúng như đã ghi trong Đại Nam quấc âm tự vị của Huình-Tịnh Paulus Của, Dictionnaire annamite-français của J.F.M. Génibrel, Việt-Nam tự điển của Lê Văn Đức và Lê Ngọc Trụ, Tự điển Việt-Nam của Ban Tu thư Khai trí và Việt-ngữ chánh-tả tự-vị của Lê Ngọc Trụ. (Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, in lần thứ nhất năm 1967, cũng đã ghi chữ đang xét bằng dấu hỏi).Nõ là một từ Việt gốc Hán, bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 卵 mà âm Hán Việt hiện đại là noãn, có nghĩa là: 1. trứng, 2. tinh hoàn (Danh từ anda của tiếng Sanskrit cũng có hai nghĩa y hệt như thế). Trong tiếng Việt, âm xưa của noãn là nõn (Ss. hoàn ~ hòn; đoàn ~ tròn; quan 菅 ~ gon). Nghĩa gốc của từ này trong tiếng Việt có xê dịch một tí so với nghĩa của nguyên từ trong tiếng Hán; nõn là dương vật như đã được ghi nhận trong Từ điển tiếng Việt do Văn Tân chủ biên, tại mục “nõn nường”: “Từ chỉ vật làm bằng gỗ, tượng trưng cho dương vật (nõn) và âm hộ (nường) do nhân dân ở miền Dị-nậu và Khúc-lạc (Phú-thọ) xưa làm ra để rước thần; khi rước, những người khiêng kiệu vừa đi vừa hát: Ba mươi sáu cái nõn nường, Cái để đầu giường cái để đầu tay. Khi kiệu đến chỗ thờ thần, người ta tung nõn và nường cho mọi người cướp; con trai cướp được nường, con gái cướp được nõn là điềm tốt”.Nõn có một biến thể ngữ âm là nõ mà TĐTV do Văn Tân chủ biên cũng đã ghi nhận và giảng là “bộ phận sinh dục của đàn ông”. Chính vì vậy mà hai tiếng nõn nường cũng còn được ghi là nõ nường trong một số bài nghiên cứu, chẳng hạn: “Những tàn dư của sinh hoạt kinh tế sơ khai và tín ngưỡng nông nghiệp ở Vĩnh Phú” của Khổng Diễn (Dân tộc học, s.1, 1975, tr.36-45), v.v.. Và cũng chính vì vậy mà từ điển do Văn Tân chủ biên mới ghi nhận nõ nường như là một biến thể của nõn nường. Vậy nõ là một biến thể ngữ âm của nõn do rụng -n cuối mà nên.Nõ là dương vật còn nường là âm hộ. Trong khẩu ngữ của tiếng Việt, một vài từ chỉ sinh thực khí hoặc chỉ động tác có liên quan đến bộ phận này của thân thể đã chuyển nghĩa và chuyển loại mà trở thành từ hoặc phó từ phủ định. Chính vì mang đặc điểm từ nguyên như thế mà chúng có sắc thái thô tục, suồng sã nên không dùng trong phong cách ngôn ngữ nghiêm túc. Hiện tượng trên đây cũng thấy ở ngôn ngữ khác. Trong tiếng Anh, fuck là một động từ, và cả danh từ, chỉ động tác tính giao, vẫn bị xem là đứa con lăng loàn của từ vựng. Nó đã được ghép với từ “all” để tạo ra từ ghép “fuck-all”, có nghĩa là “đếch có gì cả”, “đếch ra gì cả”. Trong tiếng Pháp, động từ “(se) foutre (de)” có nghĩa là “cóc cần”, “đếch cần”, lại bắt nguồn từ động từ futuere của tiếng La Tinh, có nghĩa là “giao cấu”. Các từ nõ, đách (đếch), đéo, đấm trong tiếng Việt cũng trở thành phó từ hoặc từ phủ định theo lối chuyển nghĩa như thế. Thí dụ: nõ cần, nõ biết, đách cần, đách nghe, đéo ăn, đấm thèm; v.v.. Từ nõ đã được phân tích ở trên. Còn đếch là một biến thể ngữ âm của đách, mà TĐTV do Văn Tân chủ biên giảng là “cơ quan sinh dục của đàn bà”. Đéo là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 屌 mà âm Hán Việt hiện đại là điếu, có nghĩa là sinh thực khí nam. Từ nghĩa gốc này, trong tiếng Việt và tiếng Quảng Đông (âm của chữ đó trong phương ngữ này của tiếng Hán là tíu), nó đã chuyển nghĩa và chuyển loại thành động từ để chỉ động tác tính giao... do nam giới thực hiện. Đấm cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 抌 mà âm Hán Việt hiện đại là đảm, có nghĩa là đánh, đấm, đâm, thọc. Đây chính