Saturday 30 March 2013

Tại sao chỉ có nội y gợi cảm mà không có nội y khiêu dâm?

Các từ tiếng Pháp lingerie érotique, lingerie sexy, lingerie suggestive, lingerie de séduction (tương ứng với tiếng Anh là erotic lingerie, sexy lingerie, suggestive lingerie, seductive lingerie) cùng chỉ các loại trang phục lót mà người Việt gọi là nội y gợi cảm hay nội y quyến rũ. Không có cái gọi là nội y khiêu dâm. Báo đăng ảnh khiêu dâm có thể bị phạt hành chính, nhưng đăng ảnh gợi cảm thì bình yên vô sự.

Friday 29 March 2013

Dâm ô là gì?



Dâm ô là dâm dục xấu xa (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:149), thậm chí có thể nói là dâm dục một cách xấu xa, nhơ nhuốc (Nguyễn Kim Thản, 2005:443; Hoàng Phê, 2006:245). Các nhà soạn từ điển làm như thể người Việt có thể dâm dục một cách tốt đẹp hay sạch sẽ được.
Bản thân từ dâm dục vốn chẳng có gì tốt đẹp. Đó là sự ham muốn thú nhục dục quá độ hoặc không chính đáng (Hoàng Phê, 2006:245), tức là nếu ham muốn vừa phải, chính đáng, đúng đắn, hợp lý... thì không bị gán cho tiếng dâm dục.

Wednesday 27 March 2013

LINH MỤC ĐẶNG ĐỨC TUẤN VÀ CUỐN SÁCH THUẬT TÍCH VIỆC NƯỚC NAM - Vũ Thu Hà & Nguyễn Ngọc Quỳnh

