Wednesday, 16 May 2012

DẤU TÍCH CỦA CÁC TỔ HỢP PHỤ ÂM ĐẦU KB KM KĐ KN QUA CÁCH GHI CHỮ NÔM CỔ - Hoàng Thị Ngọ

38. Dấu tích của các tổ hợp phụ âm đầu KB KM KĐ KN qua cách ghi chữ Nôm cổ (TBHNH 1998)
Cập nhật lúc 21h04, ngày 26/09/2007
HOÀNG THỊ NGỌ
Viện Nghiên cứu Hán Nôm
Trong tiếng Việt ở thời kỳ đầu của quá trình đơn tiết hóa khá nhiều từ vẫn còn yếu tố tiền âm tiết. Một số tổ hợp phụ âm đầu như bl, kl, tl, ml đã được nhiều người biết đến. Trong bài tham luận này, chúng tôi xin đề cập đến dấu tích của các tổ hợp phụ am đầu với [k*] đứng trước các phụ âm tắc [b], [m], [đ], [n].
Sự tồn tại của các tổ hợp phụ âm kb, km, kđ, kn trong tiếng Việt lịch sử là có thật hay không? Và nếu có thì chúng tồn tại trong giai đoạn nào?
Các cách ghi kb, km, kđ, kn không còn thấy trong các cuốn từ điển từ thế kỷ XVII về sau. Những lưu tích về các cách ghi này chỉ còn thấy rất ít trong một số văn bản Nôm cổ trước và sau thế kỷ XV, đặc biệt là ở bản giải âm Phật thuyết đại báo phụ mẫu ân trọng kinh (gọi tắt Phật thuyết). Sự tồn tại của chúng ta là có thật nếu ta so sánh với những tư liệu thu thập được qua công tác điều tra điền dã ở một số ngôn ngữ dân tộc có quan hệ họ hàng với tiếng Việt, ví dụ: kmắng trong tiếng Bru là kamăng/tơmưng; trong tiếng Mày, Sách, Rục là tamăng; ta còn thấy cả hình thức kz như kzó (gió) trong tiếng Rục, Mã Liềng; Pakatan là kơjo, Tha Vừng là kơju, Poọng là Kδzo… Dấu vết của các tổ hợp phụ âm đầu trên có thể thấy trong chữ Nôm như sau:
- Cách ghi [kb]
Trong Phật thuyết, từ bẵm nghĩa là bế ẵm được dịch từ chữ Hán (bão), xuất hiện 2 lần, đều được ghi là + (cự + bẩm) = kbẵm > bẵm, trong câu.
Nuốt của đắng dả (nhả) của ngọt bẵm ấp nuôi nấng (17b-9)
Áng nạ bẵm ấp mỉm cười chửa hay thốt (33b-9)
Trong một số văn bản đời Lê và đầu đời Nguyễn(1) có một số cách ghi mà chúngtôi cho rằng có thể đây là lưu tích của cách ghi thời cổ còn lại trong chữ Nôm như:
(cá + bị) = kbợ > bợ
貝个 (cá + bối) = kbói > bói
巴个 (cá + ba) = kba > ba
邦个 (cá + bang) = kbương > bương
- Cách ghi [km]
Trong Phật thuyết có trường hợp từ cổ kmắng (mắng) nghĩa là nghe, dịch từ chữ Hán (văn) được ghi dưới dạng 2 dạng mã chữ tách rời và xuất hiện 5 lần trong văn bản. Dùng (mãng) = kmắng > mắng(*) trong các ngữ cảnh:
Được mắng (kmắng) tám đấng tiếng (5b-5)
Kinh dường này A-Nan một no mắng (kmắng) (6b-5)
Đại chúng mắng (kmắng) Bụt thửa thốt (281-1)
Người cùng khác người đấng mắng (kmắng) Bụt thửa thốt (30b-9)
A-Nan mắng (kmắng) lời ấy (8b-7)
Trong Phật thuyết còn một trường hợp nữa là móc được ghi:
木个 (cá + mộc) = kmóc > móc (14b-1)
Từ móc cả 2 thành tố đều nằm trên một mã chữ.
Ở một số văn bản khác cũng thấy cách dùng [km] để ghi như:
- Ghi muống + (cự + mộng) = kmuống > muống (rau muống), trong câu: Ao quan thả gửi hai bè muống (kmuống) (QÂTT, Trang 25a)
- Ghi mẽ + (cự + mỹ) = kmẽ > mẽ (giống như: dáng vẻ bề ngoài), trong câu: Làng kia mẽ (kmẽ) cảnh tiêu tương (QÂTT, trang 17a).
- Ghi mòng +(cự + mộng) = kmòng > mòng (chốc mòng), trong câu: Chốc mòng (kmòng) xin chờ mơ hề (Thiên Nam ngữ lục).
Trong bảng từ vựng của Nguyễn Tá Nhí [83] ở một số các văn bản đời Lê còn tồn tại cách ghi [km] như:
麻个 (cá + ma) = kmà > mà
買个 (cá + mãi) = kmái > mái
免个 (cá + miễn) = kmến > mến
免个 (cá + miễn ) = kmởn > mởn
蔑个 (cá + miệt) = kmệt > mệt
蔑个 (cá + miệt) = kmịt > mịt
某个 (cá + mỗ) = kmõ > mõ
媒个 (cá + môi) = kmối > mối
悶个 (cá + muộn) = kmuộn > muộn
末个 (cá + mạt) = kmượt > mượt
Cách ghi này có thể là lưu tích của cách ghi thời cổ còn lại trong chữ Nôm.
Ngoài các cách ghi [km] bằng 2 mã chữ tách rời, bằng 1 mã ghép 2 thành tố ghi âm, còn thấy trong văn bản Phật huyết cách ghi chỉ giữ lại thành tố thứ 2 (thành tố ghi âm tiết chính). Đó là cách ghi mắng bằng (mãng); xuất hiện 12 lần trong văn bản. (mãng) được tái lập = kmắng > mắng (nghe).
