Thursday, 12 July 2012

Thần tượng là gì?


Câu 2 trong đề thi đại học môn văn, khối D năm 2012 "Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa nhưng mê muội thần tượng lại là một thảm họa” có nhiều chỗ nhảm nhí. Một trong những cái nhảm đó là giả định rằng có những từ ngữ được người ra đề, người làm bài và người chấm thi hiểu giống nhau, không sai chạy đi đâu được.
Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) không có thần tượng.
Vào quãng thời gian đó (đầu thế kỷ 20), thần tượng được mượn từ tiếng Hán với nghĩa là Di tượng của người chết (Đào Duy Anh, 2005:832)
Đến giữa những năm 60 ở miền Nam, nhiều từ điển ở miền Nam vẫn định nghĩa thần tượng khác với cách hiểu thông thường hiện nay. Đào Đăng Vỹ (1965:1263) ghi nhận hai nghĩa: tượng thần ( statue d’un génie) và ảnh người quá cố (portrait d’un défunt). Đến Thanh Nghị (1967b:1323), ta thấy có một sự biến chuyển quan trọng: nghĩa cơ bản của thần tượng vẫn là Tượng được tôn thờ như vị thần, nhưng có thêm nghĩa rộng là Người được tôn thờ, hoan nghênh như một vị thần; ghi chú tương đương tiếng Pháp là idole.
Nghĩa căn bản của Idole trong tiếng Pháp và idol trong tiếng Anh (tượng được tôn thờ như vị thần) trước đó đã được dịch là ngẫu tượng (Đào Duy Anh, 1950:810;. Nguyễn Văn Khôn, 1959:778) còn nghĩa mở rộng thì chưa có từ riêng mà chỉ được miêu tả dông dài là Người hay vật được người ta sùng bái, hoan nghinh. Thanh Nghị (1967a:760) dứt khoát dịch nghĩa căn bản của idolengẫu tượng và nghĩa bóng là thần tượng. Cái nghĩa bóng này hiện nay là nghĩa thông dụng nhất:
Thứ tượng của các vị thần; thường dùng để chỉ cái được tôn sùng, chiêm ngưỡng (Nguyễn Kim Thản, 2005:1503)
Tượng thần; thường dùng để ví cái được tôn sùng, chiêm ngưỡng. (Hoàng Phê, 2006:926)
Một từ điển còn ghi nhận tất cả các nghĩa của thần tượng trong lịch sử là Đại Từ Điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (1999:1545):
1. Hình hoặc ảnh người đã chết. 2. Hình một đấng thiêng liêng được tôn sùng. 3. Người hay vật được đề cao, tôn sùng.
Nghĩa thứ ba trong từ điển Nguyễn Như Ý chính là cái nghĩa thường dùng nhất hiện nay, áp dụng cho chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được mà dùng để chi Maria Ozawa cũng không sai vì cái danh hiệu Japanese AV Idol hiện nay chỉ có thể dịch ra tiếng Việt là thần tượng phim người lớn Nhật Bản. Ngưỡng mộ thần tượng Maria Ozawa có đương nhiên là nét đẹp văn hóa không? Người ra đề có lường trước chuyện thí sinh đặt vấn đề mê muội thần tượng Hồ Chí Minh không?
Sau cùng, nếu thí sinh chọn nghĩa 1 hay nghĩa 2 của thần tượng trong từ điển Nguyễn Như Ý (1999), tức là nghĩa căn bản của các từ điển Nguyễn Kim Thản (2005), Hoàng Phê (2006), để làm bài thì có bị xem là hiểu sai đề không? Ai bảo là sai? Tại sao sai?

Wednesday, 11 July 2012

Là hai hay là một?



Từ điển Nguyễn Kim Thản (2005:1834) có xạc (vị từ khẩu ngữ) nghĩa là mắng gay gắt.
Nguyễn Kim Thản (2005:1372) cũng có vị từ sạc, gốc Pháp charger và có nghĩa là nạp điện. Sạc này còn có nghĩa thứ hai dùng trong khẩu ngữ là quát mắng, phê bình nặng nề.