25. Linh mục Đặng Đức Tuấn và cuốn sách thuật tích việc nước Nam (TBHNH 2003)
Cập nhật lúc 21h39, ngày 22/04/2007
VŨ THU HÀ
NGUYỄN NGỌC QUỲNH
Viện nghiên cứu tôn giáo
Linh mục Đặng Đức Tuấn (1806 - 1974) là một trí thức Công giáo tiêu biểu thời cận hiện đại, là người Công giáo đầu tiên đưa ra ý tưởng kính Chúa và Giáo hội Công giáo Việt Nam. Ông quê ở Gia Hựu, huyện Bồng Sơn, tỉnh Bình Định. Ông thông thạo Hán văn và am hiểu Nho học, từng có thời gian 7 năm du học ở trường đào tạo giáo sĩ Pênang (Malaixia), sử dụng được tiếng La tinh, Pháp, Anh, hiểu biết về thần học, triết lý, lịch sử Giáo hội. Linh mục Tuấn trước tác khá nhều, được các bậc thức thức giả thời bấy giờ coi là người có kiến văn, là một trang quốc sĩ.
Những di thảo của Linh mục Đặng Đức Tuấn để lại cho thấy tinh thần yêu nước của một người Công giáo Việt Nam, biết kết hợp hai lý tưởng Thiên Chúa và Tổ quốc. Bên cạnh những tác phẩm như Nguyên đạo, Minh đạo là những tác phẩm tình bày bản chất, giáo lý đạo Công giáo nhằm giải tỏa những sự ngộ nhận, hiểu lầm của các nhà Nho đối với đạo, là những sách bàn về kế sách đánh giặc như Hoành mao hiến bình Tây sách, Sát tả bình Tây hịch, Minh đạo bình Tây sách… ngoài ra Đặng Đức Tuấn còn để lại nhiều bài văn thơ chữ Hán liên quan đến vấn đề quốc sử và giáo sử như Nguyễn vương phục quốc, Gia Long thống nhất, Những ngày truyền giáo đầu tiên, Việc cấm đạo thời Minh Mạng, Thiệu Trị… và các bài văn tế kể về hoạn nạn của ông như Trên đường lâm nạn, Phụng chỉ lai kinh điều trần việc nước việc đạo, các bài văn tế khóc giáo dân tử nạn…
Bài viết này chúng tôi giới thiệu thêm một cuốn sách chữ Nôm do Linh mục Đặng Đức Tuấn viết.
Cuốn sách Thuật tích việc nước Nam, được viết bằng chữ Nôm, là thơ viết theo thể văn. Bản viết tay gồm 56 trang; khổ 31x22cm. Có ký hiệu, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm là: AB.196.
Nội dung sách khá có thể được chia làm hai phần chính:
Phần thứ nhất kể lịch sử truyền đạo Công giáo ở Việt Nam.
Thơ kể vắn tắt từ khi người Bồ Đào Nha đến truyền giáo dưới triều Lê Vĩnh Tộ, đến khi người Pháp nhận việc truyền giáo ở Việt Nam vào thời Cảnh Hưng. Kể lại bối cảnh lịch sử cuối triều Lê: Lê Chiêu Thống chạy sang cầu cứu nhà Thanh, sau mất ở phương Bắc, Quang Trung lên ngôi hoàng đế, Nguyễn Vương lưu vong:
“Lê Chiêu Thống tìm nơi cầu viện
Qua thanh triều an kiệt, giá băng
Tây Sơn mặc sức hung hăng
Phân chia cõi đất xâm lăng ngôi trời
Bời bời khắp chốn đòi nơi
Du nghiêng thế nước bặt hơi anh hung
Thái Đức, Cảnh Thịnh, Quang Trung
Trăm hai sông núi ngàn trùng phong ba
Nam Bắc lừng lẫy binh qua
Xoay nền tiếm vị đốt toà vương công
Đàng ngoài nhẫn đến Đàng Trong
Lê gia thành quách hoàn không tro tàn
Nguyễn chúa tỵ nạn gian quan
Đã qua Phú Quốc lại hoàn Trấn Tiên”
Sau đó bài vãn kể việc giám mục Bá Đa Lộc giúp Nguyễn Ánh, phò tá Nguyễn vương sang nước Xiêm, mang hoàng tử Cảnh sang Pháp cầu viện, đem quân và tầu chiến về giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn.
“Ra tay tá quốc An Nam
Dực phù Nguyễn chúa đem sang Xiêm thành
Vua tôi thầy vữa xuất hành
Mấy trung non nước tới thành Kim Lan
Nguyễn chúa ở lại Xiêm bang
Đức thầy phụng mệnh lại hoàn Tây Dương
Bôn lo khôi phục cố cương
Một phen toan tính một trường phân ly
Đông cung niên thiếu ra đi”
(Đông cung Thị Nguyễn vương trưởng tử tòng Bá Đa Lộc vãng Tây Dương)
“Thác cô gánh nặng quyền thời nghĩa thông
Trèo non vượt biển mấy trùng
