Saturday 9 February 2013

Từ văn minh xuất hiện trong tiếng Việt khi nào?


Từ văn minh xuất hiện trong tiếng Việt quãng năm 1900. Các nhà nho nước ta mượn chữ Hán 文明, đọc theo âm Hán Việt. Từ文明lại do người Trung Quốc mượn của tiếng Nhật. Người Nhật chế tác từ chữ Hán, đọc là bunmei, để dịch từ civilisation trong các tiếng Anh, Pháp
 (Thượng Chi, “Văn Minh luận”, Nam Phong Tạp Chí số 42, 1920:432)

Sunday 3 February 2013

Súng kíp (An Chi / Huệ Thiên)


            AN CHI: Trên KTNN 379; chúng tôi đã trả lời về nguồn gốc của từ kíp đại khái như sau:
            Kíp là một từ mà người Việt đã mượn ở tiếng Thái Tây Bắc, có thể là do các tay thợ săn hoặc những người Việt lưu lạc ở Tây Bắc trước kia đã đem nó từ vùng thượng du về miền xuôi. Còn nguyên từ của kípthì được người Thái đọc là kép và đây là một từ mà họ đã mượn từ tiếng Lào (cũng đọc là kép) sau khi người Lào đã mượn từ người Xiêm (Thái Lan - cũng đọc làkép). Còn kép là một từ mà người Xiêm đã mượn ở danh từ cap của tiếng Anh, nói tắt từ percussion cap, có nghĩa là cái kíp nổ. Người Tày cũng mượn của người Thái ở Tây Bắc mà đọc thành kép chứ không phải kípnhư người Việt.
            Tuy trả lời như thế trên KTNN 379 nhưng chúng tôi vẫn phân vân, không biết tại sao người Việt lại không phát âm thành kép như người Xiêm, người Lào, người Thái Tây Bắc và người Tày, mà lại phát âm thành kíp. Bây giờ thì chúng tôi đã tìm được câu trả lời.
            Quảng Châu thoại phương ngôn từ điển của Nhiêu Bỉnh Tài, Âu Dương Giác Á và Chu Vô Kỵ (Thương vụ ấn thư quán, Hồng Kông, 2001) có ghi nhận một chữ mà các nhà biên soạn ghi là ''gib1” và giảng là kíp nổ. Xin lưu ý rằng ở đây ''g” chính là [k] còn ''b'' chính là [p]. Vậy gib1 chính mà kíp mà người Quảng Đông phiên âm từ tiếng Anh cap trongpercussion cap nhưng vì tiếng Quảng Đông không có vần -ep nên mới phải thay nó bằng -ip.
            Người Việt Nam đã mượn từ kíp của tiếng Quảng Đông, sau khi nó vượt biên giới Việt Trung qua ngõ Móng Cái để vào khu mỏ Hồng Quảng mà nơi có nhiều người Hoa gốc ở Quảng Đông sinh sống.
            Vậy danh từ cap của tiếng Anh đã vào Đông Nam Á qua hai ngả khác nhau;
            1. kép: Xiêm (Thái Lan) → Lào → Thái Tây Bắc Việt Nam → Tày.
            2. kíp: Quảng Đông → Việt Nam.

Saturday 2 February 2013

''Rã bành tô” là gì? (An Chi / Huệ Thiên)