Trong Quốc âm thi tập, ngoài cách ghi muống bằng 夢巨 (cự + mộng) còn có cách ghi cũng chỉ giữ lại yếu tố thứ 2 là (mộng).
(mộng) tái lập = kmuống > muống, trong câu Ao cạn vớt bèo cấy muống (tr.25b)
Từ mòng cũng được ghi bằng cách giữ lại yếu tố thứ 2 (mộng).
(mộng) tái lập = kmòng > mòng (*), trong câu Cảnh cũ non quê nhặt chốc mòng (tr.19b).
- Cách ghi [kđ].
Trong Phật thuyết, dấu vết của tổ hợp phụ âm [kđ] còn thấy ở các trường hợp ghi nátđối:
个怛 (cá + đát) = kđát > nát (43a – 9)
对个 (cá + đối) = kdối > dối (41a – 7)
Trong một số các văn bản khác cũng có cách ghi sau:
Ghi dành bằng 亭巨 (cự + đình) = kđành > dành (QÂTT)
- dựng - 巨登 (cự + đặng) = kđựng > dựng (ĐVTS)
- dưới - 帶巨 (cự + đới) = kđưới > dưới (bia 144470)
Trong những tấm bia không tên ở núi Dục Thúy, Ninh Bình khắc năm 1343, đời Trần Dụ Tông [65] còn thấy ghi các địa danh là: 个低(Cá Đê), 个眈 (Cá Đam).
Trong bảng từ của Nguyễn Tá Nhí lấy tư liệu từ các bản giải âm được in vào đời Lê như: Gia lễ, Chỉ Nam ngọc âm giải nghĩa, Cổ Châu Pháp Vân Phật bản hạnh ngũ lục, Truyền kỳ mạn lục tăng bổ giải âm tập chú, Sô nghiêu đối thoại và một số văn bản in vào đời Tây Sơn như Thi kinh giải âm, Chu địch giải nghĩa diễn ca. Tứ thư ước giải… còn giữ lại được dấu vết của các cách ghi cổ như sau:
Gia đầm bằng 覃个 (cá + đàm) = kđầm > đầm
- đẵng - 等个 (cá + đẳng) = kđẵng > đẵng
- đầy - 待个 (cá + đãi) = kđẫy > đẫy
- đùn - 屯个 (cá + đồn) = kđù > đùn
- đời - 代个 (cá + đại) = kđờ > đời
- Cách ghi [kn]
Văn bản Phật huyết có 3 trường hợp còn giữ lại cách ghi kn, đó là ghi các từ: no, nặng, nang.
Ghi no (là từ cổ, dịch chữ Hán thời, nghĩa là: lúc, khi) dưới 3 dạng chữ: 个奴,个奴,.
Dạng 个奴 (cá nô) = kno > no, viết dưới dạng 2 mã chữ tách rời, xuất hiện 4 lần, trong các ngữ cảnh:
Áng nạ lòng thực dấu tội qua ắt chẳng trật sự no (kno) (13b-3)
No (kno) mẹ chửa con trong mười tháng (17a – 5)
Trăm ngàn đòng bác một no (kno) xẻ tan ra (27a – 5)
Nhiều kiếp chịu khổ chẳng có no (kno) quạnh dừng (29b – 5)
Dạng 个奴 (cá + nô) = kno > no, viết dưới dạng ghép 2 thành tố ghi âm trên cùng một mã chữ, xuất hiện 1 lần (ở trang 16a – 7).
Dạng (nô) tái lập = kno > no. Dạng này chỉ giữ lại thành tố thứ 2, loại bỏ thành tố thứ nhất, xuất hiện 13 lần trong văn bản.
Ghi nặng bằng 巨囊 (cự + ½ nãng), viết dưới dạng ghép 2 thành tố ghi âm trên cùng một mã chữ, xuất hiện 1 lần trong câu:
Ấy mới thực trả được ơn nặng (knặng) áng nạ (30a – 5)
Tái lập (cự + ½ nãng) = knặng > nặng
Ghi nang (trong 尔 艮nể nang), viết dưới dạng ghép 2 thành tố ghi âm trên cùng một mã chữ, xuất hiện 1 lần trong câu:
Lòng nề nang (knang) trước mặt (42b – 1)
Tái lập 艮个 (cá + ½ nương) = knang > nang
Trong những tấm bia đời Trần ở núi Dục Thuý, Ninh Bình còn thấy hiện tượng ghi các địa danh và tên người bằng:
Đỗ Cá Ni(2)
Đỗ Cá Ni
Nam(3)
Trong bảng từ Nguyễn Tá Nhí còn thấy các văn bản có các cách ghi sau:
Ghi nải bằng 乃个 (cá + nãi) = knải > nải
- nưa - 那个 (cá + na) = knưa > Nưa (núi Nưa)
- nom - 南个 (cá + nam) = knom > nom
- nem - 念个 (cá + niệm) = knem > nem
Trong đây là những dấu vết về các cách ghi [kb], [km], [kđ], [kn] trong chữ Nôm văn bản Phật thuyết và ở các văn bản xuất hiện gần thời điểm với Phật thuyết.
Như vậy có hay không có sự tồn tại của các tổ hợp phụ âm này trong tiếng Việt ?
Theo Nguyễn Ngọc San(4) ở tiếng Tiền Việt Mường đã có một số âm tiết chuyển thành PNP (P = phụ âm đầu, N = nguyên âm, P = phụ âm cuối), chưa có thanh điệu trong khi phần lớn vẫn còn giữ dạng PPNP, tức là dạng điển hình của nó vẫn còn là:
P1 P2 N P3
Trong đó P1 tuyệt đại bộ phận là những âm tắc và những biến thể vang như: p, t, ch, k, đ, b, m, n,… và k là phổ biến hơn cả, P2 là một phụ âm bất kỳ.
Nguyễn Tài Cẩn(5) cũng cho rằng: ở thời Proto Việt Chứt, nếu các tổ hợp phụ âm được ghi là C1C2 (trong đó C2 là phụ âm của âm tiết chính) thì kết luận sẽ là:
C1 thường là phụ âm vô thanh, trong đó tần số xuất hiện cao là k,t,p,c.