Một lòng ái kính một lòng nghĩa nhân
Về cố quốc thiệt hơn bày tỏ
Xin viện binh đem tộ Nguyễn gia”
Khi Bá Đa Lộc mất, vua thương tiếc và điếu tang phong tặng rất hậu:
“Núi Kỳ Sơn ngàn tầm chất thảm
Thành Quy Nhơn ảm đạm phong swong
Ngẫm than hai chữ vô thường
Ngàn năm ly biệt một trường bi ai
Cảm công đất rộng trời dài
Ngự bài điếu ngự bài sắc phong
Về Gia Đình Đàng Trong an táng
Lập lăng phần nêu sáng công cao
Đông cung chu lệ thấm bào
Tống chung một thuở ngậm sầu ba thu”.
Sau khi kể lại thời kỳ tốt đẹp của đạo Công giáo thời vua Gia Long và đầu đời Minh Mệnh, bài vãn kể đến cuộc cấm đạo đầu tiên vào năm Minh Mệnh thứ 13 (1932).
“Chỉ truyền cấm đạo mọi nơi
Minh Mệnh trị đời năm thứ mười ba
Năm bắc khắp cõi gần xa
Đạo thánh triệt hạ các cha tử hình
Giáo nhân ai chẳng thuận tình
Trảm giảo lập tức lôi đình oai gia
Ai mà thập chữ bước qua
Thị là thiên thiện chỉ tha về nhà”
Vua Minh Mệnh là vốn rất không ưa Công giáo, năm 1832 đã bắt đầu trục xuất các Thừa sai. Sau cái chết của Lê Văn Duyệt, phó vương Nam kỳ, là người bảo trợ công khai cho Công giáo, tiếp đến cuộc nổi dậy của Lê Văn Khôi, con nuôi của Lê Văn Duyệt, mà các Thừa sai và giáo dân đã có dinh slíu vào làm cho nhà vua thêm cứng rắn. Thực ra nguyên nhân sâu xa về phía triều đình gây nên cuộc cấm đạo là nhà vua nhìn thấy trong sự phát triển mạnh của đạo Công giáo một nguy cơ về mặt tư tưởng đối với Nho giao smà vương triều Nguyễn đặt cơ sở trên đó, có thể có hại cho uy quyền của vương triều. Nhưng nguyên nhân trực tiếp việc đàn áp dân Công giáo vùng miền Trung, một chi tiết lịch sử được linh mục Tuấn cho biết là sự tranh chấp đất đai giữa người Công giáo và người ngoài Công giáo tại hạt Thừa Thiên:
“Dương Sơn Cổ Lão cơ cầu
(Dương Sơn, Cổ Lão hai xã tại Thừa Thiên hạt)
Kiện nhau giới hạn tranh nhau đất làng
Dương Sơn có đạo vẹn toàn
Cổ Lão không đạo quyết toan kỳ thù
Bời lòng căm ghét phao vu
Trước thưa huyện phủ sau vô pháp đường
Rằng đạo ỷ thế Tây Dương
Phiên kinh đạo trưởng mối giềng đôi co
Cao minh chê lấp khôn dò
Việc đầu thời nhỏ sau to bằng trời
Chỉ truyền cấm đạo mọi nơi”.
Tuy triều đình cấm đạo gắt gao, nhưng do những cố gắng của các nhà truyền giáo và giáo dân, đạo vẫn phát triển.
“Kể phen ở tối đi thầm
Sói hùm chi quản sơn lâm chi nài
Ra tay phạt gốc giống gai
Viên nho vun quên đắc tài dưỡng nuôi
Gại năm nhen nhóm lần hồi
Dịch kinh ấn sách trau dồi đàn chiên
Bản quốc Linh mục chức truyền
Trong thời nguy hiểm khắp miền giữ chăn
Tìm học đồ gửi Pênang
Cho học thông thái để hằng giảng khuyên
Lại chia gánh nặng đàn chiên
Gia Định một mối Thừa Thiên một quyền
Trong ngoài đều có mối giường
Đạo tuy nghiêm cấm đèn thiêng sáng ngời
Giáo nhân ở các phương trời
Thấy gương phúc đức như lời ủy an
Bắc nam ngàn dặm quan san
Quyền trên có đủ ân ban cũng đồng”.
(Gia Định Giám mục Nghĩa, Bình Định Giám mục Thể, Thừa Thiên Giám mục Phan, Nghệ An Giám mục Liệu, Lạng Sơn Giám Sơn Vọng. Tự Gia Định chí Lạng Sơn Giám mục ngũ nhân)
Ba vụ tàu chiến Tây Dương xâm phạm Đà Nẵng vào năm Thiệu Trị thứ 7 (1847) năm Tự Đức thứ 9 (1856) và Tự Đức năm thứ 11 (1858) đã làm cho triều đình càng thêm nghi ngờ đạo trưởng, giáo dân tiếp tay cho giặc Pháp. Nhiều lệnh cấm đạo nghiêm khắc được ban hành, đạo Công giáo trải qua bao nhiêu sóng gió, người Công giáo thực sự đứng giữa hai làn đạn:
“Mượn câu giảng đạo làm danh
Làm cho giáo hữu tán tình phen ni
Làm cho nhà nước sinh nghi