            AN CHI: Cơ sở của lối nói rã bành tô chính là ngữ vị từ rã bành, mà theo chúng tôi, thì Phải viết thành rả bành (chữ rả với dấu hỏi) mới đúng. Bành là một từ Việt gốc Pháp, bắt nguồn ở danh từ balle, có nghĩa là kiện hàng. Rả bành là một ngữ vị từ tương ứng với động từ déballer của tiếng Pháp, có nghĩa là tháo kiện hàng để lấy các món hàng ra. Còn emballer thì có nghĩa là đóng kiện, mà thực ra tiếng Việt cũng từng có hình thức đối dịch thích hợp là đóng bành.
            Thế là ta có: emballer đóng bành;
            và déballer rả bành.
            Rả là tách ra, tháo ra, gỡ ra, cắt ra; thí dụ: rả máy xe, rả xấp vải, rả súc thịt, v.v.. Thực ra thì chữ rảnày vốn cùng gốc với  trong tan rã, rã đám. Xét về nghĩa thì rã là rời ra từng bộ phận còn rả chẳng qua là làm cho rời ra từng bộ phận nên hai từ này vốn chỉ là một. Sự phân biệt rã ≠ rả thực tế chỉ xảy ra ở trong Nam và sự ra đời của chữ rả (dấu hỏi) chẳng qua chỉ là kết quả của một thao tác siêu chỉnh (hypercorrection),một hiện tượng mà chúng tôi cũng vừa mới đề cập trên KTNN 526. Đại từ điển tiếng Việt do Nguyễn Như Ý chủ biên thu nhận chữ ''rả'' có lẽ cũng chỉ là do đã theo cách viết ở trong Nam (chẳng hạn trong Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức) chứ, theo chúng tôi thì ngoài Bắc không có từ ''rả'' theo nghĩa đang xét (mặc dù vẫn có rảtrong ra rả, rả rích, v.v.).
            Vậy nếu ta thừa nhận rằng cái từ gốc đã phân hóa thành hai, một mang thanh điệu 4 (dấu ngã) và một mang thanh điệu 3 (dấu hỏi) thì ta phải viết rả bành với chữ rả dấu hỏi. Sở dĩ một số quyển từ điển, chẳng hạn như Việt-Nam tự-điển của Lê Văn Đức hoặcTừ điển phương ngữ Nam Bộ do Nguyễn Văn Ái chủ biên (Nxb TP.HCM, 1994) viết rã bành với chữ rã dấu ngã, theo chúng tôi, chỉ là vì đã loại suy theo ngữ vị từrã bèn, nghĩa là rời cánh, rụng cánh (nói về hoa). Chính vì loại suy theo rã bèn mà viết rả bành thành rã bànhnên người ta cũng đã hiểu ngữ vị từ sau theo nghĩa của ngữ vị từ trước mà cho rằng rã bành là ''tan vỡ, tan rã, tan tành", như đã giảng trong từ điển do Nguyễn Văn Ái chủ biên. Đây cũng là một thí dụ khác về hiện tượng gọi là sự lấy nghĩa (contamination de sen) mà chúng tôi đã nói đến trên KTNN 524 (tr.51, c.1).
            Thế nhưng tại sao lại còn nói ''rã bành tô”?Và bành  là gì? Bành tô là tên một kiểu áo mà ta đã phiên âm từ tiếng Pháp paletot (chứ không phải do "manteau” như có chuyên gia ngữ học đã khẳng định).Bành tô là ''loại áo Âu phục cổ kín, có nhiều túi, choàng bên ngoài", như đã giảng trong Tầm-nguyên tự-điển Việt-Nam của Lê-Ngọc-Trụ (Nxb TP.HCM, 1993). Thế thì bành trong bành tô chỉ là một tiếng đồng âm vớibành trong rã bành chứ có đồng nhất đâu mà lại ghép thành rã bành tô? Nhưng vấn đề lại chính là ở chỗ này: người ta lợi dụng tính đồng âm mà ghép như thế để tạo ra sắc thái đùa tếu cho lối nói đang xét. Cũng giống như tiếng nghệ trong văn nghệ đâu có phải là tên của một giống thực vật nào nhưng người ta vẫn đồng nhất nó với tên của củ nghệ mà nói văn nghệ văn gừng. Tiếngtrị trong chính trị; mà người Bắc phát âm thành chị,đâu có liên quan gì với danh từ chị trong chị em nhưng người ta vẫn đồng nhất hai tiếng đó với nhau mà nói thành chính chị (trị) chính em. Điển hình cho lối nói mang sắc thái đùa tếu này có lẽ là cấu trúc tuyệt cúmèo. Ai có để ý đến chữ Hán cũng có thể biết rằngtuyệt với cú trong  mèo là tên một loài chàm mà nói thành tuyệt cú mèo! Rã bành tô chính là một lối nói như thế và chính vì thế nên nó không hề mang sắc thái trung hòa. Nhưng nó chỉ có tính chất đùa tếu chứ không mang tính xấu nghĩa (pejorative).
            Tóm lại, rã bành tô là một lối nói mang tính chất đùa tếu, ít nhất cũng là không nghiêm chỉnh, có nghĩa là tan vỡ, tan rã, tan tành, không còn gì. Còn xuất phát điểm của nó thì lại là ngữ vị từ rả bành, tương ứng với động từ déballer của tiếng pháp.