Hợp lý hơn có lẽ nên xem:
Sạc (gốc Pháp là charger) chỉ có một nghĩa là nạp:
Cái bình hơi 12kg được nối với máy tàu để sạc hơi. (Quốc Việt, 2006:17).
 Sạc với nghĩa này thỉnh thoảng bị viết thành xạc:
 Ông Trình ngập ngừng, lộ vẻ không cần, nhưng mắt không rời chiếc máy để trong cái hộp giấy, có tai nghe nho nhỏ, xinh xinh, bộ đồ xạc pin chỉ bằng nửa củ khoai tây.  (Lê Thành Chơn, 2005:730)

Trong khi đó xạc, gốc Pháp là sacrer, chỉ có một nghĩa là quát mắng:
Tôi vừa gọi bà Xinh lên xạc cho một trận. (Lê Thành Chơn, 2005:199)
Xạc với nghĩa này thỉnh thoảng bị viết thành sạc:
Đừng để nó chạy mất, về cao ủy sạc thấy mẹ. (Hoàng Chính, 1994:94)
Đây là lý do vì sao mục từ sạc trong từ điển của Nguyễn Kim Thản 2005 có hai nghĩa không liên quan gì với nhau.

Hợp lý hơn cả có lẽ nên xây dựng hai mục từ sạc, mỗi mục từ đều có biến thể là xạc, không nhất thiết phải phân biệt sạc (charger) với xạc (sacrer). Người Việt vẫn viết không phân biệt các từ gốc Pháp lò xo / lò so (ressort), sà lan / xà lan (chaland), sà lúp / xà lúp (chaloupe), su chiêng / xu chiêng (soutien-gorge), súp / xúp (soupe)... 

Tuesday, 10 July 2012

Ai dám gọi lịch sử là con điếm?

Lục tung Google chỉ tìm được một trang có câu này: Lịch sử là con điếm mà các chính khách ôm ngủ hằng đêm. Tác giả khoe là trích dẫn Napoléon Bonaparte. Lại lục tung tổng tập Napoléon Bonaparte (5 quyển), nhưng không tìm thấy câu nào như vậy. Mấy quyển Dictionnaire des Citations chỉ dẫn một câu có ý nghĩa rất khác với câu đã dẫn trên đây ( L'histoire est une suite de mensonges sur lesquels on est d'accord). Ai biết được nguồn gốc của việc lịch sử trở thành con điếm, xin chỉ giúp và sẽ có hậu tạ.

Monday, 9 July 2012

Ông Bùi Trọng Liễu muốn chờ đợi đến bao giờ?


Ông Bùi Trọng Liễu trong bài Có nên trả cho tên gọi “tiến sĩ” vị trí cũ của nó (http://www.diendan.org/phe-binh-nghien-cuu/tien-si-xua-va-nay/) cho rằng dịch docteur sang tiếng Việt thành tiến sĩkhông biết thực chất cái học vị docteur là gì:
Tên gọi tiến sĩ (Hán học) tồn tại đến năm 1919 (Khải Định năm thứ 4), khoa thi hội thi đình Hán học cuối cùng triều Nguyễn dưới thời Pháp thuộc; Hán học chấm dứt từ đó. Sau đó, một số người Việt Nam sang Pháp du học, rồi làm luận án, bảo vệ để có được học vị “docteur” (trong các ngành không phải là Y): học vị đó, vào những khoảng năm 1920, 30 trở đi được dịch là “tiến sĩ” (trong ngành Y thì dịch là “bác sĩ”), có lẽ vì với một số người Việt Nam, đó là tên gọi học vị cao nhất. Vì trót dịch như thế rồi, thì thành ra thói quen, chứ trên thực tế, cách học, cách đào tạo, tiến hành thi cử hoàn toàn không có gì liên quan với nhau cả.
Sự ngộ nhận nếu có, không phải là đối với người Việt Nam và cũng không phải đến những năm 1920, 30 mới xảy ra. Génibrel (1898:753) đã dịch tiến sĩ docteur. Trước đó, Le Grand de la Liraye (1868:145) thì ghi tiến shĩ / tấn shĩdocteur. Trước đó nữa Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị in năm 1838 dịch tiến sĩ sang tiếng La Tinh là doctor (Taberd, 2004:518) Lúc đó chưa người Việt nào nhìn thấy mặt mũi cái bằng doctorat ra sao. Các ông Tây thế kỷ 19 thừa biết tiến sĩ Việt khác với docteur Tây, nhưng họ đã tham khảo học chế của nhiều nước trong khu vực để xem tiến sĩ tương đương với docteur chứ không phải là licencié hay agrégé hay bất cứ cái gì khác.
Sự ngộ nhận chỉ xảy ra ở người ít học, ít chịu tìm hiểu đến nơi đến chốn, nhất định đem cái hiểu biết hạn hẹp của mình ra dạy khôn cho thiên hạ, vừa dạy vừa kêu trong khi chờ đợi một sự thay đổi, tôi vẫn phải dùng từ ngữ như hiện nay, dù nó phi lý. Người trong nước không ngu si đến nỗi đụng đâu thay đó mỗi khi một vị khoa bảng Việt kiều thắc mắc về từ ngữ mà không biết hỏi ai, đọc sách nào.
Ông Bùi Trọng Liễu làm ra vẻ rất nghiêm túc:
Tôi đặt câu hỏi và không có ý “kiến nghị tiếu lâm”, vì phải vô trách nhiệm lắm mới đem việc trọng đại của dân tộc (giáo dục đào tạo) ra làm chuyện đùa bỡn, trong cách phát biểu, hay hơn thế nữa, trong cách tiến hành.
Không kiến nghị tiếu lâm, không vô trách nhiệm thì là gì?