Bàn cấm đầu mục khinh khi đạo trời
Làm cho xao xác trong đời
Rung động đến nước đổi dời gió trăng
Ngôi ải Vân khói tan mấy khúc
Cõi Đồng Nai gió xúc ngọn sầu
Khôn cùng mọi nỗi lo âu
Một mình ở giữa hai đầu bắn nhau
Nghĩ thôi mà sợ người sau
Bách tùng đã đốn tranh lau nào trừ
Ngạn rằng diều quạ ăn dừa
Bắt cò phơi nắng nghiêm nhật khắp nơi
Giữa đường mang ách ra đời oan ương
Kẻ ở Tây Dương qua bắn súng
Người bên Nam Việt lạ mang gông
Trời cao khổ vấn khôn đâu thấu
Lý vạy tình ngay nào xét công
Khác trời khác biển Tây Đông
Vì giữ đạo chúa cùgn dồng vấn vương
Mật truyền tỉnh phủ huyện đường
Đạo nhân tận số đền trường đầu khai
Bất kỳ già trẻ gái trai
Mỗi tháng đòi bắt mặc hoài lao đao
Những đi mời xuống ra vào
Cửa nhà bỏ đó hư hao kể gì
Đến quan dạy bảo một khi
Bay mà xuất giáo tất thì xá cho
Đứa nào cứng cổ cưỡng cô
Thừng roi có đó nẹp vỗ có đây
Bay đừng quen chối dại ngây
Đạo ta thì bỏ đạo tây lại thờ
Xá tu cải đạo bây giờ
Bước qua thập tự ngĩ nhờ xá ân…”
Những cuộc cấm đạo đó đã đem lại bao nhiêu đau khổ cho giáo dân và những thiệt hại nặng nề cho các giáo phận. Khi Linh mục Tuấn khi được tha trở về thì: “Tuấn về thăm viếng đã nhiều. Mười phần cố cựu tàn phiêu bảy phần”. Bài vãn còn kể lại tên các giáo sĩ, giáo dân đã tử vì đạo qua các đợt khủng bố với những lời thương xót và ca ngợi.
Phần thứ hai của sách là lời tự thuật của linh mục Tuấn về cuộc đời và những gian khổ ông trải qua cùng những việc ông đã làm cho giáo dân và triều đình từ khi ông bị bắt cho đến khi được thả.
Ông vốn sinh trong gia đình theo đạo Công giáo, cha mẹ anh em đều không còn, sau khi được thụ phong Linh mục ở trường dòng Pênang, ông về làm Mục vụ ở Quảng Ngãi, được khoảng 5, 6 năm thì lệnh cấm đạo cảu triều đình được thi hành nghiêm ngặt, ông phải trốn tránh một thời gian. Năm 1862, Linh mục Tuấn bị bắt giải về tỉnh đường Tư Nghĩa. Tại đây ông một mực kêu oan và xin viết tờ khai, trong đó ông trình bày thành thật rõ ràng về đạo Công giáo cùng sự oan uổng của ông và giáo dân. Bị giam cầm, tra tấn, ông cũng không thay đổi thái độ. Lúc đó có quan bộ Hình, trong Cơ Mật viện đi kinh lý qua, quan đầu bèn tỉnh tâu bày việc của Linh mục Tuấn. Quan Triều đình liền lệnh đưa Linh mục Tuấn về Huế. Ông bị tra tấn đến nỗi không tự đi được phải cho người cáng. Đến Huế, ông ra mắt Phan Thanh Giản và Lâm Duy Hiệp, những người được vua ra lệnh xét hỏi ông về hai việc: Về văn nguyên đạo Gia Tô và về duyên cớ hành động của quân Pháp, Linh mục Tuấn trình bày:
“Đạo dạy thờ Chúa linh thiềng
Dựng nên trời đất cầm quyền tử sinh
Hễ người thời có tính linh
Giữ lối đạo chính trường sinh cõi trời
Đạo dạy thờ vua dưới trời
Vì vua thay mặt chúa trời trị dân
Đạo dạy thảo kính sinh thân
Cù lao báo nghĩa tư cần đền ơn
Đấy là ba đấng trọng hơn
Hội ra quân phụ có quyền khác nhau.
Rô Ma có một giáo hoàng
Cội đầu hội thánh mối mang đạo trời
Tuy là đạo ở khắp nơi
Giáo hữu chốn chốn vâng lời pa pa
Như giặc bởi nước Rô Ma
Thì tôi cam chịu đạo qua phá rầy
Vốn nay chẳng phải làm vây
Lãng Sa nước khác đến gây chiến trường
Giặc này tôi chẳng biết tường
Nhưng mà ước cũng tìm đường lợi danh
Vậy nên gây cuộc chiến tranh
Nói đi giảng đọa hoành hành lao niên
Xin thôi lấy việc năm trên
Đạo mà nội qứng với thuyền Lãng Sa
Thời khi thuyền ấy mới ra
Thời là bỏ xứ chạy ồn theo Tây
Bởi đạo không có lòng này
Đây đó bình tịnh xưa nay như thường
Phụng công giữ pháp mọi đường
Binh thuế như hcúng kiều lương như người