Friday 1 February 2013

Bia là một danh từ mà tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp bière (An Chi - Huệ Thiên)


            ĐỘC GIẢ: Trên KTNN 523, ông đã viết:
            ''Dùng để chỉ một loại thức uống có độ cồn nhẹ, bia là một danh từ mà tiếng Việt phiên âm từ tiếng Pháp bière. Nhưng cũng chính vì thế mà nó chỉ có nghĩa trong những cấu trúc như. bia bọt, - bia Tig r - bia hơi, v.v. Chứ nếu, với hai câu
                        Trăm năm bia đá thì mòn
                        Nghìn năm bia miệng hãy còn trơ trơ
mà ai đó lại bắt từ bia của tiếng Việt phải gánh cái nghĩa của từ bière trong tiếng Pháp thì thật là buồn cười."
            Tôi đã rất tâm đắc với đoạn trên đây. Nhưng mấy người bạn đã làm tôi cụt hứng. Họ rất giỏi tiếng Anh. Và họ khẳng định với tôi rằng bia là kết quả phiên âm từ danh từ beer của tiếng Anh/ Mỹ chứ tiếng Pháp bière chỉ đem đến cho tiếng Việt hai chữ lave mà thôi.
            AN CHI: Khi làm từ nguyên, chúng tôi luôn luôn tâm niệm câu sau đây của J.Vendryes:
            “Tous les sosies ne sont pas den parents”.
            (Không phải tất cả những kẻ giống hệt nhau đều là bà con (với nhau)).
            Thoáng nghe, và nếu chỉ nghe không mà thôi, thì rõ ràng là bia rất gần với beer [biә] của tiếng Anh mà chỉ là một người bà con xa với bière [bjεr] của tiếng Pháp. Nhưng, may thay, đó chỉ là một cách nhìn (nghe) quá bác học! Chứ nếu ta chịu gần người bình dân hơn thì ta sẽ thấy vấn đề hiện ra rất khác. Ai có theo dõi giải Bóng đá ngoại hạng của Anh cũng đều biết cây làm bàn của câu lạc bộ Arsenal là Thierry Henry. Thế nhưng một số người bình dân Việt Nam đâu có chịu gọi cái first nam của ngôi sao này là [tjεri]. Họ cứ phát âm một cách rất chi là Việt Nam thành ''tia-ri”. Thậm chí bình luận viên đài truyền hình có khi vì bình quá say sưa và gấp gáp cũng đã phát âm như thế. Vậy thì đâu có chi đáng lấy làm lạ - và càng chẳng có lý gì để chống lại - trước việc họ phát âm bière thành ''bia''.
            Nhưng vấn đề đâu chỉ có thế. Vấn đề là từ bia (<bière) đã có mặt trong từ vựng của tiếng Việt từ hồi còn mồ ma thực dân Pháp, nghĩa là rất lâu trước khi thứ tiếng American English đổ bộ vào miền Nam Việt Nam, theo chân của lính Mỹ. Chẳng thế mà Nguyễn Tuân đã xài ''bia'' trong Quê hương từ năm 1943. Thì đây, Ngũ Ân Tuyên của chúng ta đã viết thế này:
            ''Bạch mời thầy Ba Bạc Liêu vào một băng thất uống bia và nói chuyện.''
            (Dẫn theo Nguyễn Quảng Tuân - Nguyễn ĐỨC Dân,
Từ điển các từ tiếng Việt gốc Pháp,
TPHCM, 1992, tr.67).
            Khi Nguyễn Tuân xài ''bia'' như thế thì người Việt Nam hãy còn gọi dân đảo quốc sương mù là Hồng Mao, Ăng-Lê chứ danh xưng ''Anh'' thậm chí còn chưa được dùng chính thức, càng chưa được dùng một cách thống nhất và phổ biến như hiện nay. Chúng tôi tuyệt nhiên không nói rằng lúc bấy giờ chẳng có người Việt Nam nào biết tiếng Anh. Nhưng hồi đó, thứ tiếng này chẳng có thớ mà cũng không có thế để ''nhập” bia vào kho từ vựng của tiếng Việt. Chỉ có tiếng Pháp mới là một thứ tiếng ''ngon lành'' để đưa đến cho tiếng Việt nhiều từ vay mượn mà thôi. Thậm chí nó còn đưa đến cho tiếng Việt cả những từ Pháp gốc Hồng Mao nữa, đặc biệt là trong khẩu ngữ, chẳng hạn trong môn bóng đá (P. = Pháp, A. = Anh):
           