C2 vì là âm đầu của âm tiết chính nên có thể là phụ âm bất kỳ.
Ta thấy ý kiến của hai nhà nghiên cứu trên đều thống nhất ở chỗ coi phụ âm thứ nhất có kk là phổ biến, còn phụ âm sau là một phụ âm bất kỳ. Như vậy, từ những kết quả nghiên cứu về những giai đoạn rất xa xưa của tiếng Việt, ta thấy rằng trong tiếng Việt có thể có những tổ hợp phụ âm đầu như: kb, km, kđ, kn. Những tổ hợp phụ âm này đã để lại dấu tích trong chữ Nôm.
Xu hướng phát triển của các tổ hợp phụ âm kb, km, kđ, kn tuân theo quy luật phát triển ngữ âm tiếng Việt.
- [kb] có thể có nguồn gốc từ kp, có thể phát triển theo những xu hướng sau:
Giữ lại P2 như trong các trường hợp: bẵm, bợ, bói, ba, bương, P1 dần bị loại bỏ.
Theo xu hướng sát hóa như thấy trong các trường hợp:
vâng (Đại Việt thông sử)
vua (Một số vấn đề về chữ Nôm)
vừa (Bảng từ Nguyễn Tá Nhí)
(………. - ………)
Dấu vết này còn tìm thấy trong tiếng tha Vừng:
Việt Tha Vừng
vảikpaas
vôi kpuul
Qua đó có thể thấy những lai nguyên của v hiện nay là p, b, kp, kb.
- Tổ hợp phụ âm [km] có thể đã có từ lâu và cũng có thể là kết quả của sự phát triển của kp, kb theo xu hướng mũi hóa. Nó cũng giữ lại P2 và loại bỏ P1 như trong các trường hợp:
muống, mắng, mòng
- Tổ hợp [kđ] có nhiều khả năng bắt nguồn từ [kt] nhưng đó là hiện tượng xẩy ra khá sớm. Theo các nhà nghiên cứu thì: ở trước thế kỷ X, /d/ và /t/ đã nhập thành /t/. Sau này /t/ lại biến đổi thành /d/ và đến thế kỷ XV thì /s/ lại biến đổi thành /t/ để lấp ô trống ở /t/ đã biến mất. Trong khi đó thì /kt/ cũng có thể để rụng yếu tố đầu như hiện tượng: 速个(cá + tốc) ghi tóc.
Qua các văn bản Nôm, tổ hợp phụ âm [kđ] cho thấy có các xu hướng:
* Giữ lại P2 như trong các trường hợp: 覃个 (đầm), 等个 (đẵng), 待个 (đẫy), 屯个 (đùn), 代个 (đời).
* Theo xu hướng xát hóa như trong các trường hợp: 亭个 (dành), 巨登 (dựng), 帶巨 (dưới),…
- Tổ hợp phụ âm [kn] có thể là kết quả của sự phát triển theo xu hướng mũi hóa của [kđ], trong văn bản có: > (no), 艮个 (nang), 巨囊 (nặng),…
Qua các tổ hợp phụ âm nêu trên ta nhận thấy ở đây có sự liên quan giữa các tổ hợp phụ âm [kb], [kđ] và [kn]. Ta thấy có sự tương quan giữa 2 quá trình song song của các cặp:
kb – km
kđ – kn
Ta giả định mối quan hệ này có thể được mô tả theo sơ đồ sau:
Kp----------kb----------b----------v
Km--------m----------m
Kt-----------kđ---------đ-----------d
Kn---------n------------n
Đây mới chỉ là những suy nghĩ ban đầu về các tổ hợp phụ âm kb, km, kđ, kn qua các dấu tích của chúng trong chữ Nôm. Chúng tôi hi vọng rằng cùng với các nguồn tư liệu khác, nguồn tư liệu từ chữ Nôm có thể góp phần làm rõ được bộ mặt của tiếng Việt ở giai đoạn thế kỷ XV về trước.
Chú thích:
1. Theo bảng thống kê của Nguyễn Tá Nhí Viện nghiên cứu Hán Nôm.
(*) Trường hợp này, yếu tố thứ nhất Giáo sư Nguyễn Tài Cẩn cho phải đọc là xa, ở đây sẽ là:
S (δ) năη > mắng. Theo Từ Nguyên, còn có âm là (cửu ngư thiết), chúng tôi chọn âm vì cho rằng đây là cách ghi yếu tố thứ nhất của tổ hợp phụ âm đầu [km]. Dùng âm cư của để ghi yếu tố thứ nhất của một số tổ hợp phụ âm đầu với [k*] khởi đầu đã từng thấy trong chữ Nôm, ví dụ trong [kl] thì [k*] được ghi bằng (cư), (cự), (cổ) như: (trái), 巨僚 (treo), 弄古 (trống), 略車 (trước),… (Quốc âm thi tập). Ngay cả trong Phật thuyết cũng thấy [k*] được ghi bằng (cá) như; (trăm), (trái), (trưa), (trẻ) và đặc biệt được ghi bằng 2 mã chữ như: (cá lung) = klông > trông. Từ trông trong Phật thuyết cũng được ghi bằng 2 mã chữ với (cư) ghi [k*] như 車籠 (cư lung) = klông > trông và dưới dạng 1 mã như 龍車(cư + long) = klông > trông. Chúng tôi thấy rằng [k*] đã được ghi bằng (cá), (cự), (cổ), (cự) đối với [kl] thì đối với [km] yếu tố thứ nhất [k*] cũng có thể được ghi bằng (cư) (xem thêm các ví dụ ở phần giới thiệu về tổ hợp phụ âm [km]).
(*)Âm kmòng chính là do áp lực của các âm [km] trong tiếng Việt vì mòng là từ hán (chốc mòng do từ chúc vọng (祝望) có nghĩa là: mong chờ, mong ngóng), chứng tỏ áp lực của [km] rất mạnh.
