Saturday 5 May 2012

BƯỚC ĐẦU TÌM HIỂU VỀ CHỨC TỔNG ĐỐC QUA GHI CHÉP CỦA MỘT SỐ VĂN BẢN CHỨC QUAN TRIỀU NGUYỄN - Lê Thị Thu Hương

Lê Thị Thu Hương 40. Bước đầu tìm hiểu về chức Tổng đốc qua ghi chép của một số văn bản chức quan triều Nguyễn
Cập nhật lúc 11h59, ngày 11/08/2009


LÊ THỊ THU HƯƠNG
Viện Nghiên cứu Hán Nôm

Quan chế thời phong kiến là một bộ phận cấu thành của quốc gia phong kiến. Cũng như Trung Quốc, quan chức ở Việt Nam trải qua các thời đại có sự thay đổi khá phức tạp. Bộ máy quan lại luôn được cải tổ theo sự phát triển của xã hội, nhiều chức quan mới được đặt thêm trong lúc không ít những chức quan cũ bị bãi bỏ. Có những chức quan tồn tại rất nhiều đời nhưng địa vị, quyền hạn thì không ngừng thay đổi. Chính vì vậy việc tìm hiểu nguồn gốc, chức năng, quyền hạn, ban ngạch... của các chức quan là việc làm vô cùng cần thiết, đặc biệt là thông qua các tài liệu ghi chép về chức quan bằng chữ Hán, chữ Nôm.
Trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi xin bước đầu tìm hiểu về chức quan Tổng đốc - một chức quan đứng đầu cấp tỉnh qua ghi chép của một số văn bản chức quan triều Nguyễn.
Phạm vi nghiên cứu: chúng tôi sử dụng các tài liệu quan chức bằng chữ Hán trong kho sách Viện Nghiên cứu Hán Nôm. Đối với mỗi văn bản thông thường có nhiều dị bản khác nhau, chúng tôi căn cứ trên thực tế tình hình văn bản để chọn ra cho mỗi tác phẩm một bản đầy đủ nhất, chuẩn xác nhất làm bản nền để giới thiệu.
1.KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ 欽定大南會典事例
Đây là bộ sách đầy đủ về tư liệu tổ chức và lề lối làm việc cùng các thể lệ cụ thể về mọi mặt công việc của bộ máy nhà nước từ Gia Long đến Tự Đức. Trong cuốn A.54/2 (Q.11) có ghi về chức quan Tổng đốc như sau:
Minh Mệnh 3 (1822)
[... : , 駐平, , , , , , , 駐南, , 西, 太總...] (Các tỉnh Đốc phủ: Nam Nghĩa Tổng đốc nhất, trú Quảng Nam Điện Bàn phủ; Bình Phú Tổng đốc nhất, trú Bình Định Hoài Nhân phủ; Bình Biên Tổng đốc nhất, trú Gia Định Tân Bình phủ; Long Tường Tổng đốc nhất, trú Vĩnh Long Định Viễn phủ; An Hà Tổng đốc nhất, trú An Giang Tuy Biên phủ; An Tĩnh Tổng đốc nhất, trú Nghệ An Anh Sơn phủ; Thanh Hóa Tổng đốc nhất, trú Thiệu Hóa phủ; Hà Ninh Tổng đốc nhất, trú Hà Nội Hoài Đức phủ; Định An Tổng đốc nhất, trú Nam Định Thiên Trường phủ; Hải An Tổng đốc nhất trú Hải Dương Bình Giang phủ; Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc nhất, trú Sơn Tây Quảng Oai phủ; Ninh Thái Tổng đốc nhất, trú Bắc Ninh Từ Sơn phủ..) [Tổng đốc, Tuần phủ các tỉnh: Tổng đốc Nam Nghĩa một viên, trụ sở tại phủ Điện Bàn - Quảng Nam; Tổng đốc Bình Phú một viên, trụ sở tại phủ Hoài Nhân- Bình Định; Tổng đốc Định Biên một viên, trụ sở tại phủ Bình Tân - Gia Định; Tổng đốc Long Tường một viên, trụ sở tại phủ Định Viễn- Vĩnh Long; Tổng đốc An Hà một viên, trụ sở tại phủ Tuy Biên- An Giang; Tổng đốc An Tĩnh một viên, trụ sở tại phủ Anh Sơn- Nghệ An; Tổng đốc Thanh Hóa một viên, trụ sở tại phủ Thiệu Hóa; Tổng đốc Hà Ninh một viên, trụ sở tại phủ Hoài Đức - Hà Nội; Tổng đốc Định Yên một viên, trụ sở tại phủ Thiên Trường - Nam Định; Tổng đốc Hải An một viên, trụ sở tại phủ Bình Giang - Hải Dương, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên một viên, trụ sở tại phủ Quảng Oai - Sơn Tây; Tổng đốc Ninh Thái 1 viên, trụ sở tại phủ Từ Sơn - Bắc Ninh].
2. KHÂM ĐỊNH ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN SỰ LỆ (Tục biên) 欽定大南會典事例續編
Hội điển triều Nguyễn, chép tiếp từ thời Tự Đức trở về sau, gồm các bài dụ, chỉ, nghị định về quan chế, nghi lễ, vật dụng, đồ thờ...và công việc của các phủ, viện, bộ... Trong cuốn VHv.2793/3 có ghi về chức Tổng đốc như sau:
[8a] : 年, ... (Các tỉnh Đốc phủ: Đồng Khánh nhị niên hựu tâu chuẩn Bình Thuận, Khánh Hòa nhị hạt hệ thị Trung Châu nguyên tiền thiết Tuần phủ nhất. Tư y nhị hạt hệ thị địa đầu quan yếu nghĩ cải thiết Thuận Khánh tổng đốc...)[Tổng đốc, Tuần phủ các tỉnh: niên hiệu Đồng Khánh thứ 2 (1887) lại tâu chuẩn: hai hạt Bình Thuận, Khánh Hòa thuộc vùng trung châu nguyên có đặt một Tuần phủ. Nay hai hạt đó là vùng địa đầu trọng yếu, nên sửa đổi đặt viên Tổng đốc Thuận Khánh...]
3.ĐẠI NAM HỘI ĐIỂN TOÁT YẾU大南會典撮要
Nội dung tóm tắt Hội điển đời Minh Mệnh gồm các nguyên tắc tổ chức bộ máy cai trị Nhà nước, cơ cấu tổ chức của triều đình, của 6 bộ, của các phủ, viện, vệ, ti, doanh... Bộ máy cai trị ở các địa phương, quy chế về quan lại, quân đội, giáo dục, hành chính, hình pháp. Năm công bố phần nội dung chính của sách là năm Minh Mệnh thứ 14 (1833). Trong đó chức quan Tổng đốc được ghi chép trong cuốn A.1446 như sau:
151a [...宇,分,督,使司,使 ...] (Quốc gia thống nhất cương vũ, phân định hạt phận, thiết hữu Tổng đốc, Tuần phủ dĩ thống trị chi. Sở thuộc hữu Bố chánh sứ ty, Án sát sứ ty cập Lãnh binh quan. Lệ yên. Tổng đốc dĩ Đô thống Thượng thư, Thống chế bản hàm vi chi. Chưởng thống trị quân dân thống hạt thân biền, khảo khiếu quan lại, tu sức phong vực...) [Quốc gia thống nhất cương vực, phân định hạt phận, đặt chức Tổng đốc, Tuần phủ để cai quản một cách có hệ thống. Dưới quyền có Bố chánh sứ ty, Án sát sứ ty và quan Lãnh binh. Tổng đốc là người mang hàm Đô thống Thượng thư, Thống chế. Nắm quyền thống trị quân dân, thống lãnh quan văn, võ trong hạt, khảo xét quan lại, sửa sang bờ cõi...]
4. SỬ HỌC BỊ KHẢO史學備考
1. Khảo cứu về lịch sử địa lý Việt Nam: núi sông, đường sá, tỉnh, phủ, huyện... đổi thay qua các đời.
2. Quan chế Việt Nam qua các thời đại: phẩm trật thăng giáng, tước lộc...
Bộ máy hành chính từ trung ương đến các phủ, huyện, xã... Trong phần Quốc triều quan chế [ Quan chế khảo] bản A.1490 chép về chức quan Tổng đốc như sau:
靜,清化,河寧,定,太,宣,海安,平富,定邊,隆祥,安河。布焉。凡銜。所撫,其 ...(Tổng đốc thập nhị: An Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Ninh, Yên Định, Ninh Thái, Sơn Hưng Tuyên, Hải Yên, Bình Phú, Định Biên, Long Tường, An Hà. Bố án, Lãnh binh lệ yên. Phàm Tổng đốc giai đới Binh bộ Thượng thư kiêm Đô sát viện Hữu đô ngự sử hàm. Sở trị chi tỉnh bất thiết Tuần phủ, kỳ Thanh Hóa dụng Tôn thất quan) [ Tổng đốc 12 tỉnh: An Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Ninh, Yên Định, Ninh Thái, Sơn Hưng Tuyên, Hải Yên, Bình Phú, Định Biên, Long Tường, An Hà. Bố án, Lãnh binh đều thuộc [dưới quyền Tổng đốc]. Nhưng Tổng đốc đều theo hàm Binh bộ Thượng thư kiêm Hữu Đô ngự sử Đô sát viện. Tỉnh trực thuộc thì không đặt Tuần phủ. Còn như tỉnh Thanh Hóa chỉ dùng quan Tôn thất...]
5.ĐẠI NAM ĐIỂN LỆ TOÁT YẾU TÂN BIÊN大南典例撮要新編
Tóm tắt các điều lệ của bộ Quốc triều hội điển, có bổ sung các luật lệ mới. Trong đó bản VHv.1684/5 ghi về chức quan Tổng đốc như sau:
[12a] : ... (Lệ Thành Thái nguyên niên thất nguyệt nhật định Bắc Kỳ văn võ quan viên hiện ngạch. Đại tỉnh: Tổng đốc nhất, Bố chánh nhất (hậu đình thiết)... [Lệ ngày tháng Bảy niên hiệu Thành Thái thứ 1 (1889), định ngạch hiện thời về chức quan văn và võ ở Bắc Kỳ. Tỉnh lớn: một quan Tổng đốc, một quan Bố chánh (sau không đặt nữa)...]
...[14a] : ... (Đốc phủ, Bố án lệ Hàm Nghi nguyên niên Bắc kỳ các tỉnh Đốc phủ Bố Án hữu khuyết, thính do kinh lược hàm tuyển cử...)
[Về Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh và Án sát. Lệ niên hiệu Hàm Nghi thứ 1 (1885) quy định rằng các tỉnh ở Bắc Kỳ có khuyết chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chánh và Án sát thì cho Nha Kinh lược được chọn người mà đề cử]
6. QUỐC TRIỀU ĐIỂN LỆ QUAN CHẾ LƯỢC BIÊN國朝典例官制略編
Chế độ quan chức đời Minh Mệnh (1820 - 1840) gồm: quan tước, phẩm vật của các quan văn, võ... Trong đó bản A.1380 là bản đầy đủ nhất thì phẩm trật của Tổng đốc được ban hành năm Minh Mệnh thứ 8 (1827)ghi chép như sau:
[9a] [ . , 西, , ... ] (Chánh nhị phẩm: đồng niên bổng tiền nhị bách ngũ thập quán, mễ nhị bách phương, xuân phục ngũ thập quán, tuất tiền nhị bách quán. Lục bộ Thượng thư, Đô sát viện Tả hữu đô Ngự sử, chư tỉnh Tổng đốc, trấn Tây Tham tán đại thần, cáo thụ Tư thiện đại phu, Chính trị thượng khanh, thụy Trang Lượng mỗ tính hầu mệnh phụ phu nhân...)[Hàm Chánh nhị phẩm: tiền bổng cả năm 250 quan, 200 phương gạo, tiền trang phục mùa xuân là 50 quan, tiền tuất là 200 quan. Còn các quan Thượng thư lục bộ, Tả hữu đô Ngự sử ở Đô sát viện, Tổng đốc các tỉnh, Tham tán Đại thần trấn Tây được cáo thụ Tư thiện đại phu, Chính trị thượng khanh, thụy là Trang Lượng, họ... vợ xưng là phu nhân...]