            Vậy cái sự giỏi tiếng Anh mới chỉ là điều kiện cần, chứ chưa đủ, để làm từ nguyên học về từ Việt gốc Anh. Nếu chỉ ''trông mặt mà bắt hình dong'' thì ta sẽ dễ dàng cho rằng phom (dạng, kiểu, khuôn, mẫu) là một từ gốc Anh, vì nó được phát âm rất gần với tiếng Anh form  trong khi tiếng Pháp lại là forme , có vẻ như... xa hơn. Nhưng thợ đóng giày người Việt Nam đã dùng ''phom” để đóng giày cho Tây - và dĩ nhiên là cho cả khách hàng người Việt Nam - từ rất lâu trước khi Mỹ đến.
            Vậy xin cứ yên tâm tin rằng bia là một từ Việt gốc Pháp. Chỉ xin nhấn mạnh rằng đây vốn là một từ của tiếng Việt miền Bắc còn la ve, tuy cũng gốc Pháp, nhưng lại là một từ của tiếng Việt miền Nam. Thật vậy, trước đây người Bắc và người Nam vẫn có những cách phiên âm khác nhau đối với một số từ nhất định của tiếng Pháp, chẳng hạn (theo thứ tự: Pháp > Nam - Bắc):
            - balle > banh - ban;
            - crème > cà rèm (lem) - kem;
            - commissaire > cò – cẩm;
            - copier > cọp dê [je] - cóp;
            - gamelle > gà mên - cà mèn;
            - fromage > phô mai - phó mát; v.v..
            Vậy la ve là một từ gốc Pháp của tiếng Việt miền Nam còn bia là một từ gốc Pháp tương ứng của tiếng Việt miền Bắc. Đáng nói là, trong la ve, chỉ có ve mới chánh cống là hình thái phiên âm của bière chứ la thì chỉ là nhại lại quán từ la của tiếng Pháp (vì bière thuộc giống cái nên mới đi với quán từ giống cái la thành la bière) mà thôi.
            Nhưng tại sao lại phiên âm bière thành ve? Chuyện hơi rắc rối và rất đáng nói. Đáng nói là vì nhiều người miền Bắc đã theo đúng chính âm, căn cứ vào chính tả, mà phát âm lave thành [la vε] trong khi người bình dân Nam Bộ không bao giờ phát âm như thế! Họ chỉ phát âm hai chữ này thành [la jε] mà thôi. Một số người Bắc, vì nghĩ rằng [la jε] nếu viết ra chữ quốc ngữ thì sẽ là ''la de" (người Nam Bộ vẫn đọc chữ ''d'' thành [j]), nên mới thực hiện một hành động siêu chỉnh (hypercorrection) mà phát âm hai chữ la ve thành [la zε]. Nhưng người Nam Bộ cũng không bao giờ phát âm như thế này vì, như đã nói, họ chỉ phát âm thành [ra jε] mà thôi. Vậy thì tại sao la bière lại được phiên âm thành la ve chứ không phải *la de?
            Sự thể là như sau: Trong khi người bình dân Nam Bộ phát âm chữ ''v'' thành [j] (sẽ tạm ghi bằng chữ quốc ngữ ''y'') thì người có ít nhiều học thức lại phát âm nó thành [bj] và xem đây là cách phát âm chuẩn. Vì vậy mà nếu những người trước phát âm vội vàng, vui vẻ, v.v… thành ''vội ỳang, ''yui yẻ", v.v., thì những người sau lại phát âm thành "byội byàng, "byui byẻ, v.v.. Thế mà người có học ở Nam Bộ có điều kiện để phiên âm một cách trung thành la biè(re) của tiếng Pháp thành ''la ve" mà họ phát âm thành la bye [la bjε], còn người bình dân thì la ve [la jε]. vậy cách phát âm thành [la vε] hay [la zε] của người Bắc hoàn toàn không đúng với cách nào trong Nam cả, nghĩa là không giống ai.
            Nói tóm lại thì tiếng Pháp (la) bière đã đem đến cho tiếng Việt hai hình thức vay mượn: bia ở ngoài Bắc và (la) ve ở trong Nam chứ không phải chỉ la ve mới có gốc Pháp còn bia thì gốc Anh như những người xịn tiếng Anh kia đã khẳng định. 