Không ý mạn pháp…
Không làm đạo tặc không lời khinh khi
Chẳng dám xuất giáo tuỳ thời
Là vì đạo chúa chẳng vì Lãng Sa
Triều đình là lượng mẹ cha
Bắt roi thời chịu thứ tha thời nhờ
Dễ đâu tôi dám nói vờ
Việc việc đều có sờ sờ chẳng không”
Sau những lời điều trần đó ông được đối xử tử tế hơn. Sau đó ông được quan Thượng mời lên nói chuyện và được yêu cầu làm tờ trình lên vua:
Ngày sau quan Thượng đòi mời
Đem vào mật thất một bên dạy ngồi
Hỏi sao cơ sự đầu đuôi
Truyền soạn cơm nước xong rồi mới ăn
Ăn rồi quan mới hỏi năng
Triều đình nhiều kẻ băng xưng nghi ngờ
Bề trên cũng đã làm ngơ
Cực vì các tỉnh sớ tờ thường tâu
Xin làm nhiều sự cay sâu
Bề trên cũng chịu từ sau đến rày
Như nay đạo trưởng là đây
Làm điều trần án dâng ngay ngự tiền
Nói rõ sự tích căn nguyên
Lượng vua phán đặc việc hiền chớ lo”.
Lúc bấy giờ triều đình Tự Đức đang gặp khó khăn. Phía bắc Lê DuyPhụng nổi loạn, phía nam tranh chấp với Pháp. Triều đình Huế đành phải chọn nhượng bộ Pháp để rảnh tay đối phó với những xuộc nổi loạn phía bắc có vẻ nguy hiểm hơn. Hiệp ước Sài Gòn ký ngày 5/6/1862 trong đó công nhận sự tự do hành đạo của đạo Công giáo và nhượng cho Pháp 4 tỉnh miền đông Nam Kỳ là Biên Hoà, Gia Định, Định Tưởng và đảo Côn Lôn. Trong cuộc ký kết này Linh mục Tuấn được cử làm phái viên phụ tá hai ông Phan Thanh Giản và Lân Duy Hiệp thay mặt triều đình.
“Thuyền Tây ra Huế tháng ba
Hỏi triều đình có chịu hòa hay không
Vua sai quan xuống hội dồng
Chịu giao hoà cuộc cho xong nước nhà
Đến ngày mười bốn tháng ba
Tàu Tây ra lại gửi thư lên thành
Xin cho quan lớn xuất hành
Vào trong Gia Định lập thành lời giao
Triều đình bàn luận lao xao
Khó sao khó định ông nào ra đi
Vì còn nhiều lý kinh nghi
Chưa biết bàn định lý gì cho hay
Phan, Lâm đòi Tuấn hỏi ngay
Tàu Tây xin vậy Tuấn bày làm sao
Tuấn rằng ông lớn lượng cao
Thưa tâu hoàng đế xin vào Đồng Nai
Cho tôi tòng phái mấy người
Tôi cảm quả quyết không ai làm gì
Hoà đặng thời ta hào đi
Bằng hòa chẳng đặng ta thì về ngay
Quan Lâm về tấu nội ngày
Vua ban sắc xuống y rày lời xin”.
Linh mục Tuấn cùng phái bộ đến Sài Gòn. Qua bài thơ ta có thể cảm nhận được không khí Sài Gòn sầm uất, nhộn nhịp, năng động và đang biến đổi rất nhanh chóng, mở ra với thế giới bên ngoài thời bấy giờ. Thật là tương phản với chính sách bảo thủ cô lập của triều đình Huế.
“Đến thành Gia Định tàu dừng
Quan Tây bắn súng chào mừng vang tai
Nam kỳ thiên hạ ai ai
Nghe tầu vua đến ra ngoài ngóng trông
Các dân các nước quá đông
Dập dìu tàu lửa tàu đồng bốn phương
Nghênh ngang phố xá cầu lương
Giang sơn chốn cũ khách thương lạ lùng”.
Phần cuối kể về cuộc thương lượng và ký kết, xong việc Linh mục Tuấn trở về Huế. Các giáo dân bị bắt dần dần được tha và Linh mục cũng trở về quê.
Cuối cùng văn bản cho biết bài vãn di Khâm sai Đặng Đức Tuấn sáng tác. Người chép lại có tên là Lý, chép vào ngày mồng 6 tháng 3 năm Canh Thìn.
Lịch sử truyền đạo Công giáo vào Việt Nam đã xảy ra những sự kiện đáng tiếc mà Linh mục Đặng Đức Tuấn vừa là nhân chứng vừa là người trong cuộc, hơn thế ông đã cửu động đem tài sức của mình tham gia để có thể cải thiện tình hình trong phạm vi có thể. Và điều chúng ta rất biết ơn là ông đã ghi chép lưu lại cho hậu thế. Cùng với những tác phẩm khác của Linh mục Đặng Đức Tuấn, cuốn sách thơ Nôm Tích việc nước Nam của ông là tài liệu quý báu cho những người nghiên cứu lịch sử Thiên chúa giáo nước nhà.
Thông báo Hán Nôm học 2003, Tr.210-222