7.ĐẠI NĂM THỰC LỤC CHÍNH BIÊN, Quốc sử quán triều Nguyễn, Tập 10, tr.364. Nxb. Sử học, H. 1964.
Trong mục Quy tắc làm việc, khi mới phân chia tỉnh:
“Tổng đốc, Tuần phủ hay các viên thự lý Tuần phủ ấn vụ, công việc cũng giống như nhau. Phàm trong hạt sự việc gì nên tâu báo đều được làm chuyên tập tâu lên. Duy Tuần phủ (ở tỉnh có Tổng đốc) kiêm hạt, khi có chính sự lớn lao về hưng lợi, trừ tệ thì cùng với Tổng đốc bàn bạc rồi ký tên tâu chung 1 giấy. Nếu ý kiến khác nhau thì làm tờ tấu riêng”.
8. QUỐC TRIỀU THỂ LỆ 國朝體例
Thể lệ của 6 Bộ (Lại, Hộ, Binh, Công, Hình, Lễ) triều Nguyễn, từ Gia Long (1802 - 1819) đến Thành Thái (1889 - 1907): chế độ đối với các quan chức, phong tặng, điều động tuyển dụng các quan... bản VHv.1768 ghi về chức quan Tổng đốc như sau:
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831)
[93a-93b] 北圻西 ... (Đình nghị phàm Bắc kỳ phân thiết sự nghi nội tăng thiết Hà Tĩnh xứ, Hưng Yên xứ tính Sơn Tây cải vi Hà Nội xứ. Nội phân Nghệ An xứ cải vi Hà Tĩnh xứ. Dĩ Khoái Châu phủ tính Tiên Hưng tam huyện vi Hưng Yên xứ. Nội Bình Trị Tổng đốc, An Tĩnh tổng đốc, Định An Tổng đốc, Hải An Tổng đốc, Sơn Hưng Tuyên Tổng đốc, Thái Ninh Tổng đốc các nhất nội...) [Triều đình nghị bàn: về việc phân chia lại Bắc Kỳ, trong đó đặt thêm các xứ Hà Tĩnh, Hưng Yên, còn Sơn Tây đổi thành xứ Hà Nội. Lấy một phần xứ Nghệ An đổi thành xứ Hà Tĩnh. Lấy phủ Khoái Châu cùng ba huyện Tiên Hưng đổi thành xứ Hưng Yên. Mỗi xứ cử một Tổng đốc: Tổng đốc Bình Trị, Tổng đốc An Tĩnh, Tổng đốc Định An, Tổng đốc Hải An, Tổng đốc Sơn Hưng Tuyên, Tổng đốc Ninh Thái...]
[93b] 督職: 紳,考吏,...] (Tổng đốc chức chưởng: tổng trị binh dân thống hạt biền thân khảo hạch quan lại, tu sức phong vực...)[Chức năng của Tổng đốcnắm giữ tất cả mọi việc quân dân kiêm việc thống lĩnh các quan văn võ trong hạt; khảo hạch quan lại, soạn sức lệnh xây dựng biên cương...]
[93b] 詳總督上同,及制,
[94a] 府縣奏。調派。 ...] (Nội Tổng đốc, Tuần phủ phàm tư tấu thỉnh sự nghi thự họa chuyển tập cụ tấu. Kỳ Bố chánh, Án sát nhất thiết tư tấu thỉnh chư sự kiện tượng Tổng đốc, Thượng ty chiếu biện. Duy sự quan sinh dân lợi bệnh nhi ý kiến dị đồng, cập vi Thượng ty phi lễ ức chế, phương tàm trực đạt. [94a] Nội phủ huyện kết đệ cập án tra biện chư sự kiện chuyển tường Đốc phủ) [Tổng đốc, Tuần phủ phàm khi dâng biểu tư tấu trình công việc, phải cùng ký tên trong tờ tâu rồi tâu trình đầy đủ. Còn Bố chánh, Án sát, mọi tờ tư tấu xin thi hành công việc, phải trình bày rõ lên quan trên, Tổng đốc xem xét. Duy chỉ những việc liên quan tới cái lợi hại trong đời sống của dân chúng mà có ý kiến khác nhau, và bị cấp trên cho là trái với lễ, thì mới cho phép trình bày trực tiếp lên cấp trên.
Mọi công việc trong phủ, huyện giải quyết xong thì dâng trình lên trên, và quan Án sát khi xem xét các sự kiện, tấu trình lên quan Tổng đốc, Tuần phủ phê duyệt. Nếu Án sát xét việc có chỗ chưa thỏa đáng, giao cho Tổng đốc, Tuần phủ trình bày, khiển trách các viên chức ở ty Bố chính rồi họp bàn với người đứng đầu phủ, huyện để điều tra, xem xét, không được ủy lại cho quan viên ty Án sát.
Nha môn của Tuần phủ nếu như có việc khẩn cấp, một mặt tư báo cho Tổng đốc, một mặt gửi hịch nhanh chóng điều động binh lính trong hạt. Nếu Tổng đốc không sai người thi hành lệnh khẩn cấp, dẫn đến hỏng việc, thì phải chịu tội ngang nhau....]
Minh Mệnh thứ 15 (1834)
[102b]凡事調兵轉... (Phàm sự quan binh cơ vụ bổ đạo, tiễu phỉ, điều binh, chuyển hưởng kỳ kiêm hạt chi Tổng đốc tu gia tâm đẳng biện. Nhược sở thuộc chi tỉnh bất khẳng quan bạch, kiêm hạt chi Tổng đốc bất vi đẳng biện chuẩn danh tham tấu...) [Phàm việc liên quan đến quân cơ biên giới, như bắt cướp, dẹp phỉ, điều binh, chuyển lương, viên Tổng đốc kiêm hạt phải chú tâm lo liệu, nếu các sảnh sở thuộc nào không chịu trình báo, viên Tổng đốc kiêm hạt không thể lo liệu được, thì cho phép hặc tấu tất cả].
Minh Mệnh thứ 19 (1838)
[70b]方三 (Phàm địa phương tam tứ phẩm quan như hữu can cữu kinh phái phụng vãng tuyên dụ tất ná giao Đốc phủ tra biện) [Phàm các quan địa phương tam, tứ phẩm nếu mắc lỗi, quan ở kinh được phái đi tuyên dụ xong, thì bắt giao cho quan Tổng đốc và Tuần phủ kiểm tra xử lý].
Năm Tự Đức thứ 9 (1856)
[50b定在外省例﹕者,名... (Nghị định tại ngoại tỉnh huyện châu dưỡng liêm hầu lệ: Tổng đốc đệ niên dưỡng liêm tiền bát thập quan, Tuần phủ thất thập quan... đẳng. Như kỳ gian hữu giáng cách lưu dụng cập quyền lãnh quyền nhiếp giả, danh chiếu hiện lãnh hiện nhiếp chức hàm chi lãnh dưỡng liêm lệ tiền hữu sai) [Nghị định về điều lệ dưỡng liêm(1) ở các phủ, huyện, châu ngoại tỉnh: Tiền dưỡng liêm hàng năm của Tổng đốc là 80 quan; Tuần phủ là 75 quan, Bố chính là 70 quan; Án sát là 65 quan.... Các quan chức kể trên nếu bị giáng cách lưu dụng hoặc quyền lãnh, quyền nhiếp, đều chiếu theo chức hàm hiện tạm giữ, tạm quyền để chi lãnh tiền dưỡng liêm có khác nhau].
Minh Mệnh thứ 15 (1814)
[71b] ... ... (Phàm nghĩ định chư địa phương quan thuộc số binh Bắc kỳ, Tổng đốc tam thập danh, Tuần phủ nhị thập danh... Nam kỳ Tổng đốc thập ngũ danh, Tuần phủ thập danh) [Phàm nghĩ định số thuộc quân của quan địa phương. Ở Bắc kỳ, chỗ quan Tổng đốc là 30 lính, Tuần phủ 20 lính... Ở Nam kỳ, chỗ quan Tổng đốc là 15 lính, Tuần phủ 10 lính]...
Tự Đức thứ 3 (1850)
[95b] ... ...(Phàm nghĩ định nội ngoại chức quan các cấp phiêu tòng lệ... địa phương quan Tổng đốc lục thập danh) [Phàm nghĩ định lệ cấp lính theo hầu cho các chức quan trong Kinh ngoài tỉnh: ... Quan địa phương: Tổng đốc được 60 tên...]
Tóm lại:
Theo ghi chép trong các sách nêu trên chúng tôi nhận thấy:
1. Triều đình nhà Nguyễn giai đoạn từ năm 1831 trở đi bắt đầu đặt chức Tổng đốc. Đó là: Tổng đốc Nam Nghĩa, Bình Phú, Định Biên, Long Tường, An Hà, An Tĩnh, Thanh Hóa, Hà Ninh, Định Yên, Hải An, Sơn Hưng Tuyên, Ninh Thái.
2. Chức năng: Tổng đốc là chức quan đứng đầu liên tỉnh. Nắm giữ tất cả mọi việc quân dân từ việc thống lĩnh các quan văn võ trong hạt kiêm việc khảo hạch quan lại, soạn sức lệnh xây dựng biên cương.
Trong một số sách còn ghi cụ thể hơn, như:
- Mọi tờ tư tấu xin thi hành công việc của Bố chánh, Án sát phải trình bày lên quan Tổng đốc. Duy chỉ những việc liên quan tới cái lợi hại trong đời sống của dân chúng mà có ý kiến khác nhau, và bị cấp trên cho là trái với lễ, thì mới cho phép trình bày trực tiếp lên cấp trên.
- Phàm các quan địa phương tam, tứ phẩm nếu mắc lỗi, quan ở kinh được phái đi tuyên dụ xong thì bắt giao cho quan Tổng đốc kiểm tra xử lý.
- Phàm việc liên quan đến quân cơ biên giới, như bắt cướp, dẹp phỉ, điều binh, chuyển lương, viên Tổng đốc kiêm hạt phải chú tâm lo liệu, nếu các sảnh sở thuộc nào không chịu trình báo, viên Tổng đốc kiêm hạt không thể lo liệu được, thì cho phép hặc tấu tất cả.
3. Để giữ chức Tổng đốc viên quan phải mang hàm Thượng thư Bộ Binh kiêm hàm Hữu Đô Ngự sử Đô sát viện, hưởng trật thì thuộc hàm Chánh nhị phẩm (tiền cả năm 250 quan, 200 phương gạo, tiền xuân phục là 50 quan, tiền tuất là 200 quan. Được cáo thụ Tư thiện đại phu, Chính trị thượng khanh, thụy là Trang Lượng, vợ xưng là phu nhân.) Tiền dưỡng liêm hàng năm của Tổng đốc là 80 quan; số thuộc quân của Tổng đốc Bắc kỳ là 30 lính, Nam kỳ là 60 lính.
Chú thích:
(1)Dưỡng liêm là tiền cấp thêm ngoài lương bổng để quan lại giữ được thanh liêm.
Tài liệu tham khảo:
1.Đỗ Văn Ninh: Từ điển chức quan Việt Nam. Nxb. Thanh niên, H. 2002.
2.Khâm định Đại Nam hội điển sự lệ (Tục biên). Quốc sử quán triều Nguyễn, Nxb. Giáo dục.
3.Quan chức đời Minh Mệnh qua văn bản Đại Nam hội điển toát yếu. Ngô Thế Long - La.112.
4.Quan chức đời Minh Mệnh qua tư liệu Quốc triều điển lệ quan chế lược biên. Lê Như Duy. Đề tài tập sự 2005./.