2. Bia không tên khắc năm 1343, đời Trần Dụ Tông.
3. Bia Thi tế bệnh điền bi, khắc năm 1385.
4. Tìm hiểu tiếng Việt lịch sử, Nxb. Giáo dục, 1993 - Nguyễn Ngọc San.
5. Ngữ âm lịch sử tiếng Việt (sơ thảo), Nxb. Giáo dục 1995 - Nguyễn Tài Cẩn.
Thông báo Hán Nôm học 1998 (tr.310-319)

Tuesday, 15 May 2012

Chồng tách vợ ly là sao?


Đây không phải là chồng uống (cà phê hay trà) bằng tách, vợ uống (nước) bằng ly, mỗi người một phách. Cũng không phải là vợ chồng chia lìa nhau (tách ra, ly dị, ly hôn, ly biệt...). Chồng tách (do tiếng Anh technician) và vợ ly (do tiếng Anh assembly worker) là kiểu gia đình Việt Nam thường gặp ở Mỹ những năm 80. Kiểu gia đình này hiện nay không phổ biến như mấy mươi năm về trước nữa. Do đó nảy sinh các cách hiểu khác của chồng tách vợ ly trên cơ sở đồng âm từ vựng.

Monday, 14 May 2012

Các cửa ô ở Hà Nội (Nguyễn Vinh Phúc)

CÁC CỬA Ô Ở HÀ NỘI
                                                                                    Nguyễn Vĩnh Phúc
 
 
Ô Cầu Dừa, Ô cầu Dền, Ô Quan Chưởng…
Đây hẳn là những “đặc sản” của Hà Nội, vì khắc các tỉnh thành nước ta chẳng nơi nào có các ô, các cửa ô. Nhất là các cửa ô đó lại đã từng đi vào sử sách. Ví dụ:
Đại Việt sử ký toàn thư, Bản kỷ, quyển XVII có đoạn chép: “Trịnh Tùng qua sông Tô lịch, đến cầu Nhân mục, đóng ở Gò Bán, chia tả quân một vạn đánh Cầu Dừa… hữu quân một vạn rưởi đánh Cầu Dền”… (Bản dịch của Viện sử học). Thượng kinh ký sự của Hải thượng Lãn Ông ở chương Vào phủ chúa có ghi: “Hôm sau quan văn thư theo đường bên tả qua Nhân Mục thẳng qua Hoàng Mai, theo Cầu Dền mà vào thành”. Sách Cổ tích và thắng cảnh thủ đô(bản dịch của Phan Võ) của Sở Bảo có viết về Ô quan Chưởng: “Ngày Pháp sinh sự đánh thành Hà Nội (20-11-1873) chúng đi qua cửa ô này. Viên chưởng cơ chỉ huy quân sĩ chống cự rất anh dũng và hy sinh tại đó. Vì vậy mới có tên gọi là Ô quan Chưởng”.
            Gần đây hơn, lại có một cửa ô đã chứng kiến tội ác của Thực dân Pháp khi chúng quay lại gây chiến năm 1946: tại ngã ba phố Hàng Bún hiện có tấm bia mang những dòng chữ: “khắc sâu căm thù thực dân xâm lược Pháp đã tàn sát đồng bào ta tại nơi đây ngày 17 tháng 12 năm 1946 mở đầu cuộc gây hấn của chúng ở Thủ đô Hà Nội”. Ngã ba đó chính là cửa Ô Thạch Khối ngày xưa. Vào mùa hè năm 1967, hai tên giặc lái Mỹ từ hai máy bay bị quân dân Hà Nội bắn tan đã rơi xuống chỗ ngôi nhà 71 phố Thụy Khuê, thì đấy cũng lại là cửa ô Thụy Chương đời trước.
            Còn như trong thơ ca văn nhạc thì các cửa ô nghiễm nhiên đã trở thành hình ảnh có tượng trưng cho Hà Nội từ lâu rồi. Vậy ô là gì? Cửa ô là gì? Tại sao lại có các cửa ô? và có từ bao giờ?.
 Dưới đây xin trình bày lần lượt về các vấn đề trên.
            Thực ra ngay bản thân cái danh từ “Ô” cũng đã là vấn đề hóc búa! Ô là tiếng Nôm hay tiếng Hán Việt? - trong tất cả những tiếng Hán Việt đọc là “ô” đều không có nghĩa nào phù hợp với thực tế các cửa ô nói trong sách cũ cũng như cửa ô Quan Chưởng còn sót lại kia. Tuy rằng các sách chữ Hán của ta có dùng chữ “ô môn” nhưng thực ra dịch ra đó là dịch chữ “cửa ô” chứ không phải là danh từ vốn có của từ vựng Hán Việt.
            Trong tiếng Nôm thì chữ ‘ô” có nhiều nghĩa. Nhưng xét ra chỉ có cái nghĩa ngăn là có phần phù hợp. Một ô là một ngăn. Ta vẫn thường nói “ô trầu”, “ô thuốc”… Phải chăng là vì các cửa này có những ô, những ngăn ở hai bên cửa chính (như cửa ô quan Chưởng) nên gọi chung là các cửa ô? (Hoặc có thể hiểu một cách đơn giản hơn là cửa có nhiều ô?). Vấn đề này cần nghiên cứu thêm về ngữ ngôn. Có điều đáng chú ý là từ vựng Hán Việt có chữ “ổ” hình như liên quan đến tiếng “ô”. Có thể tiếng nôm “ô” là do tiếng Hán - Việt “ổ” đọc chệch đi chăng?. Vì trong Từ nguyêntập sửu bộ Thổ trang 348 có chữ “ổ” với nghĩa là : “Ụ chắn nhỏ”. Ngoài các thôn xóm đắp đất làm ụ đề phòng giữ, gọi là ổ. Hậu Hán thư chép: Đổng Trác đắp ụ ở Mi, gọi là Vạn tuế ổ”.