Tuesday 26 March 2013

Giao cấu và dâm ô khác nhau thế nào?



Ông Đỗ Văn Đương, viện phó viện khoa học kiểm sát thuộc viện kiểm sát nhân dân tối cao, định nghĩa hành vi giao cấu như sau:
Hành vi giao cấu trong Pháp lệnh Phòng chống mại dâm không chỉ hiểu là giữa nam với nữ, mà diễn ra cả giữa những người đồng giới. Giao cấu được hiểu là việc đưa bộ phận sinh dục của người này chủ động tác động vào bất cứ bộ phận nào trên cơ thể người kia, không phân biệt là đồng giới hay khác giới. Như vậy, nếu một người chủ động sử dụng bộ phận sinh dục của mình để “quan hệ” với người khác (không nhất thiết phải là hai bộ phận sinh dục với nhau) thì là giao cấu. Còn nếu chỉ sử dụng tay, chân… tác động vào bộ phận sinh dục của người khác thì coi là dâm ô
Giao cấu, theo cách ông Đỗ Văn Đương định nghĩa, thực chất là quan hệ tình dục. Có điều ông không đủ can đảm để thay đổi từ ngữ trong luật (không thay giao cấu bằng quan hệ tình dục) trong khi vẫn định nghĩa ỡm ờ hành vi giao cấu bằng cách dùng từ quan hệ trong dấu nháy nháy.
Định nghĩa có phần tùy tiện của ông Đỗ Văn Đương vẫn rất bất tiện trên thực tế. Theo đó Bill Clinton có giao cấu với Monica Lewinsky (chủ động sử dụng bộ phận sinh dục của mình để quan hệ với người khác) nhưng cô thực tập sinh chỉ phạm tội dâm ô mà thôi (dùng miệng tác động vào bộ phận sinh dục của tổng thống). Kinh khủng nhất là vợ chồng có hôn thú hẳn hòi nếu chỉ sử dụng tay, chân… tác động vào bộ phận sinh dục của người khác thì coi là dâm ôĐược cái tự tác động vào bộ phận sinh dục của mình thì không phải giao cấu cũng không phải dâm ô.

Monday 25 March 2013

Thế nào là giao cấu?



Từ điển xưa rất e ấp, thẹn thùng khi phải định nghĩa giao cấu: nói giống đực giống cái đi lại với nhau (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:216). Nhưng thế nào là đi lại?  Có phải là nói chung về việc chơi bời thăm viếng nhau (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:178) hay không? Hẳn là không rồi. Thế thì tại sao cứ phải ngầm hiểu rằng hễ giống đực giống cái đi lại với nhau tất phải có chuyện giao cấu?  

Giao cấu là từ Hán Việt, được Đào Duy Anh (2005:298) định nghĩa là âm và dương giao hợp với nhau = trai gái làm tính giao với nhau (relations sexuelles).

Lê Văn Đức (1970a:554) định nghĩa giao hợp = giao cấu và giao cấu là ăn nằm, đi lại, lấy nhau giữa một nam một nữ hay một đực một cái (Lê Văn Đức, 1970a:553).

Nguyễn Kim Thản (2005:671) định nghĩa giao cấugiao nhau giữa bộ phận sinh dục ngoài của giống đực và của giống cái (ở động vật). Giao hợpgiao cấu (chỉ nói về người) (Nguyễn Kim Thản, 2005:671).

Như vậy các nhà soạn từ điển không thừa nhận quan hệ tính giao (relations sexuelles) giữa nam với nam, giữa nữ với nữ. Hành vi tính giao giữa nam và nữ cũng chỉ được tính là thành sự khi xảy ra sự giao cấu tức là khi dương vật được đưa vào âm đạo. Do đó, theo tiêu chuẩn Việt Nam, việc nữ thực tập sinh Monica Lewinsky thổi kèn cho tổng thống Bill Clinton không phải là tính giao vì không xảy ra sự giao cấu. Vẫn theo tiêu chuẩn Việt Nam, việc lắp đít người nữ bằng dương vật của người nam cũng không phải là giao cấu.


Sinh sản, duy trì nòi giống là một trong những chức năng cơ bản của hoạt động tình dục. Trong nhận thức của người Việt, cái chức năng đó chiếm vị trí quan trọng nhất và trở thành nỗi ám ảnh duy nhất đè nặng lên các định nghĩa của giao cấu. Các khía cạnh khác của tình dục không được người Việt xem là quan yếu, do đó không được nhà soạn từ điển đưa vào định nghĩa.

Saturday 23 March 2013

Phim heo là phim gì?