Sunday, 8 July 2012

Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba... ngáo ộp ! (Nguyễn Dư)

Nhất quỷ, nhì ma, thứ ba... ngáo ộp ! (Nguyễn Dư)

Ngày xửa ngày xưa. Ôi ! Cái thời... loanh quanh ở nhà với mẹ. Biết ngày nào khôn ? Khôn hay dại thì phải chờ hỏi cụ Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trẻ con làm sao biết được. Trước mắt chỉ nghe mẹ quát :- Trẻ con đi chỗ khác chơi!
Đi đâu mẹ ơi ? Cái phòng vừa làm buồng ngủ, vừa làm chỗ ăn, chỗ tiếp khách, chỗ học bài, làm gì còn chỗ để chơi. Cái sân, cái bếp thì hai ba gia đình chung đụng. Người vào, người ra từ sáng đến chiều... Chỉ có ngoài đường mới vắng vẻ. Cây to bóng mát. Năm 1948, 1949, phố Bà Triệu rộng thênh thang ! Dăm ba cái xe đạp, xe xích lô đủng đỉnh qua lại. Thỉnh thoảng mới có một cái ô-tô nhà binh, hay cái " bình bịch " hiến binh Pháp, một mình một chợ, phóng ầm ầm. Hè phố Hà Nội của mấy năm mới hồi cư còn rộng rãi, quang đãng, sạch sẽ. Trẻ con chơi đùa... như chỗ không người.
Thằng con chợt hiểu ám hiệu của mẹ. Cám ơn mẹ. Giờ tháo cũi xổ lồng đã điểm. Hỡi đám tiểu yêu hè phố đang chờ ta... Ta cùng nhau đi... lêu lổng cho vui. Nhưng này, " hỡi các cậu bé con, trong lúc tuổi còn non", các cậu phải coi chừng. Không được lêu lổng... vô trật tự, hỗn quân hỗn quan. Lêu lổng cũng phải kết bè, chia phe cho đàng hoàng. Rồi lại phải cãi nhau chí choé chọn trò chơi. Đánh đáo, bắn bi, bịt mắt bắt dê, lò cò là lêu lổng của đám đàn anh, đàn chị. Những tay anh chị đã từng được đào tạo, rèn luyện ở trường này, trường nọ. Tay nào cũng xuất sắc, chơi giỏi hơn học. Còn bọn hỉ mũi chưa sạch, chưa biết i tờ là cái quái gì thì quanh đi quẩn lại chỉ có hú tim, chạy đuổi, hò hét. Đàn em lêu lổng không cần phải đến trường. Chẳng cần tinh mắt, khéo tay. Cứ ồn ào như vỡ chợ là được rồi. Nào, ta cùng nhau chơi đùa...
1) Ngáo Ộp

Ngáo Ộp là ai, là cái gì ? Đừng thắc mắc phí thời giờ. Cứ chơi đi. Chơi xong rồi thắc mắc cũng chưa muộn. Mau mau bắt cái xem đứa nào phải làm Ngáo Ộp nào. Mau lên !
Đứa làm Ngáo Ộp cho hai ngón tay giữa vào miệng, kéo xệch về phía mang tai...