là chữ mà âm Quảng Đông là “tẩm” trong bài “Quâ... ấ..t!” của Hoàng Ly đăng trên KTNN 219, tr.16-20. Còn “quất” là nói trại tiếng Quảng Đông “quắt” (đọc theo âm miền Bắc) hoặc “quách” (đọc theo âm miền Nam), âm Hán Việt là cốt, có nghĩa là xương. Vậy “tẩm quất” là “đấm xương”. Nhưng xuất phát điểm của lối phủ định bằng từ đấm trong tiếng Việt tất nhiên không phải là việc “đấm xương” mà lại là cử chỉ trỏ vào cái chỗ không được phép gọi “đích danh” của cả hai giới để bày tỏ cái ý “đếch cần”. Rồi từ những lối nói như “ông đấm b... vào”, “ông thì... đấm c... vào”, v.v., dần dần người ta đã loại bỏ mấy danh từ có thể làm cho người khác phải đỏ mặt kia mà biến đấm thành một từ phủ định như có thể thấy trong “đấm thèm”, “ông đấm màng đến chuyện đó”, v.v..Cứ như trên thì rõ ràng là phó từ phủ định nõ có liên quan về nguồn gốc với danh từ nõ có nghĩa là dương vật. Xuất phát từ nghĩa gốc này, người ta cũng đã dùng nõ theo ẩn dụ mà nói: nõ điếu, nõ cối, nõ mít, nõ na, v.v., giống như nói cặc bần (rễ ngắn đâm chĩa lên của cây bần), dái mít, l... xa (để kéo vải), bòi chuông, v.v..Tóm lại, nguồn gốc của phó từ phủ định nõ là danh từ nõ trong nõ nường, có nghĩa như đã nói ở trên. Còn về từ nguyên của nường thì chúng tôi chưa có bằng chứng chắc chắn nhưng theo chúng tôi thì nó hẳn phải có liên quan đến chữ 娘 có nghĩa là con gái, phụ nữ, mẹ, vợ, mà âm Hán Việt xưa là nàng, cũng đọc nường còn âm Hán Việt thông dụng hiện đại là nương. Nghĩa là người ta đã dùng từ nường có nghĩa là sinh thực khí nữ, mà âm xưa là nàng, theo hoán dụ để chỉ những người mà bộ phận đó là một đặc trưng của giới tính. Giống hệt như người ta đã dùng từ hĩm có nghĩa gốc là “âm hộ trẻ con” để chỉ “con gái còn nhỏ tuổi” (X. mục “hĩm” trong TĐTV do Văn Tân chủ biên). Và cũng giống hệt như cu trong cu Tí, cu Tèo, v.v., là một lối dùng theo hoán dụ để chỉ con trai ít tuổi mà xuất phát điểm là danh từ cu có nghĩa là sinh thực khí nam. Đó là điểm liên hệ thứ nhất. Điểm liên hệ thứ hai là tiếng La Tinh có danh từ vulva vừa có nghĩa là bìu, bọc, bao, v.v., vừa có nghĩa là âm hộ. Nếu trong tiếng Hán cũng có một sự chuyển nghĩa như thế, thì cái nghĩa “âm hộ” tuy đã mất đi, nhưng cái nghĩa “bao, túi, đãy” vẫn còn trong chữ 囊 mà âm Hán Việt xưa là nàng, có thể chuyển thành nường (âm Quảng Đông hiện nay là noòng), còn âm Hán Việt thông dụng hiện đại là nang. Phối hợp hai điểm liên hệ trên đây lại thì có thể giả thiết rằng nường trong nõ(n) nường là một từ Việt gốc Hán có liên quan đến chữ nương 娘 và chữ nang 囊 mà âm xưa đều là nàng. Đây là một trường hợp đồng từ dị tự (cùng từ khác chữ) và tự/ từ này có nghĩa là sinh thực khí nữ. Cái nghĩa này đã tuyệt tích trong tiếng Hán (ít nhất cũng là trong tình hình tư liệu hiện có) nhưng nó vẫn còn tồn tại thoi thóp trong tiếng Việt hiện nay với âm nường, ít nhất cũng là ở một số vùng của tỉnh Phú Thọ. Nghĩa cổ của một số từ Hán đã tuyệt tích từ thời cổ đại nhưng vẫn còn được tìm thấy trong tiếng Việt hiện đại mà vi 為 (= voi) là một trường hợp điển hình, không xa lạ gì với giới Hán ngữ học (Chúng tôi đã có nói đến trường hợp này tại CĐCT trên KTNN 111, tr.32, và KTNN 134, tr.89).Bây giờ xin nói đến mối quan hệ giữa nõn nường trong ba mươi sáu cái nõn nường (ký hiệu là nn1) với nõn nường trong đẹp nõn nường (ký hiệu là nn2). Nghĩa của từng thành tố trong nn1 đã được phân tích ở trên. Còn nõn trong nn2 là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 嫩 mà âm Hán Việt