Thursday 31 January 2013

Người Việt Nam biết uống bia từ khi nào?



Người An-Nam trước khi nhà nước Pha-lăng-sa sang bảo-hộ thì chưa có tiếng sà-phòng (savon), nhà ga (gare), rượu bia (bière), cậu bồi (boy) v.v. (Nam Phong số 170, 1932:293, Vũ Công Nghi)
Bia là thứ thức uống chứa cồn, có vị đắng đặc trưng của húp lông (hoa bia), được người Pháp đưa vào Việt Nam. Nhà máy bia đầu tiên được xây dựng ở Việt Nam năm 1890 (1892?). Đó là Brasserie de Hanoi (nay là nhà máy bia Hà Nội) ở làng Đại Yên do một người Pháp tên Hommel làm chủ. Để có đất xây nhà máy, Hommel đã phá cả một ngôi cổ tự là chùa Chân Giáo (được xây dựng từ năm 1024). Vào thời kỳ đầu, mỗi ngày ba mươi công nhân của Hommel chỉ sản xuất được 150 lít bia. Dân gian lấy tên ông chủ Hommel để gọi thứ thức uống mới là bia Ô Mền. Sau đó một viên hạ sĩ quan giải ngũ ở Sài Gòn tên Victor Larue hợp tác với Hommel thành lập công ty Brasseries et Glacières d'Indochine (viết tắt là B.G.I.), đặt văn phòng tại số 187 đại lộ Armand Rousseau Chợ Lớn. Năm 1909 bia Larue được đưa ra giới thiệu với người tiêu dùng và thành công rực rỡ.
Người bình dân miền Nam trước 1975 ít dùng từ bia mà hay nói la ve / la de hơn. Sau khi đất nước thống nhất, từ la ve / la de gần như biến mất và được thay thế bằng bia trong mọi hoàn cảnh. Các từ ngữ mới đều được tạo từ bia (bia hơi, bia bốc, bia bọt, bia lên cơn, bia trắng, bia nâu, bia đen, bia vàng, bia ngọt, bia không cồn, bia ôm...).

Tuesday 29 January 2013

Một số dữ kiện để hiểu thêm về tên gọi Giao Chỉ (Nguyễn Ngọc Thanh - Người Hiếu Cổ)


Một số dữ kiện để hiểu thêm về tên gọi Giao Chỉ

Blog người hiếu cổ - Sách Chư phiên chí của Triệu Nhữ Quát đời Nam Tống có ghi:
“Giao Chỉ, xưa là Giao Châu, phía Đông Nam kề gần với biển, tiếp giáp với Chiêm Thành, phía Tây thông với Bạch Y Man, phía Bắc chạm đến Khâm Châu”

Giao Chỉ vốn là đất Nam Việt thời sơ Hán. Vào năm 140-86 Tr.CN, vua Hán Vũ Đế bình định Nam Việt, chia đất thành 9 quận, Giao Chỉ là 1 trong 9 quận đó, và đặt quan Thứ sử Giao Chỉ làm thủ lĩnh, vì thể nên gọi chung cả đất này là Giao Chỉ. Đến đời vua Đường Cao Tông, “Giao Châu” hay “Giao Chỉ” đều dùng để gọi biên quận của nhà Hán. Năm 670, nhà Đường đặt An Nam đô hộ phủ để cai quản Giao Chỉ. Từ đấy về sau đất Giao Chỉ bao gồm vùng Tam Giác Châu, hầu như là toàn bộ vùng Đông Kinh (tức Hà Nội) ngày nay. 