            Kể ra cái cửa ô Quan Chưởng kia không phải là “Ụ chắn nhỏ” nhưng thực tế thì rõ là một công trình có ý nghĩa phòng giữ. Kiến trúc cửa ô đó có khác nào một cổng thành: tường khá dày, ba ô cửa xưa kia hẳn còn có cánh cửa khép mở, trên ô chính giữa có vọng lâu để nhìn xa, nhìn bao quát, phát huy tính năng của điểm cao. Xưa kia tại các cửa ô thường xuyên có lính gác, vì hiện nay ở cửa ô Quan Chưởng trên tường cửa chính còn có gắn một tấm bia đá niên hiệu Tự Đức thứ 34 (1882), ghi lệnh của ông Tổng đốc Hoàng Diệu cấm người canh cửa không được sách nhiễu dân khi đưa đám ma qua ô. Thời Lê Mạt cũng có lính gác các cửa ô. Hải Thượng Lãn Ông trong Thượng kinh ký sự có kể lại quang cảnh của ô Cầu Dền: …“thấy một thành đất, không cao lắm, cạnh có tường. Trên thành là đường xe ngựa đi. Ngoài là hàng rào tre. Dưới chân là hào sâu, có thả đầy chông. Thành có 3 vọng canh, nơi nào cũng có lính sắp hàng gươm dao sáng quắc”. Rõ ràng là các cửa ô có công dụng như các cổng thành, điều đó không nghi ngờ gì nữa. Có điều chúng thuộc về tòa thành nào? Có từ bao giờ?.
            Về câu hỏi thứ nhất, căn cứ vào hai bản đồ tỉnh thành Hà Nội dựng năm 1831 và 1866 - mà ông Trần Huy Bá vẽ lại, đem in trong Lịch sử thủ đô Hà Nội chúng ta có thể giải đáp dễ dàng. Đó là một tòa thành đất (gọi là lũy đất cũng được) có bốn mặt như sau: mặt phía Đông gần chung với đê sông Hồng, từ dốc Yên Phụ đến ngã ba đường Nguyễn Khoái - Lãng Yên, dài khoảng 6.000m. Mặt Nam thì tiếp đó, thành chạy sang ô Đông Mác rồi nối theo con đê lần lượt mang các tên đường Trần Khát Chân, Đại Cồ Việt, La thành, tới ngã ba Giảng Võ dài khoảng 5.000m. Từ ngã ba này thành chạy ngược theo đường Giảng Võ, qua bến ô tô Kim Mã, vượt đường Nguyễn Thái Học ra phố Ngọc Hà, chạy bao quanh phía sau núi Sưa (mà lâu nay thường gọi lầm là núi Khán) tới đầu dốc Hoàng Hoa Thám, dài khoảng 3.000m. Đó là mặt Tây. Còn mặt Bắc thì lại tiếp đấy chạy ngược đường Hoàng Hoa Thám ra đền Quan Thánh, noi theo đường Thanh niên để trở lại dốc Yên Phụ, dài khoảng 2.000m. Tổng cộng chu vi thành này là khoảng 16km.
            Trước đây nhiều người cho đó là thành Đại La của Cao Biền, đắp hồi thế kỷ thứ 9 (như các tác giả Bắc thành địa dư chí, C.Madrolle trong Bắc Đông Dương chỉ nam (Indochine du North - Guide), Nguyễn Bá Chính trong Hà Nội chỉ nam)).
            Ngày nay, tuy tập Lịch sử thủ đô Hà Nội của Viện sử học cũng như các báo đăng rải rác trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử (các số 9, 14, 15, 17, 68, 85, 91) đã bước đầu xác định vị trí thành Đại La nhưng trong thực tế, vẫn có đoạn đường mang tên là Đường La thành nên vẫn có thể gây ra sự hiểu nhầm, vẫn có thể có người xem toà thành đất bên trên là thành Đại La. Đến đây, xin phép nhắc lại những tòa thành cũ ở Hà Nội xưa mà sử gọi là La Thành, thành Đại La, thành Thăng Long… Thành Thăng Long đời Nguyễn thì nay ai cũng nhận ra được, nó gần trùng với những con đường Lý Nam Đế (Đông), Phan Đình Phùng (Bắc), Hùng Vương (Tây), Trần Phú (Nam). Bắc thành địa dư chí tờ 1a chép: “Năm Gia Long thứ 4 (1805) sai đắp thành chu vi 1958 tầm 2 thước 5 tấc” (một tầm bằng 8 thước, một thước khoảng 0m40). Vậy thành Thăng Long nhà Nguyễn chu vi khoảng 6.300m. Thành này lại không xê xích gì lắm so với thành Thăng Long thời Lê, vì hành cung của thời Nguyễn xây trên nền điện Kính thiên của thành nhà Lê (điện này cũng như hành cung đều phải xây ở vị trí trung tâm thành). Thành nhà Lê so với thành nhà Lý lại cũng không khác nhau, vì điện Kính thiên của nhà Lê lại xây trên nền đài chính điện của thành nhà Lý vốn là núi Nùng (Nùng sơn chính điện). Vậy mà khi Lý Thái Tổ dời đô ra Thăng Long (khi đó còn gọi là thành Đại La) thì ông cũng không xây thành mới mà dùng luôn thành Đại La của Cao Biền làm Hoàng thành. Thành Cao Biền này dù tính cả đê bọc bên ngoài cũng chỉ khoảng 6.500m là cùng (2125 trượng, mỗi trượng khoảng 3m10) nghĩa là cũng khoảng như thành nhà Nguyễn sau này đó thôi[1]. Vậy tòa thành đất nói ở bên trên kia với 16km chu vi rõ ràng không phải là Đại La thành của Cao Biền. Nó ra đời muộn hơn nhiều. Có lẽ từ đời Lý. Vì Cương mục, chính biên II, có ghi về năm 1014 như sau: “Đắp thành đất ở Thăng Long. Bốn bề xung quanh ngoài kinh thành đều sai đắp thành đất”. Nói là có lẽ, vì lời chép trên không chỉ định cụ thể vị