- Đằng ấy rửa tay chưa?
... dùng hai ngón tay trỏ kéo vành mắt xuống Kéo cho lòi tròng trắng mắt...
- Hèn gì mắt đằng ấy lúc nào cũng có dử.
... miệng há hốc, thở phì phì như người say rượu.
- Đằng ấy sún răng từ bao giờ vậy ?
Ngáo Ộp là một con yêu méo mồm, mắt trợn ngược, gầm gừ đi bắt trẻ con. Ai trông thấy mà chả sợ. Thế là cả bọn hét rú lên, chạy tán loạn. Tìm gốc cây mà nấp cho mau. Đứa nào bị Ngáo Ộp bắt thì phải làm Ngáo Ộp. Cứ thế mà chơi, chán thì thôi.
Ngáo Ộp là cụ nào, ông nào mà đến trẻ con chưa biết gì cũng phải sợ vậy ? Xin nhờ người lớn trả lời giùm.
Từ điển xưa của ta, của tây không có Ngáo Ộp. Chỉ có Ngáo thôi.
Tự điển Huỳnh Tịnh Của (1896) cho biết Ngáo là tên riêng một người mạnh mẽ đời xưa, lấy lưng đỡ nổi một chiếc thuyền, thường hiểu ra nghĩa ngơ ngáo, lảng lơ, như ngốc như dại. Thằng ngáo là thằng ngốc.
Thằng ngáo của Huỳnh Tịnh Của không đáng để trẻ con phải sợ. Ngáo này không phải là Ngáo Ộp.
Tự điển Génibrel (1898) có nhiều từ Ngáo. Nhưng không có từ nào dính dáng đến người hay yêu tinh, ma quỷ.
Tự điển Jean Bonet (1900) định nghĩa Ngáo là nhân vật thô lỗ (personnage grossier), ngốc (sans esprit, sans raison), dã man (brute). Ngáo của Bonet vẫn chưa phải là Ngáo Ộp.
Cả 3 cuốn tự điển xưa này đều không có nhân vật nào tên là Ộp hay Ngáo Ộp.
Mấy chục năm sau, Việt Nam tự điển của Khai Trí Tiến Đức (1931), Tự điểnViệt Nam của Nhà Sách Khai Trí (1971) đưa ra định nghĩa mới : Ngoáo là vật tưởng tượng đặt ra để doạ trẻ con. Riêng Tự điển Việt Nam còn nói thêm Ngoáo ộp  là ngoáo lớn.
Thế là lại thêm một thắc mắc khác. Nếu Ngoáo Ộp là ngoáo lớn thì phải gọi ngoáo con là gì? Gọi là lũ... ngổ ngáo chăng ? Ngoáo Ộp to con nhưng bị khập khiễng, đứng không vững. Tuy vậy, Khai Trí cũng đã có công đưa Ngoáo Ộp vào tự điển, mở đường cho sau này.
Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (1988) cho biết Ngoáo Ộp là tên gọi một quái vật bịa ra để doạ trẻ con ; thường dùng để ví vật đưa ra để doạ dẫm, uy hiếp tinh thần.
Phải công nhận một điều là người lớn " chơi " chưa lại trẻ con. Người lớn " chậm tiến " quá. Trẻ con Hà Nội biết Ngáo Ộp từ ngày xửa ngày xưa.
Trở lại nguồn gốc của Ngáo Ộp.
Truyện cổ tích của ta, của Tàu không có nhân vật này. Thế nhưng, bộ tranh dân gian Oger (Hà Nội, 1909) lại có tấmNgáo Ộp doạ trẻ. Chẳng lẽ Ngáo Ộp lại là Tây à ? Nghi ngờ, thắc mắc, biết hỏi ai bây giờ ? Có người mách thử hỏi ông Tây Charles Perrault (1628-1703), tác giả của nhiều truyện nổi tiếng như Cô bé quàng khăn đỏ (Le petit Chaperon Rouge), Cô bé lọ lem (Cendrillon), Thằng bé tí hon (Le Petit Poucet), Yêu Râu Xanh (Barbe-Bleue), v.v. Đọc truyện của Perrault mới vỡ lẽ. À, thì ra thế !
Thằng bé tí hon kể truyện một gia đình tiều phu nghèo, sinh được bảy đứa con trai. Thằng út thông minh nhất nhà. Nhưng thân hình thì thấp bé tí hon. Nhà nghèo quá, không nuôi nổi đàn con, vợ chồng bác tiều phu quyết định đem bỏ chúng trong rừng. Một hôm anh em thằng bé tí hon đến gõ cửa một nhà kia để xin ăn. Không ngờ rơi vào nhà của một cặp yêu tinh và bảy cô con gái yêu. Cả nhà ai cũng thích ăn thịt tươi. Nhất là... thịt trẻ con. Thằng bé tí hon phải dùng mưu mẹo mới cứu được mấy anh em. Nó còn lấy được đôi hia bảy dặm và vàng bạc của yêu tinh.
Bảy anh em tìm trở về nhà cha mẹ. Vợ chồng con cái bác tiều phu lại được đoàn tụ. Bắt đầu một cuộc sống sung túc.
Yêu tinh ăn thịt trẻ con của truyện Thằng bé tí hon tiếng Pháp gọi là Ogre (Ô-gờ-rờ). Ogre theo chân thực dân sang Việt Nam, được Việt hoá thành Ộp.
Đúng ra thì Ngáo của ta và Ộp của tây là hai nhân vật khác nhau. Tiếng Việt đã có sẵn thằng ngáo, thằng ngố, thằng ngốc. Ộp sinh sau đẻ muộn nhưng là... con tây, nên không bị gọi là thằng Ộp. Trái lại, người ta ghép Ngáo (hay Ngoáo) với Ộp thành ông Ngáo Ộp.
Trẻ con quen gọi là Ông Áo Ộp.