Thursday 3 May 2012

Rút cục thì ông ấy tên gì?

Viên tướng chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ là Christian de La Croix de Castries. De Castries là một dòng họ quý tộc lâu đời ở Pháp. Người Việt phiên âm khi là Đờ-cát-xtơ-ri, khí là Đờ-cát
Có vẻ như Đờ-cátĐờ-cát-xtơ-ri rút gọn. Thực ra không phải như vậy: chữ i trong De Castries không có phát âm, tức là phải đọc như De Castres. Những người phiên De Castries thành Đờ-cát-xtơ-ri căn cứ vào mặt chữ mà nghĩ là cái họ ấy phải phát âm như thế chứ không biết thực tế nó được phát âm như thế nào.

Tuesday 1 May 2012

Từ Nguyên 1 (Cao Tự Thanh)

Từ nguyên 1


Năm 1998 có lần viết một bài về mảng từ Việt Hán trong tiếng Việt trên báo Tuổi trẻ, nêu ra sự khác biệt giữa các từ cô lập – độc lập và bất nghĩa – phi nghĩa – vô nghĩa, có một vị cán bộ hưu trí ở Hà Nội gửi thư căn vặn là giải thích các từ cô lập – độc lập theo từ điển nào, lại làm khó hỏi hai từ phi chính phủ và vô chính phủ khác nhau thế nào về từ pháp. Ban Biên tập chuyển thư tới, vừa bực mình vừa buồn cười nhưng cũng vội trả lời, trong nói “Cách giải thích độc lập và cô lập trong bài viết đối với tôi cũng đơn giản, nên tôi chưa cần tra cứu từ điển hay tài liệu nào cả. Mong ông thông cảm, những người đọc báo hay dựa vào từ điển chứ tôi là người đọc sách, lòng tin vào từ điển cũng có mức độ, vả lại làm khoa học thì phải tìm ra những cái mới và đúng, những cái mà các từ điển chưa có hay có mà sai. Về hai từ phi chính phủ và vô chính phủ mà ông nêu ra để kiểm tra học vấn của tôi thì xin thưa lại thế này: hai từ này có từ pháp giống nhau nhưng ngữ nghĩa của các yếu tố cấu thành đều khác nhau. Phi chính phủ là “không phải chính quyền” (tiếng Anh là non-government) còn vô chính phủ là “không có cấm lệnh” (tiếng Anh là anarchy), chỉ tình trạng hỗn loạn không có trật tự hay thái độ ngang ngạnh bất chấp pháp luật. Còn trong các ví dụ tôi nêu thì có vấn đề từ pháp. Phi trong phi nghĩa là một tính từ có nghĩa là sai trái tà ác, nên phi nghĩa được dùng như một phạm trù đối lập với chính nghĩa, còn bất trong bất nghĩa là một phó từ. Ngoài ra nghĩa trong bất nghĩa chỉ các chuẩn mực lối sống, còn nghĩa trong phi nghĩa chỉ đạo đức chính trị, có nội hàm khác nhau”. Hôm nay giở lại các bài viết thư từ cũ trong máy để tìm vài tư liệu tình cờ nhìn thấy lá thư, nghĩ nhiều người không có thời gian đọc sách tra cứu chắc khó biết rõ về từ nguyên của nhiều từ Việt Hán, lại nhân đang soạn một bảng tra về từ Hoa Hán và từ Việt Hán nên nghĩ trích post lên vài ba mươi từ cũng có thể vửa giúp mọi người có cái giải trí vừa được các bậc thức giả chỉ giáo thêm cho.

英 雄 Anh hùng: anh là tinh hoa của loài cây, hùng là tinh hoa của loài thú, nên anh hùng dùng chỉ kẻ hơn người. Cũng có lối giải thích Kẻ biết được mình là anh, kẻ thắng được mình là hùng (Tự tri giả anh, tự thắng giả hùng), tóm lại anh hùng đều chỉ kẻ có tài thức, tố chất hơn người.

  Ảnh hường: ảnh là cái bóng của vật, hưởng là âm vang của tiếng, chỉ kết quả tất yếu và khách quan của một sự kiện hay quá trình, về sau còn được dùng như động từ, chỉ sự tác động của một hoặc nhiều sự vật tới một hoặc nhiều sự vật khác.

不- 非 – 無 Bất, phi, vô: bất là không, phi là không phải, vô là không có, như Bất nghĩa là không đúng đạo nghĩa, Phi nghĩa là trái với chính nghĩa, Vô nghĩa là không có ý nghĩa, Bất thường là không được bình thường, Phi thường là không phải tầm thường, Vô thường là không có thường hằng vân vân. Ở đây còn có vấn đề từ pháp, chẳng hạn Vô tội là không có tội, nhưng Bất tội trong thành ngữ “Bất tri giả bất tội” mà một số dịch giả truyện võ hiệp ở miền Nam trước tháng 4. 1975 đã sơ suất dịch sai thành (Kẻ không biết thì) không có tội thì phải dịch là không bắt tội. Từ tội ở đây được dùng theo lối ý động pháp trong Hán ngữ, tức Dĩ chi vi tội (lấy đó làm tội), nên bất ở đây là một phó từ.

騈 偶
Biền ngẫu: biền là hai con ngựa được thắng vào một chiếc xe, ngẫu là số chẵn, biền ngẫu là bằng vai sóng đôi với nhau. Loại văn chương có hai vế đối nhau vì thế được gọi chung là biền văn hoặc văn biền ngẫu.
 腳 Căn cước: căn là gót chân, cước là bàn chân. Khi đi người ta đặt gót chân xuống trước, nên căn đây chỉ gốc rễ, lai lịch, khi bước người ta nhấn bàn chân xuống trước, nên cước đây chỉ hoạt động, hành trạng. Căn cước vì thế được dùng chỉ quê quán lai lịch, tiểu sử hành trạng của một người. Trước 1975 chính quyền miền Nam gọi giấy chứng minh nhân dân là thẻ căn cước là theo ý nghĩa này.

孤 立 – 獨 立
Cô lập – Độc lập: cô là lẻ loi, độc là một mình, lập là đứng, nghĩa bóng là tồn tại. Cô và lập có ý nghĩa tương đồng nhưng cô lập khác độc lập là vì từ pháp, tức cô trong cô lập là động từ còn độc trong độc lập là tính từ. Động từ cô lập này cũng có hai thể chủ động (làm cho kẻ khác bị lẻ loi) và bị động (bị kẻ khác làm cho thành lẻ loi).

固 執 – 堅 持 Cố chấp – Kiên trì: cố là chắc, chấp là cầm, kiên là bền, trì là giữ, đều có ý nghĩa cầm chắc giữ bền, nhưng qua thực tế sử dụng của người Việt thì chúng đã được gán cho những sắc thái tình cảm – tâm lý khác nhau, ví dụ kiên trì thường được dùng trong trường hợp có thiện
cảm còn cố chấp thì trong trường hợp có phản cảm, tương tự cặp từ kiên cường – ngoan cố, ví dụ quân ta thì kiên cường đánh trả chứ quân địch thì nhất định phải là ngoan cố chống cự vân vân.

斟 酌
Châm chước: đều là rót chất lỏng như trà rượu, nói chung phải ước lượng vật đựng lớn nhỏ cạn sâu thế nào để không bị đổ bị tràn, nên châm chước chỉ việc đắn đo tính toán kỹ càng trước khi làm. Tuy nhiên từ này còn có một ý nghĩa khác vì châm và chước có những nét nghĩa khác nhau. Châm là rót rượu vào bầu hay rót nước vào bình pha trà, chước là rót rượu từ bầu hay rót trà từ bình ra chén (chữ chước có một biến âm là chuốc tức rót mời, như chuốc trà chuốc rượu), tóm lại càng rót thì lượng rượu trà càng ít đi, nên từ này còn được dùng với nghĩa làm cho bớt đi, ví dụ từ kỷ luật hạ xuống cảnh cáo rồi từ cảnh cáo hạ xuống khiển trách vân vân đều là nhờ châm chước, ý nghĩa này đặc biệt thịnh hành trong quan trường Việt Nam hiện nay.