hiện đại là nộn, có nghĩa là non, mềm, mịn, nhuyễn. Nường trong nn2 cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 孃 mà âm Hán Việt hiện đại là nang, xưa hơn nữa là nàng (Dictionnaire annamite-français của J.F.M. Génibrel vẫn còn ghi nõn nàng thay vì nõn nường), có nghĩa là to, mập, mẩy (nang trong từ tổ đẳng lập nở nang cũng chính là chữ nang này). Vậy nõn nường có nghĩa là vừa mịn vừa mẩy và căn bản là đồng nghĩa với nõn nà (nà cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở chữ 娜 mà âm Hán Việt hiện đại là nã, có nghĩa là mềm mại, uyển chuyển). Nn2 đã được TĐTV 1992 giảng như sau: “Như nõn nà (nhưng thường dùng với ý mỉa mai)”. Từ điển từ láy tiếng Việt của Viện ngôn ngữ học do Hoàng Văn Hành chủ biên (Hà Nội, 1994) cũng giảng và chú y hệt như thế. Vậy tại sao nn2 lại thường dùng với ý mỉa mai? Liên quan đến vấn đề này, Cao Xuân Hạo có viết như sau: “Trong tiếng Việt, đơn vị để chơi chữ kiểu calembour (một lối chơi chữ dựa trên sự khác nghĩa của các từ hoặc nhóm từ đồng âm – AC) là tiếng trong khi ở các ngôn ngữ Âu châu đơn vị đó là từ, vì ở đây từ mới có được một diện mạo ngữ âm có thể được lẫn lộn một cách hài hước với một từ có nghĩa khác hay với những âm tiết không có nghĩa (...) Người Việt nhận diện ra các tiếng tục ngay cả khi không hề có calembour và trong những ngữ cảnh ít thuận lợi cho việc nhận diện nhất trong các tên riêng ngoại quốc đa âm tiết chẳng hạn. Những tiếng như cu, đít, ghe ngay trong bối cảnh này cũng bị hiểu như tiếng tục và do đó thường được ghi trẹ đi để tránh cách hiểu đó trong khi một từ tục như con trong tiếng Pháp (đọc là [kÕ] và có nghĩa là l... – AC) khó lòng được người bản ngữ nhận ra trong condor, fécond, réconcilier (= kền kền Nam Mỹ_ mắn đẻ_ hòa giải – AC) nếu sự trùng hợp không được nêu bật lên bằng một trò chơi chữ kiểu calembour”.(Về cương vị ngôn ngữ học của “tiếng”, Ngôn ngữ, s.2, 1985, tr.27-28).Chính vì đặc điểm mà Cao Xuân Hạo đã phân tích cho nên khi dùng từ tổ tính từ đẳng lập nn2 thì người ta tức khắc và tự nhiên liên hệ đến danh ngữ đẳng lập nn1 trong đó nõn lại chỉ dương vật còn nường thì lại chỉ âm hộ. Nn2 thế là gắn liền với nn1 như hình với bóng và người ta luôn luôn bị ám ảnh bởi hai vật mà nn1 diễn đạt khi phải phát âm hai tiếng của nn2. Vì vậy tốt nhất là không nên dùng đến nó để khỏi phải mang tiếng là bất nhã còn hễ đã dùng đến thì tất phải có ẩn ý. Ẩn ý đó chính là sự mỉa mai mà TĐTV 1992 và TĐTLTV đã ghi chú. Ngày nay, không mấy ai còn biết đến nghĩa gốc của nõn và của nường trong nn1 nhưng cái sắc thái mỉa mai thì vẫn cứ đeo đẳng nn2 một cách dai dẳng.Và cũng chính vì nghĩa gốc của danh từ nõ đã mất đi cho nên ngày nay, ở miền Bắc Trung bộ, người ta đã dùng phó từ phủ định nõ, phát âm thành nỏ, một cách bình thường và tự nhiên như dùng không hoặc chẳng mà không sợ mang tiếng là bất nhã, vì nó chỉ còn là một phó từ có sắc thái trung hòa.Cái nghĩa gốc tuy đã mất nhưng danh từ nõ vẫn còn sống và có mặt trong những từ tổ như nõ điếu, nõ cối, v.v.. Nếu từ nõ này mang thanh điệu nào thì phó từ phủ định nõ cũng mang thanh điệu đó vì, như đã thấy, từ sau là do từ trước chuyển nghĩa và chuyển loại mà thành. Vậy làm như Từ điển tiếng Việt 1992 do Hoàng Phê chủ biên mà đánh dấu ngã cho từ trước (nõ cối, nõ điếu) nhưng lại đánh dấu hỏi cho từ sau (“nỏ” được, “nỏ” biết) là không nhất quán vì như thế chỉ là ghi từ nỏ theo cách phát âm có tính chất địa phương của miền Bắc Trung Bộ mà thôi.