trí và quy mô tòa thành ấy. Có thể hiểu đó là thành lũy ở vòng phía ngoài rộng hơn nữa, từ Nhật Tân qua Bưởi - Cầu Giấy - Ngã Tư sở - Ngã Tư Vọng - Ngã tư Trung hiền tới đê Vĩnh tuy mà nay vẫn còn là đường đi (trước kia Pháp gọi là Route Circulaire). Phải đợi đến thế kỷ 16 vấn đề mới rõ. Sử Toàn thư,Q.XVII có đoạn: “Mậu tý (1588) tháng 2, họ Mạc thấy quan quân (nhà Lê Trung hưng) ngày một mạnh, bèn bàn kế giữ (kinh đô). Hạ lệnh cho binh dân các huyện trong bốn trấn đắp thêm 3 lần lũy ngoài thành Đại La ở Thăng Long, bắt đầu từ phường Nhật chiêu vượt qua Hồ Tây, qua Cầu Dừa, qua Cầu Dền, đến Thanh trì, cao hơn thành Thăng Long vài trượng, rộng 25 trượng đào 3 lần hào, đều trồng tre, dài mấy mươi dặm bọc lấy ngoại thành”. Hồ Tây - Cầu Dừa - Cầu Dền - Thanh Trì, rõ là khớp với tòa thành đất còn thấy vẽ trong bản đồ năm 1831 nói ở bên trên. Như thế là ở bên ngoài tòa thành xây bằng gạch - là nơi ở của vua, hoàng gia và triều đình mà đoạn sử trên kia gọi bằng hai tên lẫn lộn là thành Đại La và thành Thăng Long - thì vua Mạc đã sai đắp một tòa thành ở bên ngoài có 3 lần lũy bằng đất, để che chở cho kinh thành Thăng Long (gần Hoàng thành và khu dân cư 36 phố phường). Và vậy thì rõ ràng là để kinh thành có thể thông với bên ngoài tất phải xẻ ra nhiều cửa. Cho nên vào năm 1592, khi Trịnh Tùng kéo quân ra đánh Thăng Long mới có việc vua Mạc cắt bọn Bùi Văn Khuê, Phan Ngạn “đem quân bốn vệ giữ Cửa Cầu Dừa, qua Cửa Cầu Muống, thẳng đến cửa Cầu Dền” (Toàn thư, Q.XVII).
            Điều đáng lưu ý là tuy có cửa nhưng chưa gọi là cửa ô. Phải đợi trăm rưởi năm sau danh từ này mới xuất hiện. Số là sau khi hạ được thành Thăng Long, trước khi rút về Thanh Hóa, Trịnh Tùng đã theo lời khuyên của hàng tướng nhà Mạc là Nguyễn Quyện, ra lệnh san phẳng tòa thành ngoài nọ (thực ra như vậy là Trịnh Tùng đã mắc mưu Nguyễn Quyện). Non trăm rưởi năm sau, cháu sáu đời của Trịnh Tùng là Doanh lại phải làm lại cái việc của nhà Mạc. Sử Cương mục, chính biên XL, có ghi ý kiến của Trịng Doanh khi y bảo quần thần: “Kinh sư là cội gốc của nước, cung miếu của triều đường, dinh thự của trăm quan đều ở đấy; thế mà đường ngõ bốn mặt đi lại thông thống, thành lũy không thể trông cậy… “Doanh đã hạ lệnh đắp lại thành đất bao quanh kinh thành, đặt tên là Đại độ. Cương mụcghi tiếp: “Khi đắp xong, mở 8 cửa, mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu, phân phối binh lính canh giữ…”. Việc này xảy ra năm 1749. Có lẽ danh từ cửa ô ra đời từ đây. Và như vậy tới giữa thế kỷ 18, Hà Nội có 8 cửa ô. Hình thù của chúng chắc không khác cửa ô Quan Chưởng còn lại đến ngày nay là mấy với cấu trúc “mỗi cửa đặt hai ô tả và hữu”. Có điều 8 cửa đó tên là gì và ở vào những chỗ nào so với bây giờ thì không rõ. Tuy nhiên đoạn sử trích lại ở trên cũng lưu lại ba tên: cửa Cầu Dừa, cửa cầu Muống, cửa Cầu Dền. Cầu Muống nằm ở giữa. Vậy mà hiện nay giữa Cầu Dền và Cầu Dừa là cửa ô Đồng Lầm (tên chữ Hán là Kim Liên, giáp giới làng Trung Phụng). Như vậy, cửa Cầu Muống ứng với cửa Đồng Lầm nay[2]. Vậy tòa thành đất vẽ trong bản đồ năm 1831 rõ ràng là thành cũ đắp từ đời Trịnh Doanh còn sót lại. Vì từ năm đắp thành (1749) đến năm dựng bản đồ (1831) trong sử không hề có ghi việc phá thành cũ hoặc đắp thành mới (Những việc này ngày xưa rất hệ trọng nên nếu có sử phải chép). Vả lại Đại Nam nhất thống chí,quyển Hà Nội còn chép rành rành: “Thành Đại La: Trương Bá Nghi đắp đời Đường Đại Hữu, sau Triệu Xương đắp thêm. Đời Đường Ý Tông Cao Biền đắp thêm, quanh co 1982 trượng, có 55 vọng lâu, 6 cửa tò vò, lâu năm đổ lở, không rõ ở chỗ nào. Nay phía ngoài tỉnh thành (Hà Nội) có lũy tre bao bọc bốn mặt hai huyện Thọ Xương và Vĩnh Thuận, có 12 cửa ô là xây đắp năm Cảnh Hưng thứ 10 chính là năm 1749. Chỉ khác một điều là tới năm 1831 thì thành đất đã mở ra tới 16 cửa ô, chứ không phải chỉ 8 cửa như Cương mục chép hoặc 12 cửa như Nhất thống chíchép[3].
            Một vấn đề cuối cùng: Hà Nội thực ra có bao nhiêu cửa ô? Giữa ô và cửa ô có gì khác nhau?.
            Nói “ô” (như ô Yên Phụ, ô Đống Mác) là nói tắt, thực ra phải nói cửa ô. Ví như nói ô Yên Phụ, ô Đồng Lầm là để chỉ những cửa ô xây ở làng Yên Phụ và làng Đồng Lầm. Hoặc nói ô Cầu Dền, hoặc Cầu Dừa là để chỉ các cửa ô xây ở cạnh Cầu Dền cạnh chợ Dừa (hoặc Cầu Dừa, cái cầu ở bên chợ, bắc ngang sông Kim Ngưu cũ).