2) Mẹ Mìn
Tiếng Việt không có Bà Ngáo Ộp (Ogresse). Bù lại, tiếng Việt có Mẹ Mìn.Ngày xưa, thời Pháp cai trị nước ta. " Nạn mẹ mìn ghê sợ. Trẻ ra chơi bờ hè, nhất là con gái hay bị bắt đem bán ở Móng-Cáy hay Hạ-Long. Nó dùng cả thuốc mê bắt phụ nữ ". (Hoàng Đạo Thuý, Thăng Long, Đông Đô, Hà Nội, Hội Văn Nghệ Hà Nội, 1971, tr. 79).
Ngáo Ộp (Ogre) là yêu tinh ăn thịt trẻ con. Yêu tinh chỉ đi bắt trẻ con nhưng không ăn thịt thì tiếng Pháp gọi là Croque-mitaineCroque-mitaine được Việt hoá và rút gọn thành Mìn. Đàn bà đi bắt trẻ con là Mẹ Mìn.
Gustave Hue định nghĩa lẫn lộn Ngáo ộp là croquemitaine. Hãi như trẻ con trông thấy ngáo ộp (épouvanté comme des enfants qui voient un croquemitaine).
Thời nào yêu ma ấy. Thời Pháp, Mẹ Mìn bắt trẻ con, phụ nữ. Thời kinh tế thị trường, Mẹ Mìn phải nhường chỗ cho Má MìMá Mì " khôn " hơn Mẹ Mìn, chỉ bắt con gái lớn, có khả năng hành nghề. Lao động bất kể ngày đêm.
Chồng của Má Mì là Ma Cô (maquereau). Cặp yêu ma này chuyên bắt con tin (teen). Dạy nghề đấu hót (hot), tiếp khách. Thôi mà thầy Hai. Xếch (sex) mé hoài ! Mời thầy vô chơi.