Chép từ Facebook của An Chi (Huệ Thiên)

Trả lời về chữ NGA trong NGA LA TƯ – An Chi ( Đã đăng trên Kiến Thức Ngày Nay số 607 (20-6-2007)

      Nhiều tác giả đã giải thích một cách rất tự tin rằng cả ba âm tiết Nga La Tư đều là những tiếng dùng để phiên âm địa danh Russia của tiếng Anh. Các vị đó chẳng cần quan tâm xem nếu quả đúng như thế thì tiếng (âm tiết) Nga tương ứng với âm hoặc âm tiết nào của Russia. Đó là còn chưa kể rằng khi ba tiếng Nga La Tư ra đời trong tiếng và chữ Hán để chỉ quốc gia mà ban đầu người Anh gọi làRuss, rồi về sau là Russia thì người Trung Quốc thậm chí còn chưa tiếp xúc với tiếng Anh. Quả đúng như thế thật vì danh xưng La Tư xuất hiện trong thư tịch của Trung Hoa vào cuối đời Nguyên (1206 – 1368) đầu đời Minh (1368 – 1644), nghĩa là vào khoảng giữa thế kỷ XIV; lúc đó người Trung Quốc làm gì đã biết đến tiếng Anh. Lúc bấy giờ, người Trung Hoa gọi nước Nga là La Tư 羅斯 hoặc La Sát 羅 刹. Âm Bắc Kinh của La Tư 羅斯 là luósì, còn của La Sát 羅刹 là luóshà, phản ánh gần đúng danh xưngRoss(ia) của tiếng Nga mà người Trung Quốc biết được qua sự tiếp xúc với các bộ tộc sống ở phía Tây của nước mình.
        Nhưng đến đời Thanh thì bắt đầu có thay đổi. Triều đại này lại thích phiên âm tên của nước Nga từ tiếng Mông Cổ, mà một số từ, ngữ cũng đã được biết đến từ đời Nguyên. Một đặc điểm của tiếng Mông Cổ là nó không có từ nào bắt đầu bằng l- hoặc r-; nói một cách khác, hai phụ âm [l] và [r] không thể đứng đầu âm tiết đầu tiên của từ trong thứ tiếng này. Vì vậy nên người Mông Cổ không thể chấp nhận cách phát âm Rossia (có r- khởi đầu). Họ đã xử lý bằng cách lặp lại nguyên âm chính của ros- ( là [o]) làm âm tiết đầu tiên cho hình thức phiên âm. Do đó mà Rossia đã trở thành Orossia trong tiếng Mông Cổ.
        Ban đầu, Orossia được phiên âm sang tiếng Trung Quốc thành Oát La Tư  斡羅斯 (âm Bắc Kinh làwòluósì) hoặc Ngạc La Tư 鄂羅斯 (âm Bắc Kinh là èluósì). Về sau, khi biên soạn Đại Thanh nhất thống chí, người ta lại phiên Orossia thành Nga La Tư 俄羅斯 (âm Bắc Kinh là éluósì); rồi cũng có phần là do cái danh và cái uy của bộ sử này mà hình thức Nga La Tư đã trở nên thông dụng cho đến tận ngày nay mà được nói tắt thành Nga.
        Chữ nga 俄 không chỉ dùng để phiên âm âm tiết o trong Orossia mà còn dùng để phiên âm tiết đó trong nhiều địa danh, nhân danh khác, như:
Obadiah thành Nga Ba Để Á;
Ohio thành Nga Hợi Nga;
Oklahoma thành Nga Khắc Lạp Hà Mã;
Ophir thành Nga Phỉ;
Oregon thành Nga Lặc Cương;
Ostrava thành Nga Tư Đặc Lạp Phát; v.v..
Vậy Nga (La Tư) chẳng có liên quan gì đến tiếng Anh Russia.

Nam văn nữ thị (Năng Lượng Mới số 56 , 23 - 9 - 2011)