            Hà Nội có bao nhiêu cửa ô?. Lời đáp không đơn giản vì số cửa ô tùy thuộc từng thời kỳ lịch sử. Đành rằng nhiều nhà văn nhà thơ cho Hà Nội có 5 cửa ô (ví dụ tập Hà Nội thơ in năm 1968 chẳng hạn: “khói đạn trắng trời năm cửa ô” (trang 35); “Những ngày vít giặc năm cửa ô” (trang 103). Nhưng đó là chuyện văn học, chuyện hư cấu. Bên trên đã nêu là vào năm 1749 Hà Nội có 8 cửa ô (hoặc 12 cửa ô) và có hai cửa còn lưu tên đến ngày nay; Cầu Dên, Cầu Dừa. Sau đó sách Bắc thành địa dư chí (tờ 3a) soạn vào những năm đầu thế kỷ XIX cho biết là Hà Nội có 21 cửa ô. Song cách này lại không kể đủ tên các ô đó. Phải đợi đến năm 1831 thì mới được ghi chép cụ thể. Trong bản đồ dựng năm này có ghi lại vị trí và tên gọi của 16 cửa ô. Đó là ô Yên Hoa nay là chỗ ngã ba đê Yên Phụ - đường Thanh Niên; ô Yên Tĩnh nay là chỗ ngã ba đê Yên Phụ - Cửa Bắc; ô Thạch Khối ở đầu dốc Yên Ninh; ô Phúc Lâm ở đầu phố Hàng Đậu; ô Đông Hà nay quen gọi là Ô Quan Chưởng; Ô Trừng Thanh ở đầu phố Hàng Chĩnh; Ô Mỹ Lộc ở vào ngã tư Hàng Mắm - Hàng Muối; ô Đông Yên nay là ngã tư Hàng Tre - Hàng Thùng; ô Tây Luông nay là khu Nhà hát lớn; ôNhân Hòa ở trước cửa viện Quân y 108 đường Trần Hưng Đạo; Ô Thanh Long nay quen gọi là ô Đông Mác, ô Yên Ninh tức là Ô Cầu Dền; Ô Kim Hoa tức Ô Đồng lầm, ở gần Ngã tư Đại Cồ Việt - Kim Liên; Ô Thịnh Quang tức là ô Chợ Dừa nay; ô Thanh Bảo nay ở vào khoảng bến ô tô Kim Mã và ô Thụy Chương nay ở vào khoảng đầu phố Thụy Khuê trên bờ Hồ Tây.
            Như vậy là vào khoảng những năm 30 của thế kỷ XIX, Hà Nội có 16 cửa ô như đã nêu trên.
            Nhưng đến năm 1866 thì thấy mất một cửa ô. Vì xem bản đồ Hà Nội dựng năm 1866 không còn cửa ô Nhân Hòa nữa. Và điều đáng chú ý là nhiều cửa ô đã mang tên mới: Yên Hòa thành Yên Phụ, Yên Tĩnh thành Yên Định, Thạch Khối thành Nghĩa Lập, Phúc Lâm thành Tiền Trung, Tây Luôngthành Trường Long, Thanh Lãng thành Lãng Yên, Yên Ninh thành Thịnh Yên, Kim Hoa thành Kim Liên, Thịnh Quang thành Thịnh Hào. Chín cửa ô đã đổi tên!. Và chỉ trong có ba chục năm! Nhưng không chỉ có thế, sự thay đổi ấy lại vẫn tiếp tục diễn ra, vì một bài vè xuất hiện sau đó mười lăm năm có những câu sau:
Mười năm ô đứng đường đường:
Yên Ninh,Yên Phụ, Thụy Chương một bề
Tiền Trung, Nghĩa Lập gần kề
Thanh Hà, Ưu Nghĩa dưới là Đông Yên
Cựu Lâu, Mỹ Lộc, Lương Yên
Thịnh Yên, Thanh Bảo, Kim Liên, Thịnh Hào[4].
            Vẫn 15 cửa, nhưng Yên Định lại đã thành ra Yên Ninh, Đông Hà thành Thanh Hà, Trừng Thanh thành Ưu Nghĩa, Trường Long thành Cựu Lâu và Lãng Yên thành Lương Yên. Có sự đổi thay như vậy là do chính các làng có cửa ô đã bị đổi tên. Có lẽ vì hay thay đổi sinh ra khó nhớ, lại dễ lẫn nên nhân dân cứ gọi theo thói tục là ô Hàng Đậu, ô Hàng Mắm, ô Quan Chưởng, ô Cầu Dền, ô Đống Mác… (về cửa ô này, có thuyết giải thích là ở đó, vào một thời xưa, có nhiều gò đống dáo mác hư hỏng nên nhân đó thành tên; có thuyết lại bảo là do chữ Ông Mạc đọc chệch ra. Cũng có thể, vì Toàn thư, Bản kỷ, quyển XVIII có chép: Tháng 11 năm Canh Tý (1600) Trịnh Tùng sai làm cầu phao qua sông Cái ở bến Ông Mạc. Phải chăng thời đó Lương Yên có tên là Ông Mạc?).
            Một điều đáng chú ý nữa là phần lớn cửa ô đều tập trung ở mặt Đông: 11 cửa, trong khi mặt Tây có 2 cửa, và mặt Nam có 3 cửa thôi. Đó là vì mặt Đông thông ra sông Hồng, là nơi tụ hội buôn bán đông đúc. Đặc biệt các làng, các phường ở mặt này đều buôn bán những mặt hàng hoặc gắn với sông nước, hoặc cồng kềnh chỉ có thể chuyên chỏ bằng thuyền bè: chiếu từ Ninh Bình, Thái Bình ra, muối từ Nam Định lên, mắm cá mắm tôm từ Thanh Nghệ tới,tre gỗ từ rừng về xuôi, đồ sành chum chĩnh từ Móng Cái, Thổ Hà…theo các triền sông mà đến và buồm cho mọi thuyền bè.