Phim heo là từ dùng để gọi các tác phẩm điện ảnh có nội dung khiêu dâm. Tùy mức độ miêu tả các cảnh ái ân mà có phim heo nhẹ nhàng,  phim heo nặng đô, phim heo cực mạnh... Căn cứ tính chuyên nghiệp của người làm phim, có phim heo tự quay, phim heo nghiệp dư, phim heo chuyên nghiệp.
Từ nguyên dân gian cho rằng diễn viên đóng các phim này trần truồng như heo nên thể loại điện ảnh đó có tên là phim heo. Thật ra không phải như thế.  Phim heo là do người Việt thời xưa biết tiếng Pháp dịch sao phỏng cụm từ film cochon. Trong tiếng Pháp từ cochon vốn nghĩa là con heo còn có thể dùng để chỉ kẻ có thói dâm tà gớm ghiếc (pervers, từ ngữ bây giờ gọi là thằng biến thái). Phim khiêu dâm đồi trụy (film pornographique) là phim toàn những chuyện dâm dục bẩn thỉu nên đáng bị gọi là film cochon (phim con heo).
Con heo của người Pháp sau khi nhập Việt tịch mất hẳn diện mạo ngoại quốc của nó. Con heo đối với người Việt cũng là một con vật bẩn thỉu. Không ai thắc mắc gì khi gọi phim khiêu dâm là phim con heo.
Người Việt bây giờ tiếp xúc với tiếng Anh nhiều hơn gọi phim con heo là phim người lớn (adult movie).

Friday 22 March 2013

Thẩm phán Potter Stewart xem Kim Bình Mai chưa?


Dưới dây là một đoạn trích lời phát biểu của thẩm phán Potter Stewart:
It is possible to read the Court's opinion in Roth v. United States and Alberts v. California, 354 U.S. 476, in a variety of ways. In saying this, I imply no criticism of the Court, which in those cases was faced with the task of trying to define what may be indefinable. I have reached the conclusion, which I think is confirmed at least by negative implication in the Court's decisions since Roth and Alberts, that under the First and Fourteenth Amendments criminal laws in this area are constitutionally limited to hard-core pornography. I shall not today attempt further to define the kinds of material I understand to be embraced within that shorthand description; and perhaps I could never succeed in intelligibly doing so. But I know it when I see it, and the motion picture involved in this case is not that. 
Ý của cả đoán tóm lại là khiêu dâm thật khó định nghĩa nhưng (tôi mà) nhìn thấy khiêu dâm thì biết ngay là khiêu dâm (Hard-core pornography was hard to define, but I know it when I see it)
Ta thử nhờ ông Stewart thẩm định đoạn trích dưới đây xem sao:
Vương bà nói:
- Kế của tôi thần tình lắm, Đại quan nhân đã thật lòng thì tôi xin nói. Cô này tuy xuất thân từ gia đình nghèo khó nhưng trăm phần lanh lợi, đàn hát giỏi, nữ công thêu thùa cũng khá, lại biết đọc sánh, ngâm thơ, đánh cờ, uống rượu, cái gì cũng hay. Cô ta tên là Kim Liên, con cái nhà họ Phan, trước cư ngụ Ở Nam môn. Lúc trước bị bán cho Trương Đại Hộ, tại đây cô ta được học về âm nhạc đàn ca. Khi Đại Hộ sắp chết thì đem gả cho anh chàng Võ Đại, từ đó tới nay cô ta buồn khổ lắm, thường than thở với tôi. Nhà bên đó có chuyện gì cũng thường mời tôi sang giúp. Cô ta cũng nhận tôi làm mẹ nuôi. Hàng ngày, Võ Đại đi bán bánh từ sớm, nếu Đại quan nhân theo kế của tôi thì trước hết hãy mua một xấp lụa xanh, một xấp lụa trắng đem tới cho tôi sẽ đưa qua bên đó, nói là muốn may quần áo, nhờ cô ta lựa ngày gọi giùm một thợ may tới may. Nếu cô ta từ chối thì việc coi như bỏ. Còn nếu cô ta vui vẻ bảo là để cô ta may cho mà không cần gọi thợ may, như vậy là việc đã được một phần. Rồi tôi sẽ mời cô ta sang đây may cho tôi, nếu cô ta bằng lòng tức là việc được hai phần. Tôi sẽ dọn tiệc rượu nhỏ mời cô ta. Nếu cô ta từ chối, lấy cớ là bất tiện, để cô ta đem về nhà may, thì thôi. Mà nếu cô ta im lặng, tức là nhận lời, như thế là việc được ba phần. Hôm đầu, ngài đừng đến, đợi mấy hôm sau, vào khoảng giờ Ngọ, ngài ăn mặc chải chuốt tới đây, đứng ngoài đằng hành cho tôi biết, rồi vờ nói là lâu không tới uống trà, tôi sẽ ra mời ngài vào phòng, nếu cô ta thấy ngài vào mà đứng dậy đi về thì tôi cũng chẳng có cách gì giữ lại, như vậy thì thôi. Còn nếu cô ta cứ ngồi yên, thì như vậy là việc được bốn phần. Lúc đó tôi sẽ nói rằng ngài chính là người có lòng rộng rãi mua lụa cho tôi để may quần áo, rồi nhân đó khoa trương cho ngài. Ngài sẽ tiếp lời tôi mà hỏi chuyện nàng, nếu cô ta không chịu trả lời thì thôi. Còn nếu cô ta tiếp chuyện ngài, tức là việc đã được năm phần. Sau đó tôi mới khoe tài giỏi giang của cô ta, ngài mới bỏ tiền ra hỏi mua những đồ may vá, nếu cô ta không chịu mà bỏ về thì thôi, còn nếu cô ta ngồi yên tức là việc đạt được sáu phần. Rồi tôi giả vờ ra ngoài mua món gì, tôi nói với cô ta là ở nhà tiếp ngài giùm tôi một chút, nếu cô ta không chịu mà đứng dậy bỏ về thì thôi, còn nếu cô ta ngồi yên không nói gì tức là đã bảo bảy phần thành công rồi. Đến khi tôi mua các thứ trở về, bày tiệc rượu trên bàn, mời cô ta cùng uống với ngài, nếu cô ta không chịu đối ẩm với ngài mà bỏ về thì thôi, còn nếu cô ta ngần ngừ không quyết liệt từ chối, tức là đã tám phần thành công. Rồi lúc rượu được vài tuần, cô ta vui vẻ chuyện trò, tôi giả vờ nói là hết rượu, ngài mới lấy tiền ra khẩn khoản nhờ tôi đi mua thêm rượu và các món đồ ăn, tôi bèn đi ra và khóa cửa ngoài lại, nhốt hai người trong nhà tôi, nếu cô ta sợ hãi đứng dậy đòi về thì đành thôi, còn nếu cứ ngồi yên tức là đã chín phần thành công chỉ còn một phần nữa là hoàn toàn:
Phần sau chót này mới khó ngài đừng vội vã hấp tấp mà hư việc, trước hết phải dùng lời ngọt ngào mà tán tỉnh, sau đó thì mới dùng tới tay chân mà dò xét, chẳng hạn ngài đùng tay áo gạt rơi đôi đũa xuống đất rồi vờ cúi xuống nhặt lên, đồng thời lấy tay vuốt nhẹ chân cẳng cô ta, nếu cô ta giẫy nảy lên mà làm ồn thì tôi đứng ngoài sẽ vào ngay để can thiệp làm dịu chuyện, sự việc như vậy là dành tạm ngừng ở đó vậy. Còn nếu cô ta không nói gì tức là công việc mười phần hoàn hảo. Lúc đó thì ngài muốn làm gì không được. Nhưng sau đó thì ngài trả công nho tôi thế nào ?