Nguyên bản ở Facebook An Chi (Huệ Thiên):
 Bạn đọc :  Xin cho hỏi tại sao trước đây cha mẹ đặt tên cho con trai thường lót chữ “văn” còn con gái thường lót chữ “thị”? (Nguyễn Thị Hồng Đào).
 An Chi : Về vấn đề này, ông Lê Trung Hoa có cho biết như sau:
“Chúng tôi đọc thấy một điểm đáng chú ý trong cuốn Les langages  de l’humanité của Michel Malherbe (...): Có lẽ tên đệm Văn có nguồn gốc từ tiếng Ả Rập ben (con trai) và tên đệm Thị cũng từ tiếng Ả Rập binti (con gái) do các thương nhân Ả Rập vào buôn bán ở bờ biển Việt Nam. Tuy tác giả không nêu cứ liệu, chúng tôi thấy có khả năng đúng, vì: – về ngữ âm ben cho ra vănbinti cho ra thị là có thể chấp nhận; – Việt Nam chịu ảnh hưởng “họ” của người Trung Hoa. Nhưng người Trung Hoa trước đây và hiện nay không dùng các từ đệm văn và thị phổ biến như người Việt Nam” (Họ và tên người Việt Nam, Hà Nội, 1992, tr.62, chth.1).
Ông Hoa nói như thế còn chúng tôi thì cho rằng nói ben có thể cho ra văn và binti có thể cho ra thịchẳng khác nào nói rằng tiếng Pháp petit đã cho ra tiếng Việt bé tí còn colosse thì đã cho ra khổng lồ, chẳng khác nào nói tiếng Ý ciao đã cho ra tiếng Việt chào còn tiếng Tây Ban Nha niño thì đã cho ra nhỏ nhí. Nhận xét của Malherbe xuất phát từ một sự so sánh vô nguyên tắc mà sự công nhận của ông Lê Trung Hoa thì cũng chẳng có cơ sở khoa học nào. Lẽ ra, ông Hoa phải hiểu tiếng Việt hơn Malherbe mới đúng. Trong trường hợp này, Malherbe đã làm một công việc mà Henri Frei đã làm cách đây gần 120 năm trong quyển L’annamite, mère des langues (Tiếng An Nammẹ của các thứ tiếng – Hachette & Cie, Paris, 1892), trong đó quan năm Frei này đã so sánh tiếng Việt với nhiều thứ tiếng, có khi thuộc những ngữ hệ cách nhau rất xa. Ngữ học so sánh có những nguyên tắc của nó; không thể cứ thấy hai từ giống nhau thì vội vàng khẳng định chúng là bà con, như Frei và Malherbe đã làm và ông Lê Trung Hoa đã cả tin.
Thật ra thì chữ lót Văn trong tên của nam giới chính là chữ “văn” trong “văn thân”, nghĩa là xăm mình. Nhưng trước khi phân tích và chứng minh, xin hãy chép lại đoạn nói về “Tục lệ xăm mình của người Việt cổ” ở Wikipedia (cho đến tối 19-9-2011):
“ Sách Lĩnh Nam chích quái (phần “Hồng Bàng thị truyện”) viết như sau:
“ Bấy giờ, dân trên núi xuống nước đánh bắt cá thường bị thuồng luồng gây thương tổn, bèn cùng nhau tâu việc ấy với Vua. Vua nói:
 “– Các giống ở trên núi khác với các loài ở dưới nước. Các loài ở dưới nước chỉ ưa những gì giống với mình và ghét những gì khác mình, vì vậy, ta mới bị gây hại.
“ Nói rồi, Vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thuỷ quái vào người. Từ đó, không bị thuồng luồng gây thương tích nữa. Tục vẽ mình của dân Bách Việt bắt đầu có kể từ đấy. Đặc biệt thời Trần, những thành viên thuộc đội quân Thánh Dực bảo vệ xa giá sẽ được xăm lên trán ba chữ Thiên Tử Quân (Quân đội Thiên Tử). Nghệ thuật này còn được thấy rõ rệt dưới triều đại này với việc xăm hai chữ “Sát Thát” (Giết giặc Tartar) trong thời kỳ kháng chiến chống Nguyên Mông, thể hiện sự quyết tâm đồng lòng chiến đấu, bảo vệ giang sơn của cha ông ta. Thường những người xăm trổ thời ấy đều là những chiến binh dũng cảm và can trường, họ xăm trổ để thể hiện sức chịu đựng và chí hướng của mình. Nhiều người dân cũng thường cũng xăm lên bụng những chữ Nghĩa dĩ quyên khu, hình vu báo quốc thể hiện tinh thần thượng võ.”