猶 豫 – 狐 疑 
Do dự, hồ nghi: dự là chuẩn bị, do là một loài thú giống khỉ, leo cây rất giỏi nhưng nhút nhát, ở trong núi nghe có tiếng động là sợ người ta tới bắt, vội vàng leo lên cây, hồi lâu mới dám xuống nhưng lại leo lên, cứ thế mấy lần, lúc nào cũng nơm nớp chuẩn bị, nên gọi là do dự. Lại có thuyết nói tục vùng Lũng Tây Trung Quốc gọi chó là do, chó theo chủ ra ngoài thường chạy lên trước rồi dừng lại chờ, nếu lâu không thấy chủ tới lại quay lại đón, cứ thế đi đi lại lại, nên người ta gọi việc ngần ngừ không quyết bề nào là do dự, người Việt Nam thường dùng từ do dự theo nghĩa này. Hồ là con cáo, tính cáo hay nghi ngờ nên người ta gọi kẻ đa nghi là hồ nghi. Tóm lại Do dự hồ nghi là Lo lắng như do (hoặc Phân vân như chó), đa nghi như cáo.

特 別
Đặc biệt: đặc là một con bò, trong nghi lễ thời vua Thuấn có một lễ tế chỉ giết một con bò, gọi là lễ Đặc. Biệt là riêng biệt, tách ra. Đặc biệt lúc đầu dùng chỉ những hiện tượng, sự vật đơn nhất, độc đáo không thuộc hệ thống nào, về sau được mở rộng ý nghĩa, dùng để nhấn mạnh một hiện tượng, sự vật nào đó.

嫁 娶 
Giá thú: giá là gả chồng, thú là cưới vợ. Giá thú được dùng chỉ việc cưới vợ gả chồng nói chung. Trước 1975 chính quyền miền Nam gọi giấy đăng ký kết hôn là giấy giá thú là theo ý nghĩa này.
欣喜 
Hân hỷ: vui vè mừng rỡ, có lẽ thông qua một trung gian âm đọc Hoa Hán nào đó rồi biến âm thành hớn hở trong tiếng Việt. Có thể chính từ này đã đảo ngược thành hỷ hân rồi biến âm thành hí hửng.

歡喜 
Hoan hỷ: hoan là cười nói vui vẻ, hỷ là có điều vui mừng trong lòng hiện ra ngoài mặt, tóm lại hoan chỉ mới là thái độ vui vẻ bề ngoài. Điểm khác biệt tinh tế này thể hiện qua việc tạo từ, chẳng hạn buông thả chơi bời gọi là truy hoan, họp mặt bạn bè đồng sự ăn uống vui chơi gọi là liên hoan chứ không ai gọi là truy hỷ, liên hỷ, nhưng tới dự đám cưới thì nhất định phải chúc mừng song hỷ mới êm, chứ nếu chúc cô dâu chú rể song hoan thì đúng là cầm bằng chửi cha hai họ.
康 莊 Khang trang: khang là chỗ ngã năm, trang là chỗ ngã sáu trên đường đi, nói chung đều phải to lớn rộng rãi, nên khang trang về sau được dùng rộng ra để chỉ cả những kiến trúc dân dụng như nhà cửa cung điện to lớn rộng rãi.

領 袖
Lãnh tụ: lãnh là cổ áo, tụ là ống tay áo. Đây là hai bộ phận đầu tiên mà khi mặc áo người ta phải nắm lấy, nên sau dùng ví với người đứng đầu, người quan trọng nhất của một tổ chức hay phong trào.

潤 筆 
Nhuận bút: làm ướt ngòi bút. Ngày xưa người ta viết bằng bút lông, nếu lâu ngày ngòi bút không được thấm ướt lông sẽ khô giòn gãy rụng (câu “Trúc se ngọn thỏ…” trong Truyện Kiều là chĩ chuyện này), nên kẻ xin văn xin chữ người ta rồi thù lao bằng tiền thì nói nhã là tiền nhuận bút. Về sau các nhà xuất bản, tòa báo trả tiền sách tiền bài cho tác giả cũng dùng từ này, dù rằng hàng trăm năm nay đại đa số người viết đã không dùng bút lông nữa. Cái lạ là khi trả tiền cho ảnh đăng báo người ta lại gọi là nhuận ảnh (làm ướt ảnh hay máy ảnh?)… Riêng chữ nhuận này còn biến âm thành từ nhuần trong tiếng Việt như nhuần thấm, nhuần nhã (chỉ dáng vẻ sáng sủa tươi tắn), nhuần nhị (chỉ dáng vẻ mềm mại mịn màng). 
宂 擾 
Nhũng nhiễu: quấy rầy không cho yên, dường như chính từ này đã biến âm thành nhõng nhẽo.

風 雅
Phong nhã: tên hai phần trong Kinh Thi của Trung Quốc, Phong chỉ thơ ca dân gian các nước chư hầu, Nhã gồm Đại nhã và Tiểu nhã tức lời các bài hát trong những dịp lễ nghi yến tiệc của triều đình thời Chu. Sau khi được coi là một trong những kinh điển cơ bản của Nho gia, Kinh Thi thường được người học trích dẫn, vận dụng thậm chí cả trong lời ăn tiếng nói hàng ngày, vì thế Phong nhã dần dần trở thành từ chỉ chung người có học vấn, văn chương.

鋪 
Phố. Chữ này có khi viết là kim + phủ, có khi viết là xá + phủ, nghĩa là cửa hàng buôn bán, thật ra cũng không có gì đáng nói. Chỉ là trong tiếng Việt có hiện tượng một số phụ âm đầu Việt Hán như ph, k (c), tr chuyển thành b, g, ch làm hình thành một cách đọc chữ Hán của người Việt thời cổ mà Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn gọi là cách đọc Cổ Hán Việt như phi => bay, phòng => buồng, phụ => bố, phủ => búa, kê => gà, cận => gần, ký => ghi, cưỡng => gượng, trà => chè, trản => chén, trì => chầy, trình => chiềng. Chữ búa trong từ chợ búa chính là chữ phố này biến âm theo quy luật ngữ âm nói trên.

Cần nói thêm là Từ điển tiếng Việt của nhóm Hoàng Phê, Nxb. Khoa học xã hội, 1988 chỉ định nghĩa Chợ búa là “chợ (nói khái quát)”, không nêu được ý nghĩa của từ búa. Cũng có người tìm cách giải thích ý nghĩa từ này, nhưng lại suy diễn theo kiểu cảm tính nên đã kết luận búa tức bến nói chệch đi, rồi dẫn câu Trên bến dưới thuyền để minh họa. Khoảng cuối 1996 có lần cố Giáo sư Trần Quốc Vượng vào Sài Gòn nhờ anh Đặng Văn Thắng hiện là giảng viên Khoa Sử Đại học Tổng hợp thành phố chở tới nhà tôi chơi, uống rượu nói chuyện chữ nghĩa một hồi anh Vượng cao hứng cũng nói thế, lúc ấy tôi bực mình lại đã ngà ngà bèn lớn tiếng “Anh không biết thì im đi, đừng suy diễn bậy bạ, quy luật ngữ âm nào cho phép bến chuyển thành búa chứ”, rồi giải thích như trên, lại nói thêm chợ là nơi mua bán không có xây dựng cơ sở hạ tầng, kiểu như các chợ quê trước kia, còn búa tức phố là nơi mua bán có xây dựng cửa hiệu kho hàng vân vân, tóm lại là đã bước vào môi trường và kiểu thức kinh doanh ở đô thị. Lúc đầu có lẽ anh Vượng hơi giận nên không nói gì, nhưng kế đó thì gật gù. Cũng vì chữ búa này mà có lần tôi đụng Giáo sư Nguyễn Đức Dân ngay tại nhà y, hôm ấy y nói chữ búa ấy có thể là trong tiếng Mường rồi toan lấy từ điển Việt Mường gì đó ra tra. Tôi cười nhạt nói anh không cần tra đâu, nếu người Mường có phố thì họ thành người Kinh trước người Việt rồi, y hơi quê bèn thôi. Tôi kể lại những chuyện này không phải để khoe, mà để mọi người thấy rằng muốn tìm hiểu ngôn ngữ thì phải có kiến thức toàn diện không những về ngôn ngữ mà còn cả về lịch sử, văn hóa và xã hội, chứ không thể suy diễn theo cảm tính chủ quan mà tìm được kết luận chính xác hay hợp lý đâu. 

複 雜 Phức tạp: phức là áo nhiều lớp, tạp là nhiều sự vật xen lẫn với nhau. Phức tạp dùng chỉ trạng thái hay hiện tượng nhiều sự vật khác nhau trộn lẫn đan xen với nhau, khó nhận dạng và phân biệt rạch ròi.

 
Thặng, thừa. Chữ này có hai âm, đọc là thặng là danh từ, nghĩa là cỗ xe bốn ngựa kéo, đọc là thừa là động từ, nghĩa là cưỡi xe. Phật giáo có hai đường lối tu hành được ví với cỗ xe, một chủ trương con người phải từng bước giác ngộ (tiệm ngộ) gọi là Tiểu thặng (cỗ xe nhỏ), một chủ trương con người có thể đột nhiên giác ngộ (đốn ngộ) gọi là Đại thặng (cỗ xe lớn), nhưng nhiều người vẫn gọi lầm là Tiểu thừa, Đại thừa. Theo một số nhà nghiên cứu, sự lầm lẫn này chủ yếu xuất phát từ Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh trước 1945. 

切 磋 Thiết tha: thiết là cắt, tha là mài, chữ trong Kinh Thi, Vệ phong, Kỷ úc “Như thiết như tha… Chung bất khả huyên hề” (Như cắt như mài… Không thể quên được chừ), thật ra ca ngợi Vệ Vũ công là người quân tử biết trau dồi tài đức nên được nhân dân yêu mến nhớ nhung. Nhưng trong mảng từ Việt Hán từ này lại có nét nghĩa khác với ở Trung Quốc, chỉ việc yêu mến nhớ nhung tới mức thấy trong lòng như bị cắt bị mài, nhiều khi đảo ngược thành Tha thiết. Trong phương ngữ Bắc cổ từ này biến âm thành Se sắt, về sau lại biến âm thành Da diết, kế lại có một biến âm mang ý vị trào lộng là Ra rít.