            Nhưng bên cạnh lý do kinh tế nói trên, mặt Đông với nhiều cửa ô như thế còn có một tầm quan trọng về quân sự. Hẳn rằng khi cho xẻ nhiều cửa ở mặt này, những người thiết kế thành lũy hồi xưa đã không quên các cuộc tấn công thành Thăng Long đều từ phía sông Hồng tràn vào mặt đông kinh thành. Một tòa thành, ở mặt xung yếu, có nhiều cửa thì lợi cả thế công lẫn thế thủ. Công thì có thể bất ngờ xuất quân cùng một lúc bằng nhiều cửa, đánh địch bằng nhiều lối, gây rối loạn cho bên địch. Mà thủ thì sách “Binh Thư yếu lược” mục Giữ thành (trang 273, bản dịch của Viện sử học) có viết rằng: “cách giữ thành chẳng những mở các cổng to, mà ở khoảng giữa hai cửa mở hai, ba cửa nữa cả quanh thành có vài mươi cửa, mỗi cửa đều cho chở thổ mộc từ trong thành ra ngoài, lấp hào làm đường cho quân ta ra vào không trở ngại…”. Ấy là chưa kể do có nhiều cửa thì việc thông tin liên lạc trong và ngoài tất là dễ dàng và thuận tiện hơn.
            Một chi tiết nữa cũng cần phải giải quyết: Vậy còn ô Cầu Giấy, thuộc về thành lũy nào mà chưa thấy nói tới? Chúng tôi cho rằng ô Cầu Giấy cũng vẫn ở tòa thành đất mà ta đang nói tới. Nó chính là cửa ô Thanh Bảo, tức là vào chỗ bến ô tô Kim Mã trên đường Nguyễn Thái Học bây giờ. ít lâu nay, ta vẫn lẫn lộn Cầu Giấy và Ô Cầu Giấy. Trước đây năm sáu chục năm người Hà Nội phân biệt hai địa điểm này rất rõ rệt. Chứng cứ: sách “Hà Nội chỉ nam” của Nguyễn Bá Chính, soạn năm 1923 (Trung Hoa xuất bản) ở trang 131 trong khi chỉ dẫn con đường đi Cầu Giấy có viết :”…xe điện đi khỏi Giám độ 600 thước Tây, khỏi ô Cầu giấy (ô Cầu Giấy và Cầu Giấy khác; đến ô Cầu Giấy rồi còn xa mới đến Cầu giấy) phía cạnh đường có mộ vua Phùng Hưng”… Giám nói trong đoạn văn nói trên là Văn Miếu ngày nay. Đi qua Văn Miếu 600m, qua Ô Cầu giấy là tới mộ Phùng Hưng. Vậy Ô cầu giấy đúng là bến ô tô Kim Mã ngày nay, tức là ô Thanh Bảo ở trên bản đồ năm 1831.
           
(Bài in trên Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 160 (1/1975), tr.60-65)


[1] Đây nói là thành Thăng Long với tư cách là thành nội và thành cấm. Vì ngoài thành nội, thành cấm này, các vua Lý và tiếp đó các vua Trần có phát triển quy mô Hoàng thành về phía Tây và di tích còn lại ngày nay là các lũy, các đê lần lượt mang tên Hoàng Hoa Thám, đê Bưởi - Cầu Giấy, đường Kim Mã.
[2] Ca dao cổ Hà Nội có câu:
                        Trên trời có cái cầu vồng
            Kẻ Chợ có Cầu Muống, Cầu Đông, Cầu Dền…
Ngày nay nhân dân ở làng Kim Liên còn cho biết cái cầu ở chỗ Ngã tư Đại Cồ Việt - Kim Liên trên đường Quốc lộ số 1 vốn xưa là cầu gỗ bắc qua sông Kim Ngưu và có tên là Cầu Muống, cũng như xứ đồng ở nơi này vẫn còn gọi tên là xứ Cầu Muống.
[3]Ô Quan Chưởng cứ tên khắc trên nóc cửa là “Đông Hà môn”. Cách giải thích của ông Sở Bảo về cái tên “Quan Chưởng”, ở phần đầu bài này có nói đến. Trần Huy Bá có đưa ra một cách giải thích khác: Khi xây cửa ô có một khách thương họ Quan tên Chưởng đã bỏ ra nhiều tiền ủng hộ, do đó dân phố tưởng lệ bằng cách ghép tên vào cửa ô (Báo Tổ Quốc, số 12 năm 1963). Về thời gian ra đời của cửa ô này, tấm bia ở đình Thanh Hà (nay mang số 10 phố Ngõ Gạch) dựng năm 1855 do Bùi Tú Lĩnh soạn có cho biết: “Nguyên xưa đình thờ thần xây ở đầu thôn, đến năm Gia Long Đinh Sửu (1817) mở làm cửa ô, ngôi đình thượng bị rỡ để mở đường, nên hương lão mới mời thày xem đất dời đến phía tả La thành …”.
Như vậy thì cửa Ô Quan chưởng này xây năm 1817 và ở vào chỗ đình làng Thanh Hà xưa. Điều nay khẳng định thêm một sự thật là từ lần đắp thành đất năm 1749 đến khi có bản đồ có cự mở mang thêm các cửa ô.
[4] Trích bài 17 trong Ca dao ngạn ngữ Hà Nội, Hội Văn nghệ Hà Nội xuất bản, 1971.

Sunday, 13 May 2012

Người Việt biết mua đồ xon từ khi nào?


Trong Tri Tân Tạp Chí số 5, Đào Duy Anh (1941:23) có liệt kê một số tiếng đọc sai nguyên âm (hiểu là: từ vay mượn tiếng Pháp, có sự biến đổi nguyên âm). Đó là các từ: xoong casserole, xon solde, cồn alcool, lốp enveloppe, rượu vang vin, phó-mát fromage, bồi boy. Như vậy người Việt đã phải làm quen với hàng xon trước năm 1941 đủ lâu để từ xon có thể được chấp nhận như một đơn vị từ vựng của tiếng Việt.