Câu “Vua bèn ra lệnh cho ai nấy cũng phải lấy màu xăm hình thuỷ quái vào người” trong Lĩnh Nam chích quái là một câu có tính chất hồi chỉ và nó hồi chỉ “dân trên núi xuống nước đánh bắt cá”. Những người dân này chỉ là đàn ông. Cho đến tận thời nay, ra khơi đánh cá vẫn chỉ là đàn ông mà thôi. Thiên tử quân đời Trần cũng chỉ là đàn ông. Cho đến mãi thế kỷ XX thì trong nội bộ người Việt, xăm mình vẫn chỉ có đàn ông (chứ phụ nữ Mãng, chẳng hạn thì có xăm mặt). Cứ như trên thì xăm mình là một nét đặc trưng của đàn ông người Việt thời xưa và đặc trưng này đã được đưa vào tên họ của họ. Truy nguyên ra thì thấy như thế và những cái tên, chẳng hạn như Trần Văn Ổi vốn có nghĩa là người họ Trần tên Ổi có xăm mình; Phạm Văn Me vốn có nghĩa là người họ Phạm tên Me có xăm mình; Võ Văn Xoài vốn có nghĩa là người họ Võ tên Xoài có xăm mình; mà hễ có xăm mình thì đều là đàn ông. Ý nghĩa của tục lệ này dần dần phai mờ với thời gian nên về sau, chẳng cần có xăm mình gì cả thì con trai sơ sinh vẫn thường được cha mẹ dùng chữ Văn làm tiếng lót khi đặt tên.
Còn thị là một từ Việt gốc Hán, chữ Hán viết là . Đây là tiếng dùng để chỉ phụ nữ. Nghĩa này của nó được Từ nguyên và Từ hải ghi là “phụ nhân xưng thị” (đàn bà gọi là thị) còn Vương Vân Ngũ đại từ điểnthì ghi là “phụ nhân” (đàn bà) và Mathews’ Chinese-English Dictionary thì ghi “a female” (người thuộc giới tính nữ). Từ nguyên còn cho biết rõ thêm rằng ngày nay thị cũng là một từ mà phụ nữ dùng để tự xưng (Kim dịch vi phụ nhân tự xưng chi từ).
Trong tiếng Việt, nó còn có một công dụng mà Từ điển tiếng Việt 1992 đã ghi như sau: “Từ dùng để chỉ người phụ nữ ở ngôi thứ ba với ý coi khinh”. Vậy rõ ràng thị có nghĩa là đàn bà. Nhưng do đâu mà nó trở thành tiếng lót, tức tên đệm của phụ nữ? Thì cũng là từ công dụng của nó trong tiếng Hán mà ra, sau một quá trình chuyển biến ngữ nghĩa. Công dụng này đã được Hiện đại Hán ngữ từ điển (Bắc Kinh, 1992) chỉ ra như sau: “Đặt sau họ của người phụ nữ đã có chồng, thường thêm họ chồng vào trước họ cha để xưng hô” (Phóng tại dĩ hôn phụ nữ đích tính hậu, thông thường tại phụ tính tiền gia phu tính, tác vi xưng hô). Thí dụ: Triệu Vương thị là “người đàn bà mà họ cha là Vương còn họ chồng là Triệu”.
Người Việt Nam ngày xưa đã không làm y hệt theo cách trên đây của người Trung Hoa mà chỉ đặt “thị” sau họ cha rồi liền theo đó là tên riêng của đương sự theo kiểu cấu trúc “X thị Y”, hiểu là người đàn bà họ X tên Y. Cấu trúc này giống như cấu trúc có yếu tố công (= ông) mà dân Nam Bộ đã dùng để gọi nhà yêu nước Trương Định một cách tôn kính: Trương Công Định, có nghĩa là “ông (được tôn kính) họ Trương tên Định”. Hoặc như của chính người Trung Hoa khi họ khắc trên mộ chí của Trương Khiên mấy chữ Trương Công Khiên (chi mộ), có nghĩa là “(mộ của) ông (được tôn kính) họ Trương tên Khiên”. Vậy, cứ như đã phân tích, Nguyễn Thị Mẹt là người đàn bà họ Nguyễn tên Mẹt, Trần Thị Nia là người đàn bà họ Trần tên Nia, còn Phạm Thị Cót là người đàn bà họ Phạm tên Cót, v.v... Cách hiểu nguyên thủy này đã phai mờ dần theo thời gian, làm cho về sau người ta tưởng rằng thị chỉ là một yếu tố có tính chất “trang trí” cho tên của phái nữ mà thôi. Chính vì đã không còn hiểu được công dụng ban đầu của “thị” nữa nên người ta mới dùng nó mà làm tiếng lót, nghĩa là tên đệm, cho các bé gái khi chúng chào đời. Người ta đã làm như thế mà không ngờ rằng ngày xửa ngày xưa, các cụ bà của chúng chỉ được dùng tiếng thị để chỉ định sau khi họ đã trưởng thành, và rằng thị chỉ được dùng chủ yếu là trong lời nói, đặc biệt là trong ngôn ngữ hành chính, chứ không phải là cho việc đặt tên.
Ý nghĩa và xuất xứ của hai tiếng “văn” và “thị” trong họ tên người Việt trước đây, theo chúng tôi đại khái là như thế. Chứ hai từ ben và binti của các chú lái buôn người Ả Rập thì chẳng có liên quan gì với nó cả.