Chín quận thời Hán Vũ Đế bao gồm: Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam (Nhật Nam được thành lập sau khi nhà Tây Hán chiếm được thêm vùng đất phía nam quận Cửu Chân), Đạm Nhĩ, Châu Nhai (Đạm Nhĩ và Châu Nhai nay thuộc đảo Hải Nam), Nam Hải, Hợp Phố, Uất Lâm, Thương Ngô (nay thuộc Quảng Tây và Quảng Đông). 

Sách Hán thư – Địa lý chí chú thích rằng, 9 quận trên đều thuộc Giao Châu. Tuy nhiên, Nhan Sư Cổ lại dẫn lời Hồ Quảng rằng: “Nhà Hán sau khi bình định được đất Nam Việt thì đặt Giao Chỉ thứ sử để phân biệt với các châu khác”, vì thế mà trước thời Hán vẫn chưa có tên gọi Giao Châu.

Sách Dư địa chí của Cố Dã Vương cuối thời Nam bắc Triều thì ghi chép rằng: “Rợ nước ấy chân rất to, ngón chân thì bị choãi ra, hai chân chụm vào nhau thì hai ngón sẽ giao nhau” vì thế mà gọi là Giao Chỉ 交阯, thời xưa 阯 và  趾 dùng thông nhau, đều có nghĩa là ngón chân.
Ngón chân cái giao nhau khi chụm lại
Chân giao chỉ (ảnh: internet)
Sách Hán quan nghi của Ưng Thiệu viết: “Dân ấy khai hoang ở phương bắc, sau bèn di chuyển xuống phía nam đặt cơ chỉ cho con cháu ở đó”, vì thế cũng gọi là Giao Chỉ, nhưng đây dùng với nghĩa là đi giao xuống phương nam để tạo nền móng.

Sách Thông điển của Đỗ Hựu chép: “Giống người ở vùng cực Nam, trán thì xăm trổ, chân thì giao nhau”

Ngoài ra, Giao Chỉ còn được nhắc đến trong một số thư tịch cổ khác như: 

Thượng thư – Nghiêu điển có ghi chép về Nam Giao

Mặc Tử - Tiết dụng thiên:” Xưa vua Nghiêu cai quản thiên hạ, phía Nam thì vỗ vễ Giao Chỉ, phía Bắc hàng phục U Đô, cho đến cả vùng Đông Tây là nơi mặt trời lặn mọc cũng không đâu không quy thuận.”

Đại Đái lễ kí – Thiếu văn thiên:” Xưa vua Thuấn dùng đức trời để nối nghiệp vua Nghiêu, đi tuần thú để hàng phục U Đô, phía Nam thì vỗ về Giao Chỉ.”

Lã Thị Xuân Thu và Sử kí đều ghi việc vua Vũ nhà hạ trị yên nước lũ thì ra sức vỗ về Giao Chỉ ở phía Nam.

Sunday 27 January 2013

Một cách nhìn chủ quan, phiến diện (Phùng Kim Lân)


Làm thất bại chiến lược "Diễn biến hòa bình"
Một cách nhìn chủ quan, phiến diện
QĐND - Chủ Nhật, 27/01/2013, 21:25 (GMT+7)
QĐND - Gần đây, trên một số trang mạng và cơ quan truyền thông ở nước ngoài, trong đó có hãng BBC xuất hiện bài viết dưới nhan đề “So sánh hai biến cố tháng Tám”- so sánh Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam và cuộc chính biến tháng 8-1991 ở Liên Xô dựa vào những cảm nhận của ông Nguyễn Minh Cần - theo bài viết là người đã chứng kiến cả hai sự kiện đó. Đọc bài viết nói trên, những người Việt Nam yêu nước và có lòng tự trọng không khỏi bức xúc, bất bình trước sự so sánh khập khiễng với dụng ý xuyên tạc sự thật và những ý kiến cá nhân mang tính tư biện, suy diễn một cách chủ quan, phiến diện của ông Cần.
Khi được hỏi cảm nhận về Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam, ông Nguyễn Minh Cần nói rằng: “Chúng tôi tham gia Cách mạng tháng Tám với ý nghĩ chân thành, đất nước được tự do, độc lập với những lời hứa hẹn của Việt Minh lúc bấy giờ là mở rộng dân chủ, tự do tôn giáo, tự do tín ngưỡng, tự do đi lại, hội họp, ngôn luận… Đáng tiếc là khi Đảng Cộng sản lên cầm quyền những điều đó đã không được thực hiện”. Ông Cần càng tỏ rõ sự hồ đồ khi cho rằng: Cách mạng tháng Tám năm 1945 ở Việt Nam và "cách mạng Dân chủ" (theo cách nghĩ của ông Cần) ở Nga năm 1991, đều thất bại (!), vì đã "không đem lại dân chủ, tự do thực sự cho người dân...". Không hiểu ông Cần lấy tư cách gì mà phán như vậy?      
 