3) Ba Bị

Yêu Râu Xanh (Barbe-Bleue) là một đại gia, có bộ râu quai nón màu xanh. Xấu xí khủng khiếp.Xấu xí nhưng lúc nào cũng có em chỉ mong được " hoàng tử đẹp trai " rước về làm vợ. Hi vọng được hưởng cái gia tài kếch sù kia. Nhưng phiền một nỗi là em nào về làm vợ hắn cũng chỉ được một thời gian ngắn là mất tích... Cho đến một ngày kia, cô vợ trẻ sau cùng khám phá ra một căn phòng bí mật của lâu đài chứa ngổn ngang xác chết đàn bà... Sắp đến lượt em... chết bỏ mẹ, bỏ cha rồi anh Hai ơi. Cứu em với ! Hồi hộp, gay cấn. Người kể bắt đầu nổi da gà. Xin tạm ngưng. Có dịp sẽ kể tiếp...
Pháp có Barbe-Bleue. Việt Nam có Ba Bị.
- Ba bị : tên gọi một người có hình thù quái dị bịa ra để dọa trẻ con. Xấu xí, tồi tàn : bộ quần áo ba bị. Thiếu nhân cách, lăng nhăng, chẳng ra gì. Anh chàng ba bị, đồ ba bị (Hoàng Phê).
- Ba bị : Giống quái lạ người ta bịa ra để doạ trẻ con : Ba bị chín quai mười hai con mắt : nghĩa bóng là tồi tàn, xấu xí : đồ ba bị. (Khai Trí Tiến Đức).
- Ba bị chín quai mười hai con mắt : Tả một con ngáo ộp để doạ trẻ con (Nguyễn Lân, Từ điển thành ngữ và tục ngữ Việt Nam,1989).
Ba Bị của Việt Nam cũng có hình thù quái dị, xấu xí. Ông Ba Bị của tranh Oger cũng có râu quai nón. Barbe-Bleue và Ba Bị giống nhau như anh em sinh đôi. Thì ra, Barbe-Bleue của Perrault đã nhập tịch Việt Nam, lấy tên Việt là Ba Bị.
Ngày xưa bên nước Lang Sa
Có chàng Ba Bị xấu là xấu ơi !
Thế mà nhiều gái mê tơi
Hiến dâng... tưởng được của rơi, của chìm !
Không hiểu tại sao các bà các cô lại đẩy người tình Barbe-Bleue râu ria, lông lá của mình sang cho đám trẻ con ? Đem ông Ba Bị ra làm cái bung xung doạ trẻ con. Ba bị chín quai mười hai con mắt hay bắt trẻ con. Thật ra, Ba Bị không hề bắt trẻ con mà chỉ bắt mấy con nai tơ " nghèo mà ham ". Mơ mộng được đạp trên " vàng lá " rơi đầy sân lâu đài.Tuy nhiên, định doạ trẻ con nhưng chính người lớn lại bị rơi vào mê hồn trận. Nhiều người tìm cách giải thích câu nói vu vơ Ba bị chín quai mười hai con mắt hay bắt trẻ con. Dĩ nhiên là càng giảng giải, càng sai. Sai lầm thứ nhất là tách Ba Bị(tên riêng) thành hai từ : ba (số 3) và bị (cái túi, cái giỏ). Sai lầm thứ nhì là cố bóp méo sự thật cho... phù hợp với câu nói không có nghĩa. Génibrel giải thích : Bị chín quai là bị của ăn mày (besace du mendiant). Mang bị chín quai nghĩa là đi ăn mày (aller mendier). Gustave Hue cũng đồng ý rằng Ông ba bị chín quai là... ông già đeo 3 cái bị chín quai (le vieux aux trois sacs et neuf anses).
Nước ta không có bị chín quai. Tranh Oger có nhiều tấm vẽ ăn mày. Bị của ăn mày là bị thông thường, chỉ có một quai. Tranh Ông Ba Bị vẽ một người râu xồm, đeo 3 cái bị một quai. Oger gọi Ông Ba Bị là Ogre (quái vật thích ăn thịt trẻ con trong truyện Thằng bé tí hon).
Các từ điển của ta không rơi vào cái bị 9 quai nhưng thỉnh thoảng cũng bị lúng túng vì câu nói vu vơ.
Không ngờ Thằng bé tí hon và Yêu Râu Xanh của Pháp lại chơi thân với trẻ con Việt Nam đến như vậy. Mấy anh lớn thích chơi bi (billes), mấy chị lớn thích chơi bịt mắt bắt dê (colin-maillard) , lò cò (marelle). Trẻ con Hà Nội năm xưa chơi đùa như... Tây con !
***
Tôi vốn yếu bóng vía.Thuở bé sợ Ngáo Ộp, Ba Bị, Mẹ Mìn. Sợ... yêu Tây. Sợ cả ma xó, quỷ nhập tràng. Nghĩa là sợ cả... yêu ta. Sợ toàn những cái mắt chưa thấy bao giờ.
Lớn lên, bố mẹ cho đi tây ăn học. Ăn và học. Phải bớt ăn mới có thì giờ học. Dạ vâng. Dạ dạ, vâng vâng như vậy nhưng ăn thì luôn nhớ, học thì hay quên. Dù sao thì đi tây cũng là một dịp được học ăn học nói, tập tành bạo dạn hơn lên. Hết sợ yêu. Tưởng là yên thân. Không ngờ bây giờ, tự dưng lại đổ đốn. Đôi lúc... sợ người ! Sợ cái khoảnh khắc hoang mang, rờn rợn. Nhìn trời, trời chạng vạng, nhá nhem. Các cụ gọi là lúc " nhọ mặt người ".
Nguyễn Dư
(Lyon, 8/2011)

Mạt hạng là gì?