Đoạn trích này ở hồi 5 của quyển tiểu thuyết Kim Bình Mai, kể lại việc Vương Bà bày kế cho Tây Môn Khánh ve vãn nàng Phan Kim Liên. Ông Potter Stwart hẳn phải ngán ngẩm lắm nếu phải đọc hết cả đoạn dông dài đó, nhưng Tây Môn Khánh thì khác:
Tây Môn Khánh mừng lắm, hớn hở nói:
- Thật là diệu kế, nhưng có vẻ khó khăn quá.
Với các ông Tây thì chỉ có nói chuyện sờ ngực, sờ bướm mới là bậy bạ. Đến phần sau chót mà mới chỉ vuốt nhẹ chân cẳng thì không ăn thua gì. Ông Stewart chắc chắn chẳng cảm thấy gì kể cả khi đọc bằng ngôn ngữ cha sinh mẹ đẻ của mình:
... But it is possible that you might knock down a pair of chop-sticks with your sleeve, and touch her foot when you pretend to pick them up.
Nhưng người Tàu dù có đọc bằng tiếng Anh cũng không thể không xao xuyến. Đối với họ, gót sen vàng có một khả năng gợi dục (charge érotique) mãnh liệt vô cùng. Các ông Tây có thể ngao ngán vì vô số đoạn tả bàn chân trong các tiểu thuyết khiêu dâm Trung Quốc, nhưng người Tàu thì như phát rồ khi đọc các đoạn đó.
Như vậy ai nói nhìn khiêu dâm thì biết ngay chỉ là nói dóc hoặc ngu dốt. Có những cái người này thấy là khiêu dâm, nhưng người kháckhông thấy, và ngược lại