Thursday 5 January 2012

Nhà “đại thể” hay vẫn là nhà xác? An Chi(Năng Lượng Mới số 84, 30-12-2011).

Nguyên bản ở Facebook của An Chi (Huệ Thiên):
 Bạn đọc : Ở gần nhà tôi có nhà đại thể. Tôi tra trên mạng thấy đó là nhà xác. mà sao lại gọi là “đại thể” vậy ông An Chi?  (L.N.B.).
        An Chi : Vì bất cứ lý do gì mà “thay tên đổi họ” của nhà xác thành “nhà đại thể” thì, theo chúng tôi, cũng cứ là chuyện không cần thiết, và chỉ là nhiễu sự mà thôi. Đúng như bạn nói, nếu gõ ba chữ “nhà đại thể” trên Google, ta sẽ được rất nhiều kết quả: 
  – “Lễ tiễn biệt các thây nhi (thai nhi đã chết) ở Bệnh viện Từ Dũ thường diễn ra vào chiều thứ năm hàng tuần. Hôm nay là một ngày tiễn biệt như thế ở khu nhà đại thể (nhà xác) bệnh viện Từ Dũ.” (“Chuyện ghi ở nhà đại thể” của Kim Liên – Ngọc Hiếu, Sài Gòn giải phóng, 27-10-2009).
        –“Chiều 10-11, với sự giúp đỡ của Viện Khoa học hình sự Bộ Công an, tất cả 4 xác nạn nhân trongnhà đại thể của Bệnh viện đa khoa Bình Thuận đã được phân biệt danh tính.”( “Tài xế chính xe gây tai nạn trình diện cơ quan công an” của Phong Châu - Lê Nguyễn, Tiền phong ngày 11-11-2011).
– “Tại Perm, thành phố cách Matxcơva hơn 1.000 km về phía đông, từng nhóm những người có thân nhân có mặt ở hộp đêm tụ tập bên ngoài nhà đại thể với vẻ mặt đau buồn, chờ nhận dạng người nhà của mình. Một số người liên tục rít thuốc lá, hoặc nhìn chằm chằm vào bản danh sách với đôi mắt trống rỗng.”(“Bắt 5 người trong vụ cháy hộp đêm ở Nga” của T.Huyền, VnExpress, 6/12/2009).
Nếu tiếp tục “rà”, ta sẽ còn thấy thêm rất nhiều kết quả tương tự, trên rất nhiều tờ báo khác nhau, kể cả báo địa phương, cũng như sẽ thấy danh ngữ nhà đại thể đã được dùng khá nhiều trong một số bệnh viện mà không biết là nhờ sự thông minh của ai. Vì “nhà đại thể” mà người ta đã “bỏ” nhà xác. Còn về thời điểm thì ta có thể biết cái cách gọi chẳng hay ho gì này đã ra đời cách đây ít nhất là 7 năm, theo bài “Sống bên cạnh người chết” của Thu Hà trên báo Thanh Niên mà Việt Báo.vn ngày 20-7-2006 đã đăng lại: 
“Trước đây, ở Bệnh viện Đà Nẵng, nhà để quàn những bệnh nhân – hoặc những nạn nhân – vừa qua đời được gọi là Nhà xác và những người phục vụ được gọi bằng một tên nghe đến “rợn người”: nhân viên Nhà xác. Tên gọi của nơi để quàn những người quá cố nghe quá nặng nề nên từ năm 2004, nơi đây được đổi tên là Nhà Đại thể và nghiễm nhiên, những nhân viên phục vụ tại đây cũng được gọi bằng một cái tên khác: nhân viên Nhà Đại Thể.”
Về cái tên lạ lẫm này, Người lao động, ngày 15-05-2011 cho biết, theo bác sĩ Nguyễn Đát Lý, Trưởng Khoa Giải phẫu bệnh, đơn vị quản lý nhà đại thể của Bệnh viện Cấp cứu Trưng Vương, thì hai chữ “đại thể” dùng để chỉ toàn bộ cơ thể, vốn được dùng để phân biệt với “vi thể”, tức các bộ phận nhỏ, lẻ trong “đại thể”. Chúng tôi chưa thực sự yên tâm về cách giải thích này vì thể ở đây không phải là thân hình con người, mà là thể thức, phương cách. Theo Giải phẫu đại cương  Nhập môn giải phẫu học do TS Trịnh Xuân Đàn chủ biên thì:
“Giải phẫu học người (human anatomy) là môn khoa học nghiên cứu cấu trúc cơ thể con người. Tuỳ thuộc vào phương tiện quan sát, giải phẫu học được chia ra thành 2 phân môn: giải phẫu đại thể (gross anatomy hay macroscopic anatomy) nghiên cứu các cấu trúc có thể quan sát bằng mắt thường; giải phẫu vi thể (microscopic anatomy hay histology) nghiên cứu các cấu trúc nhỏ chỉ có thể quan sát dưới kính hiển vi.”
Cứ như trên thì “các cấu trúc có thể quan sát bằng mắt thường” trong giải phẫu đại thể đâu có phải là “toàn bộ cơ thể”. Nhưng, nói cho cùng, dù ta có hiểu như thế nào thì hai tiếng đại thể trong danh ngữnhà đại thể cũng không trực tiếp liên quan đến thuật ngữ “giải phẫu (học) đại thể” mà lại liên quan đến thi hài của người hiến xác thông qua ẩn dụ mang tính tôn xưng đại thể lão sư của Trung Hoa Đài Loan.
Trước đây, do thuận miệng mà sinh viên y khoa ở Đài Loan thường dùng hai tiếng đại thể trong tên của môn đại thể giải phẫu học 大體剖學解 (giải phẩu học đại thể) để gọi thi thể mà họ quan sát. Ta có thêm một bằng chứng cho thấy chữ thể ở đây không liên quan đến thân thể con người. Rồi sau đó thì Trường Đại học Từ Tế 慈濟大學 (Tzu Chi University) ở Đài Loan mới tôn xưng mà gọi là Đại thể lão sư大體老師 (người thầy trong môn giải phẫu học đại thể) để chỉ thi hài của người hiến xác. Sinh viên, cũng như giáo sư và cán bộ giảng dạy xem những thi hài đó như là những người thầy (lão sư) hiền hậu, vô tư, rộng lượng, không phản ứng mảy may trước sự mổ xẻ, v.v., giúp cho họ có thể biết được đến từng ngóc ngách tất cả những gì thuộc về cơ thể con người trong khi họ học hoặc dạy môn giải phẩu học đại thể. Nhưng những người thầy này lại chẳng nói năng gì; vì vậy nên họ còn được gọi là Vô ngữ lương sư 無語良師 (thầy giỏi không nói). Vậy Đại thể lão sư và Vô ngữ lương sư là hai thành ngữ mang tính ẩn dụ để chỉ thi hài của người hiến xác được sử dụng trong phòng thực nghiệm, thực tập. Đại học Từ Tế là một trường đại học danh tiếng và có uy tín nên được biết đến ở nhiều nơi trên thế giới.
Vậy việc thành ngữ Đại thể lão sư do nó khởi tạo được biết đến ở Việt Nam cũng không phải là chuyện lạ. Lạ – quái dị nữa là đằng khác – là việc nhiều người, nhiều nơi trong ngành y tế cũng như nhiều nhà báo và phương tiện truyền thông của Việt Nam lại dùng hai tiếng đại thể của nó một cách thật khiếm nhã. Tại quê hương của nó thì hai tiếng này được dùng để chỉ thi thể của những người cao thượng đã hiến xác cho khoa học mà cả  loài người đều biết ơn, đặc biệt là với các trường y khoa. Nơi lưu giữ và bảo quản các thi thể hiến tặng này để cho sinh viên thực tập gọi là đại thể thất 大體室, tương đương với gross anatomy laboratory của tiếng Anh. Còn tại Việt Nam thì hai tiếng đại thể lại được dùng để chỉ bất cứ cái xác chết nào được lưu giữ và bảo quản tại nhà xác, từ xác chết của một anh đại gia lắm tiền nhiều của cho đến xác chết của một tên lưu manh bỏ mạng vì đâm thuê chém mướn. Vô hình trung đại thể thất/gross anatomy laboratory bị biến thành nhà xác, mà tiếng Hán là trần thi sở 陳尸所 hoặc đình thi thất 停尸室 còn tiếng Anh là morgue hoặc  mortuary.
May mắn một cách lạ lùng là tuy cái danh ngữ tân thời kỳ dị này đã ra đời cách đây ít nhất 7 năm nhưng theo sự tìm hiểu của chúng tôi thì nhiều bác sĩ, ngay cả ở những bệnh viện lớn như Chợ Rẫy, cũng không hề biết đến nó. Điều này chứng tỏ rằng danh ngữ nhà xác vẫn còn một sức sống mạnh mẽ. Vậy xin nhân tiện đề nghị ngành y tế hãy cho cái danh ngữ nhà đại thể vào “nhà đại thể”.

Wednesday 4 January 2012

Xoay xở hay xoay sở?