Mạt chữ Hán là , nghĩa căn bản là cái ngọn. Từ nghĩa này sinh ra nhiều nghĩa khác, trong số đó có nghĩa cuối cùng / chót hết trong mạt hạng  (hạng cuối cùng), mạt kiếp (kiếp cuối cùng), mạt thế (đời cuối cùng), mạt lộ (đường cùng), mạt vận (vận cuối)... Một số người miền Nam thường viết nhầm mạt hạng thành mạc hạng, phần vì không nhận thức được rõ ràng nghĩa của từ Hán Việt, phần vì âm [k] cuối âm tiết thường được thể hiện bằng chữ c.

Saturday, 7 July 2012

VĂN HOÁ HÔN NHÂN NHÌN TỪ GÓC ĐỘ TỪ NGUYÊN HỌC VĂN HOÁ (Võ Minh Hải)


Theo Lễ kinh 禮經, hôn nhân là một trong 04 nghi lễ quan trọng của đời người. Đó là Quan, Hôn, Tang, Tế. Quán 冠 là lễ gia quan (đội mũ), biểu thị sự trưởng thành của nam nhân, bởi lẽ ngày xưa con trai hai mươi tuổi thì phải làm lễ đội mũ. Vì thế, theo Thiều Chửu trong Hán Việt tự điển, con trai trong hai mươi tuổi còn gọi là nhược quan 弱冠.Hôn 婚 (tức nghi lễ thành gia lập thất, duy trì lễ pháp tông đường), Tang 喪 là nghi lễ kết thúc chu trình vòng đời một con người và Tế 祭 là nghi lễ tôn thiên kính địa, lễ bái tiền nhân, tổ tiên của dòng họ, đây là một sự việc cực kỳ trọng đại và liên quan trực tiếp đến đời sống tâm linh của con người. Trong chu trình của một đời người, 04 nghi lễ này đánh dấu sự trưởng thành của con người xã hội. Trong bài viết này, chúng tôi chỉ tìm hiểu và lý giải nguồn gốc nghi lễ thứ hai của hai từ góc độ từ nguyên văn hoá.
Trong văn tự cổ Trung Hoa, hai chữ Hôn nhân 婚姻 vốn trước đây được viết không có bộ Nữ 女, bộ thủ này là do người đời sau thêm vào để nhằm giải thích rõ hơn ý nghĩa nội hàm của nó. Trịnh Huyền 鄭 玄, một học giả đời Hán 漢, khi chú thích sách Nghi Lễ 儀禮, thiên Sĩ Hôn Lễ 士 婚禮 đã viết:“ Sĩ thú thê chi lễ dĩ hôn vi kỳ. Nhân nhi danh yên 士娶妻之禮以昏為期因而名焉 (Lễ kết hôn của kẻ sĩ, lấy buổi hoàng hôn làm thời gian. Nhân đó mới đặt tên là Hôn). Hứa Thận 許慎, nhà văn tự, từ nguyên học cổ đại đời Hán 漢, khi soạn bộ Thuyết văn giải tự 說文解字ngay tại mục chữ Hôn 婚, ông cũng cho rằng: “Thú phụ dĩ hôn thời, cố viết Hôn, tùng nữ tùng hôn  娶 婦 以 昏 時 故 曰 婚 從 女 從 昏…” (Lễ kết hôn lấy buổi hoàng hôn làm thời gian tổ chức nên gọi là Hôn, có chữ hôn và chữ nữ). 
Theo các tài liệu khảo chứng về văn hoá cổ đại Trung Hoa, chúng ta có thể nhận biết rằng trong quá khứ, suốt một thời kỳ dài, nghi thức hôn thú đều lấy thời điểm hoàng hôn làm thời gian tổ chức. Ở một số vùng nông thôn, vùng sâu vùng xa ở Trung Quốc ngày nay vẫn còn giữ tập tục cổ xưa đó. Như vậy, hôn lễ vì sao lại tổ chức vào lúc hoàng hôn? Các nhà nghiên cứu văn hoá Trung Quốc về cơ bản đều căn cứ vào học thuyết Âm – Dương để giải thích tất cả các vấn đề. Họ cho rằng muôn vật trong vũ trụ đều có sự thống nhất trong sự đối lập và khái quát thành hai khái niệm cơ bản là Âm 陰 và Dương 陽.  