Sunday 29 April 2012

VỀ QUỐC HIỆU ĐỜI NHÀ ĐINH - Nguyễn Tài Cẩn

Đại Việt hay Đại Cồ Viêt ?


VỀ QUỐC HIỆU ĐỜI NHÀ ĐINH


Nguyễn Tài Cẩn



Gần đây đã có những sự bàn bạc khá sôi nổi xung quanh vấn đề quốc hiệu đời nhà Đinh. Chúng tôi đã được một số bạn bè (1) gửi thư và bài đến hỏi ý kiến. Nhưng chúng tôi chưa có đủ điều kiện để giải quyết triệt để, vậy sơ bộ chỉ xin có mấy lời thưa lại như sau, về phương hướng nghiên cứu.

CÙ hay CỒ ?


Trước hết là về vấn đề chữ CỒ (âm Bạch thoại qú) trong Hán ngữ. Chữ này thuộc vận bộ NGU, nhiếp NGỘ. Theo thống kê của chúng tôi, vận bộ NGU, trong cách đọc Hán Việt, đã cho chúng ta 137 chữ đọc với U, 7 chữ đọc với Ô, 5 chữ đọc với O và 11 chữ đọc với ÂU (2).
Vậy đọc CÙ thì thuận theo đa số.
Nhưng Từ điển Hán-Việt Đào Duy Anh đọc là CỒ trong CỒ NHIÊN và Từ điển Phật học Hán Việt (Kim Cương Tử chủ biên, Hà Nội, 1992, tr.276) đọc là CỒ trong CỒ ĐÀM (Gautama) thì đó cũng là điều đã có tiền lệ. Và cũng dễ hiểu vì sao trước nay quốc hiệu đời nhà Đinh thường cũng được chúng ta quen gọi là ĐẠI CỒ VIỆT.
Trên đây là nói về cách đọc Hán Việt. Còn nói về cách đọc Nôm thì dùng một chữ Hán thuộc vận bộ NGU hay vận bộ MÔ để ghi Nôm vần U, vần Ô đều được cả. Ngay thế kỷ 17 chúng ta đã có những cách ghi như sau :
‒ Dùng vận bộ NGU
- ghi Ô như trong CỖ dùng thanh phù CỤ ;
- ghi U như trong RỦ dùng chữ LŨ ;
‒ Dùng vận bộ MÔ
- ghi Ô như trong NỔ dùng chữ NỖ ;
- ghi U như trong BÚ dùng thanh phù BỐ.

(ĐẠI CỒ) + VIỆT hay ĐẠI + (CỒ VIỆT) ?


Có lẽ nên phân tích ĐẠI CỒ VIỆT thành ĐẠI + (CỒ VIỆT) chứ không nên phân tich thành (ĐẠI CỒ) + VIỆT.
Xin nói rõ ba lí do như sau đi ngược chiều với (ĐẠI CỒ) + VIỆT :
‒ Nếu cho ĐẠI CỒ ghi nhầm từ một chữ CỒ đặt theo lối hình thanh, bao gồm nghĩa phù ĐẠI và thanh phù CỒ thì trong các bản Nôm càng cổ càng rất ít khi gặp mô hình cấu tạo ấy. Xưa phần lớn người ta thường dùng lối giả tá, mượn một chữ Hán để ghi một tiếng Nôm đồng âm hay có âm gần gũi. Không phải ngẫu nhiên mà cách viết CỒ = đại+cồ, tự điển chữ Nôm của viện Hán Nôm cũng chỉ mới tìm được trong thơ Tú Xương !
‒ Nếu cho ĐẠI CỒ là cách ghi một dạng cổ song tiết (kiểu như LA ĐÁ = đá ), hay có tổ hợp phụ âm ở đầu (kiểu như BA LẠI = blái > trái) thì hiện có quá ít tiền lệ về trường hợp Đ...K... ! Trong kinh Phật thuyết... có kỵ húy đời Trần, trên tổng số hơn 100 lần dùng kiểu chữ này cũng chỉ có một ví dụ Đ.. K....mà thôi : đó là cách dùng ĐA KỶ // CƠ ? để ghi tiếng GHE với nghĩa là “nhiều” .(3)
‒ Còn nếu cho ĐẠI CỒ là 2 chữ (một Hán Việt, một Nôm) đồng nghĩa với nhau thì tổ hợp đó cũng đã bị nhiều người phản bác, nghi ngờ.
Trong lúc đó cách phân tích thành ĐẠI + (CỒ VIỆT) có thuận lợi hơn nhiều. Ít nhất ‒ như dưới đây sẽ thấy ‒ sẽ có hai khả năng có thể đưa ra, ủng hộ nó.

GIẢ THUYẾT I : CỒ VIỆT = nước VIỆT hùng mạnh có vũ khí CỒ


1/ Giả thuyết này, nhìn chung, khá quen thuộc. Theo giả thuyết này thì :
‒ CỒ VIỆT đặt theo mô hình của LẠC VIỆT, ÂU VIỆT, NAM VIỆT, MÂN VIỆT v.v... Còn chữ ĐẠI là thêm vào sau để nhấn mạnh : CỒ VIỆT > ĐẠI CỒ VIỆT là một sự sáng tạo thuộc cùng một kiểu như ĐÔNG Á > ĐẠI ĐÔNG Á trong chiến tranh thế giới lần thứ 2 vừa qua. Cách sáng tạo này xưa nay khá phổ biến, trong từ ngữ thông thường cũng như trong danh từ riêng. Trong cuốn TỪ HẢI có thể dẫn :
* những ví dụ như : bất kính // đại bất kính ; đa số // đại đa số, hòa thượng // đại hòa thượng...
* rất nhiều tên chỉ các chức vụ như : nguyên soái // đại nguyên soái, tư đồ // đại tư đồ, tư mã // đại tư mã...
* và cả những danh từ riêng như : Nhục Chi // Đại Nhục Chi (quốc danh ở Tây vực), Cô Đường // Đại Cô Đường (địa danh ở Giang Tây), Kim Xuyên // Đại Kim Xuyên (tên sông ở Tứ Xuyên), Thanh hà // Đại Thanh hà (tên sông ở Hà Bắc ) v.v.
2/ Nhưng chúng ta hiện có một số cứ liệu khá quan trọng : như cách gọi CỒ VIỆT trong 2 câu đối cổ, trong Việt sử... tứ tự ca, hay cách gọi tắt CỒ VIỆT thành CỒ trong CỒ KINH, CỒ ĐÔ v.v. ( dẫn theo bài của Nguyễn Anh Huy(4)).Vì vậy chúng ta nên xoáy sâu thêm vào tên gọi CỒ VIỆT này.
‒ Như mọi người đều biết, trước nay giới nghiên cứu thường nêu 2 cách hiểu chính :
* CỒ VIỆT = nước Việt to lớn ;
* CỒ VIỆT = nước Việt thờ CỒ ĐÀM, nước Việt theo Phật giáo ;
‒ Có lẽ, nếu đứng đơn thuần về mặt ngôn ngữ mà xét, thì ít nhiều cách hiểu nào cũng đều có thể gắng gượng bảo vệ được cả :
* Phản bác rằng kết hợp tiếng Nôm với tiếng Hán thì không nên, hay đặt tính từ trước danh từ là sai ngữ pháp thì có thể tạm cãi lại với những ví dụ đã có từ lâu như BỐ CÁI ĐẠI VƯƠNG, NHANH TRÍ, YẾU THẾ hay khả năng tạo từ đang xảy ra trước mắt như NHỚT KẾ, VÔI HÓA...
* Còn phản bác rằng CỒ trong CỒ ĐÀM là một tiếng ngoại lai, nói tắt từ Gautama, không thể đặt trước chữ VIỆT thì cũng có thể phản bác lại bằng cách dẫn khả năng tạo ra những kết cấu hiện có như ION HÓA hay GA PHÓ, KÍP TRƯỞNG...
‒ Nhưng dầu sao, cũng chưa cách hiểu nào trên đây được mọi người hoàn toàn nhất trí. Do vậy, Nguyễn Anh Huy mới đề xuất thêm một cách hiểu thứ ba (4) : CỒ VIỆT = nước Việt hùng mạnh có vũ khí CỒ (CỒ là cây giáo).
Nên chăng là dành ưu tiên cho cách hiểu mới mẻ này ? Bởi vì, với cách hiểu này, CỒ VIỆT không những tránh được các sự phản bác trên kia mà lại còn :
* vừa hợp với thời đại : theo Nam Hải dị nhân, Đinh Bộ Lĩnh có gươm, vậy thời đại nỏ thần đã chuyển sang thời đại gươm giáo ;
* vừa có sự ăn khớp với tinh thần thượng võ, tinh thần tự hào trong các tên gọi VẠN THẮNG VƯƠNG, ĐẠI THẮNG MINH HOÀNG ĐẾ ;
* vừa có sự ăn khớp với cả cấu trúc của tên gọi LẠC VIỆT xa xưa. Xin so sánh
+ LẠC VIỆT = vùng Việt có sản vật quí hiếm : có ruộng LẠC trồng lúa nước ? hay có chim LẠC thường về trú đông ? ;
+ CỒ VIỆT = vùng Việt hùng cường có vũ khí mạnh gọi là CỒ.