Cách đây khoảng mười năm, một nhóm nghiên cứu ở Đại Học Khoa Học Xã Hội và Nhân Văn Thành Phố Hồ Chí Minh dưới sự lãnh đạo của ông Bùi Khánh Thế đã lưu ý rằng “hiện tượng sai chính tả đã phổ biến, và đang trở thành một tranh chấp thực sự” (Đặng Thái Minh & Nguyễn Vân Phổ, 2001:99). Từ một kho ngữ liệu 14 triệu lượt từ, nhóm này tìm được 19 xoay xở và 10 xoay sở.
Sự phân bố về mặt thể loại càng thú vị hơn. Cả hai dạng đều không có mặt trong công văn, giấy tờ hành chính (dĩ nhiên). Trên hầu hết các thể loại, tỷ lệ sai chính tả xấp xỉ 50%. Trên các văn bản có tính cách cá nhân (thư tín, nhật ký), sai đúng ngang nhau. Trong khi đó người ta hầu như không viết sai trên các văn bản phổ biến khoa học (kiểu tạp chí Kiến Thức Ngày Nay...).
Số liệu thống kê (tần số) phần nào cho thấy chính tả phải được xem xét và cân nhắc từng trường hợp cụ thể chứ không thể là quy định nhất loạt cứng nhắc. (Đặng Thái Minh & Nguyễn Vân Phổ, 2001:99)
Hiện nay trên Google dạng sai chính tả đã phổ biến gấp mười lần dạng chuẩn.

Tuesday 3 January 2012

Màu tăng gô là màu gì?


Màu tăng gô là màu da cam đậm. Tên này được dùng cho màu này từ đầu thế kỷ 20 cùng với phong trào nhảy tăng gô ở phương Tây.
Từ tăng gô vào tiếng Việt qua đường mượn âm tiếng Pháp; tiếng Pháp mượn của tiếng Tây Ban Nha vào năm 1912. Từ tango xuất hiện trong tiếng Tây Ban Nha năm 1864, chỉ một vũ điệu của người Nam Mỹ có gốc gác là nô lệ da đen từ châu Phi qua. Từ nguyên của tango hiện vẫn chưa được xác định rõ ràng, nhưng người ta đã tìm được một trong những nghĩa đầu tiên của nó là chỗ bọn buôn người tập kết nô lệ trước khi đưa lên tàu.
Điệu tăng gô làm mưa làm gió ở Paris và khắp châu Âu từ năm 1913 đến năm 1915. Thiên hạ không chỉ nhảy tăng gô mà gì cũng tăng gô được. Ăn nhậu, chơi bời có trà đình tăng gô (thé tango), tiệc rượu tăng gô (cocktail tango), cơm tối tăng gô (dîner tango), hội nghị tăng gô (connférence tango), chiêu đãi tăng gô (réception tango). Đi đứng có xe lửa tăng gô (train du tango). Thời trang có áo tăng gô (blouse tango), coóc xê tăng gô (corset tango), nước hoa tăng gô (parfum tango), quần chẽn tăng gô (culotte tango), giày tăng gô (chaussure tango), nón tăng gô (chapeau tango).... Thôi thì cái gì cũng tăng gô được. Tất cả chỉ để nhảy tăng gô cho đã.
Một nhà buôn vải lụa, đang phải ôm kho một đống xa tanh màu da cam đậm, thấy thiên hạ mê tăng gô quá liền tung đống vải cũ nát của mình ra thị trường với cái tên là Couleur Tango (màu tăng gô). Thế là giải phóng được kho trong tích tắc. Chẳng những thế các xưởng dệt khác và các nhà buôn khác còn tranh nhau dệt thêm, nhập thêm để đáp ứng nhu cầu của thị trường.
Theo gương bên Tây, ở ta có lẽ cũng nên đặt tên vải, tên màu theo tên nghệ sĩ (Hoàng Thùy Linh, Lý Nhã Kỳ, Đàm Vĩnh Hưng...). Nhất định bán chạy.

Sunday 1 January 2012

Băng ghế và nhà băng có gì liên quan với nhau?


Nhà băng (ngân hàng) xuất hiện ở nước ta cùng với sự thiết lập chế độ thực dân Pháp.
Quan Thuộc địa Thượng thư Sarraut có viết giấy xin phép cho các phái viên Nam Bắc kỳ vào xem một nhà “băng” lớn ở Paris, là nhà Crédit Lyonnais. (Phạm Quỳnh, 2004:198)
Nhà băng của tiếng Việt vốn là maison de banque của tiếng Pháp. Maison được dịch ra là nhà. Người Việt nghe từ banque của tiếng Pháp, không giữ được phụ âm /k/ ở cuối âm tiết, phiên thành băng. Đây là một trong mươi từ mượn âm Pháp được vào từ điển tiếng Việt sớm nhất (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:35)
Băng của băng ghế cũng là một từ gốc Pháp (banc).
Phương, áo cổ vuông màu cánh dán, tóc buộc cao vống, người gầy, thấp bé, chiếm một chiếc ghế băng để sát chỗ Hồng, đọc “Tuyển tập kịch Sếch-xpia”. (Dương Thị Xuân Quý, 2007:238)
Trong tiếng Pháp bancbanque là hai từ đồng âm, vào tiếng Việt thành hai từ vừa đồng âm (phát âm giống nhau) vừa đồng tự (viết cũng giống nhau).