 Ảnh minh họa/Internet.
Nhiều người đặt câu hỏi: Ông Nguyễn Minh Cần là người như thế nào mà cố tình bóp méo lịch sử, ngoảnh mặt, quay lưng lại với đất nước, xúc phạm lòng tự tôn dân tộc như vậy? Được biết, ông Nguyễn Minh Cần sinh ra ở Huế, năm nay 85 tuổi, từng là đảng viên Đảng Cộng sản Việt Nam và là Phó chủ tịch Ủy ban Hành chính thành phố Hà Nội... Đầu những năm 60 của thế kỷ trước, trong khi toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta dốc lòng, dốc sức xây dựng và bảo vệ miền Bắc, đấu tranh giải phóng miền Nam và thống nhất Tổ quốc, Nguyễn Minh Cần được Nhà nước ta cử ra nước ngoài học tập để trở về phục vụ đất nước, nhưng với những toan tính cá nhân cơ hội, thực dụng, ông ta đã xin cư trú tại nước ngoài từ đó đến nay. Những tưởng ở tuổi xế chiều, Nguyễn Minh Cần sẽ sống yên phận và nuôi hy vọng có cơ hội trở về quê hương - nơi chôn nhau cắt rốn, nhưng ông ta đã đăng đàn trên một số trang mạng với giọng điệu hằn học, cay độc, cố tình bôi đen lịch sử và xuyên tạc tình hình ở Việt Nam, phủ nhận những thành quả của cách mạng, bài xích vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 là bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử dân tộc Việt Nam, đập tan ách thống trị của thực dân và phong kiến, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa (nay là Cộng hòa XHCN Việt Nam), một nhà nước với thể chế chính trị dân chủ đầu tiên ở Đông Nam Á, đưa dân tộc ta tiến vào kỷ nguyên độc lập, tự do và CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng vượt qua những chặng đường đầy gian khổ, hy sinh, đánh thắng những kẻ thù xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần về tiềm lực kinh tế và tiềm lực quân sự, khẳng định bản lĩnh và trí tuệ Việt Nam mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954 và Đại thắng mùa Xuân năm 1975, giải phóng dân tộc, thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước lên CNXH.
Vào giữa thập kỷ 80 của thế kỷ XX, dân tộc ta tiếp tục vượt qua “cơn lốc lớn” làm sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu, giữ vững chế độ XHCN ở Việt Nam, phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát huy dân chủ XHCN, xây dựng nhà nước pháp quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Hơn 25 năm qua, công cuộc đổi mới đã đạt được những thành tựu to lớn và rất quan trọng, đưa đất nước ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo được thế và lực mới để xây dựng, bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Những thắng lợi đó đã tạo nên sự tiến bộ rõ nét của con người và xã hội Việt Nam, đưa nước ta từ một xứ thuộc địa nửa phong kiến trở thành một quốc gia độc lập, tự do, ổn định và phát triển theo con đường XHCN; nhân dân ta từ thân phận nô lệ trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội và làm chủ bản thân, chất lượng cuộc sống ngày càng được nâng cao.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung, phát triển năm 2011) của Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: “Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh, do nhân dân làm chủ; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện…” và nhấn mạnh: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát triển”, "Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước". Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có những cố gắng rất lớn trong thực hiện Mục tiêu Thiên niên kỷ, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Việt Nam đã hoàn thành sớm một số mục tiêu như: Xóa bỏ tình trạng nghèo cùng cực; phổ cập giáo dục tiểu học; cơ bản hoàn thành mục tiêu về bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ; bước đầu ngăn chặn được sự lây lan HIV và đang ở “ngưỡng cửa” hoàn thành mục tiêu giảm tử vong ở trẻ em v.v... Mặc dù phải đương đầu với nhiều khó khăn, thách thức nhưng với sự nỗ lực của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, năm 2012, nước ta đã đạt được những chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực. Chúng ta đã cơ bản thực hiện được mục tiêu tổng quát đề ra, đặc biệt đã thực hiện được mục tiêu kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý (tăng trưởng hơn 5%); các chính sách an sinh xã hội được quan tâm, bảo đảm (tỷ lệ hộ nghèo giảm được 1,76%); chính trị xã hội ổn định, quốc phòng an ninh được giữ vững; vai trò và vị thế của đất nước tiếp tục được nâng cao.     
Dù còn không ít khó khăn và hạn chế, song những thành tựu của Việt Nam về phát triển con người, thực thi dân chủ đã và đang được thực tiễn chứng minh và khẳng định, không thể phủ nhận. Không phải ngẫu nhiên, ngày 28-5-2012, khi trả lời phỏng vấn của phóng viên Đài Tiếng nói Việt Nam thường trú tại Mỹ, Thượng nghị sĩ John McCain - người từng là ứng cử viên tổng thống của Đảng Cộng hòa - đã đánh giá cao những thành tựu phát triển của Việt Nam, nhất là những tiến bộ đáng kể trong đời sống của nhân dân. Thượng nghị sĩ John McCain nhấn mạnh: “Với những bước tiến đó đã tạo nên hình ảnh và tầm ảnh hưởng của Việt Nam không chỉ trong khu vực ASEAN, mà còn ở các tổ chức quốc tế khác”. Rồi nữa, ngay tướng Nguyễn Cao Kỳ - người từng được coi là có tư tưởng chống Cộng cực đoan - đã xúc động không cầm nổi nước mắt khi lần đầu tiên được trở về cội nguồn (tháng 1-2004), sau 30 năm ở nơi đất khách quê người. Từ đó, sau nhiều lần về thăm quê hương, cảm nhận trực tiếp những phát triển của đất nước và đời sống của nhân dân, Nguyễn Cao Kỳ bày tỏ niềm tin tưởng: “Các nhà lãnh đạo Việt Nam đủ trí tuệ để chèo chống và đưa đất nước tiến lên” và nguyện vọng của ông ta là sau khi nhắm mắt, xuôi tay được yên nghỉ nơi quê cha đất tổ.
Nếu thực sự còn tỉnh táo thì tại sao ông Nguyễn Minh Cần,  “người được chứng kiến cả hai sự kiện lịch sử” nói trên, lại có thể đánh đồng Cách mạng tháng Tám 1945 - một sự kiện lịch sử hào hùng, thiêng liêng của dân tộc và có ý nghĩa thời đại sâu sắc với cuộc chính biến tháng 8 -1991 ở Liên Xô - một trang sử đau buồn của nhân dân Xô-viết và của nhân loại tiến bộ? Chính những nhận định hồ đồ này cho thấy ông chỉ là người “cưỡi ngựa xem hoa”, đứng ngoài những sự kiện lịch sử trọng đại, thờ ơ, vô cảm với vận mệnh của dân tộc và sự thịnh suy của đất nước. Tuy vậy, ông đã ngộ nhận, lầm tưởng mình là một “vĩ nhân am hiểu thời thế”, lại thêm những bức xúc cá nhân do quá đề cao “cái tôi” mà cố tình tráo trở phương pháp, rắp tâm lợi dụng những khó khăn, hạn chế trong quá trình đi lên của đất nước để phủ nhận sạch trơn những thành tựu mà cách mạng đã mang lại cho đất nước và dân tộc.
Những tiếng nói lạc điệu của ông Nguyễn Minh Cần có thể ít nhiều tác động đến một số người nhẹ dạ, cả tin và sự “trở cờ” của ông càng làm cho chúng ta cảm nhận sâu sắc thêm về cuộc đấu tranh phòng, chống “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ không chỉ mang tính cấp thiết, mà còn rất gay go, quyết liệt, lâu dài, liên quan trực tiếp đến sự sống còn của chế độ và sự an nguy của đất nước.
PHÙNG KIM LÂN