GIẢ THUYẾT II : CỒ VIỆT = dạng 2 âm tiết của VIỆT


Chúng tôi cũng xin gợi thêm một giả thuyết : phải chăng, khoảng giữa thế kỉ 10, ở vùng quê hương Đinh Bộ Lĩnh, chữ VIỆT còn được đọc thành Ku/WET nên ĐẠI + VIỆT mới được ghi thành ĐẠI + CỒ / VIỆT ? Giả thuyết này dựa trên lich sử diễn biến của ngôn ngữ nên, đáng lí ra, phải trình bày theo phong cách ngôn ngữ học. Nhưng để tránh quá rắc rối nên chúng tôi chỉ xin chọn vài điểm quan trọng nhất, và gắng viết ra một cách phổ thông, đơn giản nhất.
1/ Chữ VIỆT, cũng như các chữ VI (với nghĩa là “bao vây”), VINH (như trong “vinh quang”), VỰNG (chỉ “vầng khí sáng xung quanh mặt trăng mặt trời”) v.v..., theo giới Hán học, đều thuộc thanh mẫu VÂN. Vào khoảng Đường Tống, thanh mẫu VÂN đã tách ra khỏi thanh mẫu HẠP. HẠP xưa có phụ âm G (đọc theo Quốc ngữ ), còn VÂN thì có một âm H hút vào (5).
‒ Theo thống kê sơ bộ của chúng tôi :
* có khoảng 10 trường hợp VÂN thuộc khai khẩu (không đứng trước W, không đọc tròn môi ) nên tạm ghi là H ;
* và khoảng 70 trường hợp thuộc hợp khẩu (đọc tròn môi và đứng trước vần mở đầu bằng W) nên tạm ghi là Hu(W).
‒ Với quy ước như trên, có thể nói ở giai đoạn tiếng Hán trung cổ :
* VIỆT có phát âm là HuWET ; VI // VÂY có phát âm là HuWI //. HuWEI
* Nhưng phụ âm Hu hút vào và tròn môi của thanh mẫu VÂN, theo S.A. Starostin, rất linh động, có khi rụng hẳn (6).Khi đó chúng ta chỉ còn lại WET, WI // WEI và chúng sẽ dẫn đến VIỆT, VI // VÂY.
Chuyện bỏ âm đầu, chỉ giữ lại phần sau như vậy đến sau thế kỉ 17 vẫn còn, ví dụ MLỜI bỏ M còn LỜI, TLÍU TLO bỏ T còn lại LÍU LO. Và hiện nay vẫn thế, ví du vay BLEU mà bỏ B, chỉ giữ lại LƠ trong XANH LƠ. Vậy chuyện HuWET đưa đến VIỆT, HuWI //HuWEI đưa đến VI // VÂY là chuyện của một truyền thống đã kéo dài hơn 1.000 năm.
‒ Nhưng Hu cũng có trường hợp không rụng, lại chuyển thành Ku, như trường hợp VÂY đưa đến QUÂY. Trường hợp VỰNG//VẦNG cũng vậy : chúng đưa đến QUẦNG như trong câu tục ngữ QUẦNG HẠN TÁN MƯA... Rõ ràng đã có quá trình KuWEI > KuEI, KuWẦNG >KuẦNG, xóa bỏ yếu tố W ở giữa. Thế kỉ 17, A. De Rhodes cũng cho thấy MLÁC có thể bỏ L, còn MÁC. Và hiện nay chúng ta cũng còn thấy có thể vay CRÈME, bỏ R, còn KEM. Vậy chuyện sản sinh ra QUÂY, QUẦNG cũng đã đi theo một truyền thống có mặt trên 10 thế kỉ.
2/ VIỆT cũng có trường hợp chuyển từ HuWET đến KuWET, nhưng VIỆT không đưa đến QUYỆT theo kiểu của VÂY//QUÂY, VẦNG// QUẦNG. Vì sao ? Đó là vì ‒ theo ngôn ngữ học ‒ chúng ta đã có QUYỆT trong QUỈ QUYỆT, nếu VIỆT còn cho thêm QUYỆT nữa thì gây thêm đồng âm, trở ngại cho việc giao tiếp.
‒ Để bù lại, KuWET sinh ra cách nói CỒ VIỆT. Tiếng CỒ là do phụ âm tròn môi Ku- của từ KuWET được âm tiết hóa mà thành (tức được tách riêng, ghi bằng 1 âm tiết)
‒ Cách làm này cũng giống như TRÔNG, TRỐNG thế kỉ 17 có TL nhưng xưa KL, nên phụ âm đầu K được ghi Nôm thành CÁ, thành CỔ (TRÔNG > CÁ LUNG ở Kinh Phật thuyết ; TRỐNG > CỔ LỘNG ở trên chuông đời Vĩnh Tộ vùng Yên Phong). Hay giống như gần đây, S trong Stalin, KH trong Khrusôp có hồi đã đưa đến hai âm tiết XÍT, KHỜ trong cách phiên âm thành XÍT-ta-lin và KHỜ-rút-sốp. Hoặc, để gần cuộc sống chúng ta hơn nữa, cũng có thể dẫn đến cả chuyện phụ âm C- trong CRÈME đã đưa đến tiếng CÀ trong cách nói CÀ REM mà Nguyễn Quang Sáng đã đưa vào trong tác phẩm “Vểnh râu” của mình. Rõ ràng chuyển Ku (trong KuWET) thành CỒ (trong CỒ VIỆT) là một cách làm cũng đã trở thành một mô hình được tuân thủ suốt từ đời nhà Đinh đến nay.
‒ Còn sự tồn tại song song, đồng thời của cả 2 cách nói VIỆT và CỒ VIỆT thì có gây phiền phức gì không ? Xin thưa rằng không ! Bởi vì :
* Nhìn chung, chuyện một chữ gốc Hán mà có đến 2 cách đọc vốn là chuyện bình thường. Hơn nữa chúng ta lại còn có thói quen ‒ còn phổ biến đến tận ngày nay ‒ là trong tiếng thuần Việt, vừa có thể nói CÃI NHÂY vừa có thể nói CÃI CÙ NHÂY, vừa có thể nói ĐI THỌT, vừa có thể nói ĐI CÀ THỌT v.v...
* Mà ở Việt Nam, lối biến một dạng đơn âm thành một dạng song âm như vậy cũng thấy có cả ở từ gốc Hán : trong phần dịch Nôm bản kinh PHẬT THUYẾT chúng ta vừa gặp cả XƯỚNG, XA, KÍNH, THUYẾT vừa gặp cả A XƯỚNG, KHẢ XA, XÁ KÍNH, XÁ THUYẾT ;
* Vậy có khác gì vừa nói cả VIỆT, vừa nói cả CỒ VIỆT !
3/ CHÚ THÍCH THÊM :
‒ Nếu so sánh XA với KHẢ XA, XƯỚNG với A XƯỚNG, KÍNH với XÁ KÍNH, THUYẾT với XÁ THUYẾT chúng ta thấy ở đâu tiền âm tiết cũng chỉ có giá trị ngữ âm : KHẢ ứng với KH // KHa // KHu... ; XÁ ứng với S // Sa // Su... (S đọc X theo Bắc Bộ và quốc tế) ; còn A ứng với một âm tắc thanh hầu ?A // ?U.... Nếu so với cả từ ngữ bản địa thì cũng vậy : VUI lúc ghi BÔI, lúc ghi TƯ BÔI, thêm TƯ chỉ là để phản ảnh âm tiết TA có trong cách đọc cổ TA PUI hiện còn giữ ở Rục. Vậy CỒ trong CỒ VIỆT chắc cũng chỉ có giá trị về ngữ âm như KHẢ, như A, như XÁ như TƯ vừa nói ở trên. Giải thích rằng CỒ có ý nghĩa này, ý nghĩa nọ chắc là chuyện tìm hiểu, phỏng đoán của đời sau.
‒ Chúng ta đã thấy những dạng song tiết được cấu tạo giống như kiểu CỒ VIỆT nhưng có vỏ ngữ âm không giống. Nếu nay muốn có những tiền lệ đọc lên nghe gần gũi hơn thì nên dẫn những ví dụ như :
* CÙ BẤT CÙ BƠ cùng nghĩa với VẤT VƠ. Về âm xin so sánh CÙ BẤT với VẤT ; CÙ BƠ với VƠ.
* Hay so sánh CÙ BÙNG với VỒNG (trong CẦU VỒNG) :
+ CÙ BÙNG có ở trong tục ngữ Sổ CÙ BÙNG lấy thùng mà đựng. SỔ trong A. De Rhodes có nghĩa là “cái mống”.
+ VỒNG có ở trong tục ngữ MỐNG đông VỒNG tây.
VỒNG vốn xuất phát từ chữ HỒNG, cùng một nghĩa như vậy, ở trong tiếng Hán. HỒNG thuộc thanh mẫu HẠP, vốn phát âm là GWONG, nhưng sau chắc cũng đã chuyển thành KuWONG. So sánh chuyện KuWONG (< GWONG ) mà đưa đến CÙ BÙNG // CẦU VỒNG với chuyện KuWET (< HuWET) mà đưa đến CỒ VIỆT thì thấy quả cũng gần gần như nhau ! Còn nếu đọc là CÙ VIỆT thì hai bên lại càng gần nhau hơn nữa !
4/ Nói tóm lại, ý kiến của chúng tôi là :
‒ Chữ VIỆT gốc Hán, vốn có vỏ ngữ âm là HuWET. Nhưng dưới tác động của lối nói năng trong xã hội của người bản địa, nó đã tách đôi đi theo 2 hướng diễn biến khác nhau, đưa đến hai kết quả khác nhau :
* Một hướng diễn biến xẩy ra chung với rất nhiều chữ khác nữa là để rụng mất phụ âm hút vào và tròn môi ở đầu (phụ âm Hu), chỉ còn lưu lại bộ phận WET ở sau. Trường hợp này ta có cách đọc đơn âm là VIỆT.
* Một hướng diễn biến nữa, rất cá biệt, là HuWET chuyển thành KuWET, rồi phụ âm Ku tách ra thành một âm tiết riêng là CỒ, vần WET còn lại vẫn đọc VIỆT. Trường hợp này ta có dạng song âm là CỒ VIỆT.
‒ Hai lối nói VIỆT và CỒ VIỆT không lọai trừ nhau. Thời Đinh Bộ Lĩnh chúng cùng song song tồn tại. Bởp vì xung quanh chúng nó người ta cũng đã có thói quen ‒ lưu đến tận mãi ngày nay ‒ là hay dùng những lối nói nước đôi như CÁI NGOÉO // CÁI CÙ NGOÉO hay như ví dụ CÃI NHÂY // CÃI CÙ NHÂY đã dẫn ở trên kia.
‒ Chắc Đinh Bộ Lĩnh thích lối nói 2 âm tiết nên triều đình ghi quốc hiệu là ĐẠI CỒ VIỆT. Nhưng lò gạch trong vùng vẫn thích nói gọn nên vẫn ghi là ĐẠI VIỆT(*).
‒ Về sau VIỆT càng ngày càng phổ biến, lấn át hẳn CỒ VIỆT.

Từ ĐẠI CỒ VIỆT đến CỒ VIỆT và đến CỒ...


Còn câu chuyện vì sao sau khi cách đọc đơn âm là VIỆT đã được phổ biến vẫn có tài liệu ghi là CỒ VIỆT hay thậm chí còn ghi tắt là CỒ thì có thể giải thích bằng 2 lí do như sau :
‒ cách viết trong văn tự bao giờ cũng có tính cách bảo thủ, lưu lại vết tích ảnh hưởng lâu dài hơn là cách đọc, cách phát âm ;
‒ và cách ghi của xã hội không phải bao giờ cũng là một cách ghi đơn giản, 100% nhất luật trong mọi hoàn cảnh.
1/ Ví dụ về tính bảo thủ của văn tự :
‒ Như hiện nay, ở phương ngữ miền Bắc chúng ta nói CON GIAI nhưng trong Quốc ngữ vẫn viết CON TRAI ; còn trong chữ Nôm TRAI vẫn viết NAM+LAI hay BA+LAI.
Vậy thì trước kia cũng thế : dầu đã có dạng đơn âm là VIỆT nhưng lúc viết, các thế hệ con cháu về sau có khi vẫn dùng lại dạng cổ song âm là CỒ VIỆT hay thậm chí có khi giữ lại chỉ còn một âm tiết CỒ ở đầu. Gọi tắt tên riêng là một truyền thống. Đầu thế kỉ 20, thời Đông Kinh nghĩa thục, sau khi đã đọc tân thư theo lối người Việt, đã làm quen với những tên xa lạ như MẠNH ĐỨC TƯ CƯU hay như LƯ THOA, các lớp nhà Nho chúng ta vẫn có thể nói đến chủ thuyết của các “ cụ LƯ, cụ MẠNH ”, hoàn toàn theo mẫu của CỒ trong CỒ ĐÔ, CỒ KINH thuở trước !
‒ Chúng ta không nên chê trách cách ghi của các nhà viết sử, các nhà làm câu đối hoặc làm thơ đời xưa.
2/ Ví dụ về cách ghi không đơn giản, nhất luật 100 % :
‒ Như trong cùng một bản giải âm kinh Phật thuyết.....chữ VUI khi ghi bằng BÔI (ví dụ ở trang 13/a), khi ghi bằng 2 chữ TƯ và BÔI viết rời nhau (ví dụ ở trang 46/a), khi ghi bằng cách cọng TƯ với BÔI thành một kí hiệu ghép (ví dụ ở trang 20/a).
‒ Hoặc như gần đây, trong cùng một thành phố, vừa dùng cả tên gọi mới vừa dùng cả tên gọi cũ : THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH // SÀI-GÒN. Các báo SÀI GÒN TIẾP THỊ, SÀI GÒN DOANH NHÂN sở dĩ vẫn giữ lại tên gọi cũ chắc là vì muốn tỏ ra tôn trọng thói quen của quần chúng, tôn trọng một truyền thống đã có từ lâu đời.
‒ Vậy chắc thế kỉ 15 cũng thế : rất có thể Ngô Sĩ Liên vừa viết ĐẠI VIỆT SỬ KÍ TOÀN THƯ vừa vẫn tôn trọng tên gọi cũ ĐẠI CỒ VIỆT, tuân theo truyền thống cũ, được bảo toàn trong thư tịch cổ hay trong trí nhớ của dân gian.
3/ Và cũng tất nhiên,đứng trước các cách ghi cổ có khi đời sau đọc lên không thật hiểu và người ta thường đưa ra những cách giải thích khác : đó là giải thích theo cái giới Ngôn ngữ học gọi là từ nguyên thông tục.
Chúng ta hiện chưa biết đâu là cách giải thích đúng theo thực tế lịch sử, đâu là cách giải thích theo từ nguyên thông tục. Chúng ta đang cần phải có một sự dày công nghiên cứu nữa mới mong đưa ra được một ý kiến giải đáp thực sự chắc chắn.. Trước mắt, chỉ mới dám xin nêu lên một số hướng gợi ý, để cùng nhau suy nghĩ, cùng nhau tiếp tục tìm tòi mà thôi.

Nguyễn Tài Cẩn




(1) Chúng tôi đã nhận được bài và/hoặc thư của tiến sĩ Lê Thành Lân (Hà Nội), bác sĩ Nguyễn Anh Huy (Huế) và Phan Văn Thắng, tổng biên tập tạp chí Văn hóa Nghệ An (Vinh). Chúng tôi xin thành thật tỏ lòng biết ơn.
(2) Những cứ liệu thống kê sơ bộ này đều đã được in trong cuốn sách của chúng tôi : Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, tái bản năm 2000.
(3) Xin xem Hoàng Thị Ngọ : Chữ Nôm và tiếng Việt qua bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh, Hà Nội,1999.
(4) Xin xem Nguyễn Anh Huy : 1) CỒ VIỆT chứ không phải ĐẠI CỒ VIỆT ; 2) Lộ trình của quốc hiệu CỒ VIỆT.
Bác sĩ Nguyễn Anh Huy đã chú thích đầy đủ về công trình các tác giả đi trước, nên chúng tôi chỉ xin dẫn lại từ bài của bác sĩ.
(5) Theo nhà Hán học nổi tiếng S. A. Starostin, thanh mẫu VÂN có phụ âm H - hút vào, phải ghi bằng kí hiệu khác H - bình thường. Nhưng để tiện cho các bạn đọc không cần đi sâu vào ngữ âm lịch sử, chúng tôi chỉ ghi đại khái, không thêm dấu móc chỉ sự hút vào ở trên kí hiệu h, hoặc tạm không phân biệt cách ghi U đọc theo tiếng Việt với cách ghi U đọc theo tiếng Pháp. Thay vì bảng ghi âm quốc tế, chúng tôi tạm dùng bảng chữ cái Quốc ngữ in hoa. Thanh điệu chúng tôi cũng xin tạm gác, không ghi.
(6) Cũng theo S. A. Starostin, ở thanh mẫu VÂN, trước vần có W, phụ âm rất linh động, có thể khi giữ khi không (Xin xem cuốn Phục nguyên hệ thống âm vị tiếng Hán thời thượng cổ, bản tiếng Nga, Moskva, 1989.
(*) Các cuộc khai quật ở Hoa Lư cho thấy các viên gạch xây dựng đều được làm tại chỗ và mang tên « Đại Việt quốc quân thành chuyên » (chú thích của Diễn Đàn).
Nguồn: Diễn Đàn Forum

Saturday 28 April 2012

Bàn về khái niệm từ Việt cổ (Nguyễn Đông Hưng)

Chữ Nôm là một sáng tạo độc đáo của dân tộc ta được chế tác trên chất liệu chữ Hán. Cứ liệu lịch sử cho thấy, những chữ Nôm đầu tiên chủ yếu được dùng để ghi tên người tên đất trong các bi kí, mộ chí, gia phả,... Sau đó, khi đã phát triển đến một mức độ tương đối hoàn thiện thì chữ Nôm được dùng để sáng tác văn học, ghi chép văn hóa dân gian, diễn âm các tác phẩm chữ Hán. Rõ ràng, chữ Nôm ra đời đáp ứng nhu cầu rất lớn của dân tộc ta về nhiều phương diện như ghi chép, giao tiếp, biểu đạt thái độ, tư tưởng, tình cảm,… Ngày nay, tuy chữ Nôm không còn được sử dụng rộng rãi như trước, nhưng vẫn không thể phủ nhận vai trò của nó, nhất là trong lĩnh vực nghiên cứu văn hóa dân tộc. Vì thế, trước nay đã có nhiều công trình nghiên cứu có tính chuyên sâu về chữ Nôm, trong đó, quyển Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm(1) là một trong những công trình được xem là tương đối hoàn chỉnh, có hệ thống, đồng thời cũng có ý nghĩa(2) và giá trị rất cao!

Đương nhiên, bên cạnh giá trị và đóng góp, công trình nghiên cứu nào cũng có thể mắc một vài khuyết điểm cần sự bổ sung, sửa chữa của nhiều người. Lí thuyết chữ Nôm văn Nômcũng vậy, những ai đọc qua quyển sách ấy sẽ dễ dàng nhận thấy giá trị và đóng góp to lớn của nó, còn ở đây, chúng tôi với tư cách là độc giả tâm đắc của quyển sách, cũng là người có chút tâm đắc với thứ văn tự xa xưa của dân tộc, xin mạn phép trình bày đôi điều chưa thỏa đáng (theo chúng tôi) trong sách.
Những điều chúng tôi trình bày dưới đây xuất phát từ mục Các từ Việt cổ trong văn thơ Nômbắt đầu từ trang 348.
Trước tiên, xin xác định khái niệm từ cổ trong tiếng Việt và từ Việt cổ.
1. Khái niệm từ cổ trong tiếng Việt
Hán Việt từ điển, Đào Duy Anh, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1992, mục cổ ngữ (tức từ cổ-NĐT): tiếng nói ngày xưa;
Hiện đại Hán ngữ từ điển, Lã Thúc Tương (chủ biên), Thương vụ ấn thư quán xuất bản, Trung Quốc, 1998, mục cổ ngữ: cổ đại đích từ ngữ (từ ngữ xưa);
Tác giả Nguyễn Ngọc San cũng đưa ra nhận định về từ cổ như sau: “Từ cổ theo quan niệm truyền thống không phải là những từ có lịch sử lâu đời nhất trong một ngôn ngữ, mà là những từ đã được lưu lại trong các văn bản viết cổ hay văn bản miệng cổ (ca dao, tục ngữ) mà hiện nay không còn được sử dụng nữa, và để hiểu được chúng, người ta phải dùng đến các loại từ điển từ nguyên và các từ điển điển cố…”(3)
Qua ba định nghĩa trên, chúng ta thấy từ cổ là những từ ngữ (hoặc tiếng nói) được sử dụng vào thời xưa trong ngôn ngữ của một dân tộc. Tuy nhiên, ba định nghĩa trên vẫn chưa xác định đầy đủ tiêu chí của khái niệm từ cổ. Trên thực tế, khái niệm này “vốn là một khái niệm không được rõ ràng”(4). Theo chúng tôi, từ cổ theo nghĩa chung phải là những từ được sử dụng vào thời xưa của một dân tộc, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ một / các ngôn ngữ khác (cùng hệ hoặc không cùng hệ) và hiện nay không còn được sử dụng trong ngôn ngữ của dân tộc đó. (Đúng là để hiểu được chúng, người thời nay “phải dùng đến các loại từ điển từ nguyên và từ điển điển cố”.)
Như vậy, từ cổ trong tiếng Việt là những từ được dân tộc ta sử dụng vào thời xưa, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ các nhóm ngôn ngữ Mon-Khmer, Tày-Thái, Mường, Hán (có thể cả ngôn ngữ Châu Âu) và hiện nay không còn được sử dụng trong tiếng Việt.
2. Khái niệm từ Việt cổ
Từ khái niệm rộng về từ cổ trong tiếng Việt như trên, chúng ta dễ dàng đi đến xác định khái niệm hẹp về từ Việt cổ như sau, đó là những từ được dân tộc ta sử dụng vào thời xưa, có nguồn gốc bản xứ hoặc vay mượn từ các nhóm ngôn ngữ cùng hệ (Mon-Khmer, Tày-Thái, Mường) và hiện nay không còn được sử dụng trong tiếng Việt.
Hai khái niệm từ cổ trong tiếng Việt và từ Việt cổ không hoàn toàn trùng khớp với nhau. Chúng không phải là hai vòng tròn giao nhau mà là hai vòng tròn đồng tâm có đường kính khác nhau. Trong quyển sách của mình, Nguyễn Ngọc San đã đánh đồng hai khái niệm trên nên đưa ra danh sách các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm nhầm với rất nhiều từ gốc Hán. Chúng tôi xin trình bày cụ thể như sau:
1. Mượn từ Hán Việt
Từ Hán Việt là bộ phận rất quan trọng trong từ vựng tiếng Việt. Theo nguyên tắc, mỗi chữ Hán đều có một hoặc vài âm Hán Việt, nhưng không phải âm Hán Việt nào cũng du nhập vào tiếng Việt trở thành từ Hán Việt. Tuy nhiên, trong các văn bản Nôm, bên cạnh hệ thống từ Hán Việt thông dụng, đôi khi cũng sử dụng cả một số âm / từ Hán Việt không thông dụng trong tiếng Việt hiện đại. Các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm có cả hai trường hợp như thế.
1.1 Từ Hán Việt thông dụng:
gián 諫  (can gián, khuyên can): Tính cương ai gián chẳng nghe mọi điều (tr. 391-392);
kham 堪  (cam chịu, chịu đựng): Kham cười anh vũ mắc chưng lồng (tr. 398);
loạn thường亂常  (làm rối loạn cương thường): Xây trồng ra thói trăng hoa loạn thường (tr. 408);
nghiệt孽  (yêu nghiệt, tội ác): Chút còn dư nghiệt ngoài thành khoe khoang (tr. 429);…
1.2. Âm / từ Hán Việt không thông dụng:
chủ quỹ主櫃  (người vợ cả): Hiềm trong chủ quỹ chưa hòa có ai (tr. 370);
mâu眸 (con ngươi, tròng mắt): Mâu tử là đôi con mâu (tr. 371);
na儺  (ôn dịch): Đốt trúc khuơ na dắng lỗ tai (tr. 420);
tẫn mẫu牝牡 (cái và đực): Tẫn mẫu sấp ngửa sắp bày úp che (tr. 452),…
Ngoài ra, còn có thể kể ra nhiều từ khác như đàn hặctiên sàmgia nương,… đều là từ Hán Việt. Nhưng mỗi trường hợp chúng tôi chỉ nêu ra vài ví dụ minh họa. Những từ ngữ trên tuy xuất hiện trong văn bản Nôm nhưng không phải ghi từ Việt cổ mà là những đơn vị từ vựng được ghi bằng chữ Nôm vay mượn cả âm và nghĩa chữ Hán (từ gốc Hán). Những chữ này khi xuất hiện trong văn bản chữ Hán thì chúng hoàn toàn là chữ Hán. Chỉ khi nào chúng xuất hiện trong văn bản Nôm mới được gọi là chữ Nôm. Nếu liệt kê những từ ngữ trên vào danh sách từ Việt cổ thì có lẽ tất cả từ Hán Việt mà hiện nay tiếng Việt sử dụng cũng đều là từ Việt cổ.
2. Mượn từ Tiền Hán Việt
Từ Tiền Hán Việt cũng là một bộ phận của từ vựng tiếng Việt. Bộ phận này nếu không phân biệt kĩ sẽ dễ nhầm lẫn với từ Hán Việt Việt hóa và nghĩa của chữ. Các từ Việt cổ trong văn thơ Nôm không có sự nhầm lẫn như thế nhưng lại xem lớp từ này là từ Việt cổ.
bượp (âm Hán Việt là phạp 乏: thiếu): Đời bượp văn chương uổng mỗ danh (tr. 362). Phạpvà bượp có mối quan hệ về ngữ âm, chúng biến đổi theo một quy luật ngữ âm nhất định. Chúng tôi xin đưa ra một vài ví dụ tương tự về sự biến đổi ngữ âm giữa từ Hán Việt – từ Tiền Hán Việt để chứng minh cho quy luật này như sau (mỗi từ phía dưới chúng tôi cũng làm giống như vậy):
nạp 納― nợp / nượp (nờm nợp / nườm nượp);
[lâmlạp [林]拉 ― [lườmlượp (đông đảo);
hạp 盒― hộp;
nam 南― nôm / nồm;…
chiềng (âm Hán Việt là trình 呈: tâu trình, tuyên bố): Chiềng làng chiềng chạ thượng hạ tây đông (tr. 368). Ví dụ tương tự:
tỉnh 井― giếng;
kính 鏡― kiếng;
chinh 正― giêng;
chinh 鉦― chiêng;
thinh linh / thanh lanh 清靈 ―thiêng liêng;
thành 城清靈 ― thiềng;… - nàn (âm Hán Việt là nạn 難: điều rủi ro nguy hại): Gặp cơn binh cách nhiều nàn cũng thương (tr. 422). Ví dụ tương tự:
loạn 亂― loàn;
tự自 ― từ;
nguyện 願 ―nguyền;
dụng  dùng;
niệm 念 ― niềm;
vạn  vàn;
nệ   nề;
cộng  cùng;… - tày / tầy(5) (âm Hán Việt là tề : ngang bằng): Chúc thánh cho tày Nghiêu Thuấn nữa (tr. 451). Ví dụ tương tự:
tê (tê giác)  tây;
thế ― thay(6);
lễ  lạy;
phi  ¯ bay;
thi  thây;…
Các từ bượpchiềngnàntày rõ ràng không phải là từ Việt cổ vì chúng chẳng những có quan hệ về ngữ âm mà còn có quan hệ về ngữ nghĩa với các từ phạptrìnhnạntề trong tiếng Hán. Mặt khác, nếu đó là những từ Việt cổ thì tại sao hiện nay không ít từ vẫn còn được sử dụng trong tiếng Việt (như phàn nàntày trời, hay như đìa (ao hồ), cúng dàngxum vầy,… mà tác giả đã liệt kê trong sách)?
Theo chúng tôi, những từ Hán Việt và Tiền Hán Việt trên đây không phải là từ Việt cổ, riêng những từ hiện nay không còn sử dụng (natẫn mẫubượp,…) chỉ có thể gọi là từ cổ trong tiếng Việt.
3. Dịch nghĩa chữ Hán
Xét các mục từ được giải thích trong sách như sau:
con tuyết: kĩ nữ: Cắp cầm con tuyết tình cờ đến (tr. 371);
nhà tĩnh: nơi ở của các sư tăng: Không môn già lam, tĩnh xá:nhà tĩnh (tr. 429);
nước trăng: kinh nguyệt: Tự nhiên phải khí dương âm, nước trăng tự ấy ai cầm chẳng ra (tr. 435);…
Chúng tôi thấy xếp các từ ấy vào dạng từ cổ là chưa thuyết phục. Vì: thứ nhất, chúng không thật sự khó hiểu đối với người hiện nay; thứ hai, chúng là những từ được chuyển dịch từ chữ Hán thì đúng hơn.
con tuyết được dịch từ tuyết nhi雪兒(nhi là ‘con’), nghĩa là người con gái trẻ xoa kem trắng trên mặt, chỉ những cô gái làm việc trong lầu xanh(7).
nhà tĩnh được dịch từ tĩnh xá 靜舍 hoặc tĩnh thất (xá là ‘ngôi nhà đơn sơ’, thất là ‘nhà ở’) nghĩa là ngôi nhà yên tĩnh để tu tập.
- Về từ nước trăng chúng tôi lí giải như sau: kinh nguyệt 經 月 là hiện tượng sinh lí của phụ nữ, có yếu tố nguyệt là trăng, tháng. Kinh nguyệt còn một từ đồng nghĩa là kinh thủy 經 水(8), có yếu tố thủy là nước. Vậy nước trăng là dịch kết hợp từ chữ thủy trong kinh thủy với chữnguyệt trong kinh nguyệtNước và trăng (cũng như thủy và nguyệt) đều là những từ thông dụng hiện nay, và nước trăng chỉ là một cách dịch chữ Hán của người xưa để chỉ kinh nguyệt chứ không phải là từ Việt cổ.
Bên cạnh đó, ngoài từ Hán Việt và Tiền Hán Việt đã nói trên, chúng tôi thấy sách còn thu nhận cả từ Hán Việt Việt hóa, đó là vỗ(9) (âm Hán Việt là phủ ) trong câu Đức muôn vỗ chúng ân ngàn trị dân (tr. 473).
Trên đây chúng tôi trình bày một vài thiển ý mong có thể phần nào làm sáng tỏ vấn đề từ Việt cổ và những từ đ?ợc cho là từ Việt cổ trong Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm, nếu có gì sai sót xin quý vị độc giả chỉ giáo để chúng tôi có dịp học hỏi thêm.
Chú thích
(1) Nguyễn Ngọc San, Lí thuyết chữ Nôm văn Nôm, Nxb. Đại học Sư phạm, 2003.
(2) Quyển sách được in với sự tài trợ của quĩ hỗ trợ và phát triển văn hóa Việt Nam-Thụy Điển.
(3) Nguyễn Ngọc San, Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb. Đại học sư phạm, 2003.
(4) Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, sđd.
(5) Trong Tiếng nói nôm na (Nxb. Văn nghệ Tp. HCM, 1999), Lê Gia cho rằng chữ này có nguồn gốc từ chữ tài 裁 (cắt cho bằng), đó cũng là điều nhầm lẫn.
(6) Trong Tìm về cội nguồn chữ Hán (Nguyễn Văn Đổng dịch), Nxb. Thế Giới, 1997, Lý Lạc Nghị cho rằng thay là âm Hán Việt Việt hóa của thế.
(7) Trong Bắc mộng tỏa ngôn có ghi câu chuyện khác: Tuyết Nhi là vợ lẽ của Lý Mật, giỏi ca múa. Mỗi khi tân khách có văn chư?ng hay, Lý Mật đều bảo Tuyết Nhi hiệp âm luật để ca múa làm vui.
(8) Theo Từ nguyên, Thương vụ ấn thư quán, Đài Loan, 1963 và Từ hải, Trung Hoa thư cục ấn hành, 1967.
(9) Trong Tiếng nói nôm na, sđd, Lê Gia cho rằng vỗ (vỗ về) có nguồn gốc từ chữ vũ là múa. Theo chúng tôi, như vậy không đúng.
Nguồn: Tạp chí Ngôn ngữ  và Đời sống, số 11 năm 2006




(*) ThS. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Tp. HCM.