Địa 地 (Đất) là âm, thiên 天 (trời) là dương, Nguyệt 月 (mặt trăng) là âm, Nhật 日 (mặt trời) là dương, Dạ 夜 (ban đêm) là âm, Trú 晝 (ban ngày) là dương, nữ 女 là âm và nam 男 là dương. Theo quan niệm cổ xưa, hoàng hôn là lúc mặt trời lặn xuống núi, mặt trăng bắt đầu mọc lên. Ban ngày sắp hết, màn đêm bắt đầu buông xuống và đó cũng chính là lúc âm dương giao hòa với nhau. Cử hành hôn lễ vào lúc này và việc chọn thời điểm âm dương tương giao, hài hòa với nhau là hoàn toàn hợp lý.
Qua khảo cứu thực tế trong thư tịch, chúng tôi cho rằng phương thức giải thích như trên cũng chỉ là một trong số khá nhiều cách lý giải, biện minh cho hiện tượng “Hôn thời hành lễ 昏時行禮” (Tổ chức hôn lễ vào buổi hoàng hôn) của người xưa. Bởi lẽ, bản thân hiện tượng lịch sử này còn mang những nội hàm văn hoá và tư tưởng khác, trước hết nó góp phần phản ánh một tập tục đã có từ rất lâu đời. Thứ đến, nó còn có một nguyên nhân sâu xa khác từ tục cướp hôn có từ xa xưa, do nam nữ không cùng một tập đoàn mà kết hôn với nhau. Ban đầu, người con trai “bị gả” (Giá 嫁) cho thị tộc của cô gái, trở thành thành viên của thị tộc đó. Cả nam và nữ đều mang họ mẹ, và sau khi chết đi mới được đem táng ở nghĩa địa của thị tộc cũ của mình. Các nhà khảo cổ học Trung Quốc, khi khảo sát các di chỉ cổ đã phát hiện, nghĩa địa của thị tộc có hai khu rõ rệt : một khu dành cho nữ giới, một khu dành cho nam giới, ngay cả anh chị em trong một gia đình với nhau cũng không được chôn kề nhau, con gái đã xuất giá sau khi chết cũng không được chôn cùng với chồng mà phải chôn riêng ở nghĩa địa của thị tộc. Khi xã hội nguyên thủy từ thị tộc mẫu hệ quá độ sang thị tộc phụ hệ, lễ tục hôn nhân cũng có sự biến chuyển, thay đổi. Tập tục con trai sang ở rể nhà con gái đã chuyển sang tục mới là đem cô dâu sang nhà trai và có lẽ ngay lúc đó đã vấp phải sự phản ứng của phụ nữ nên mới sinh ra tục “đoạt hôn 奪婚”.
Nghi thức hôn lễ được tổ chức vào lúc hoàng hôn vì trời lúc này bắt đầu nhá nhem tối, ánh sáng không còn rõ nên rất tiện cho việc cướp cô dâu. Chữ Thú 娶(lấy vợ) vốn có nghĩa là Thủ 取 (nhận lấy, cướp lấy). Chữ này vốn được viết từ một chữ hựu  (cánh tay) và chữ Nhĩ  (cái tai). Đó là dấu hiệu văn tự phản ánh hiện tượng bịt tai (tức là không nghe những lời của nhà gái) mà cướp hôn. Sách Thuyết văn giải tự, khi bàn về chữ Thú cũng có viết:“Thú phụ dã, tòng nữ tòng thủ娶婦也從女從取 (chữ thú trong từ giá thú, có chữ nữ và chữ thủ). Căn cứ vào tài liệu trên, chúng ta có thể ước đoán rằng, hôn nhân đối ngẫu ra đời vào thời kỳ quá độ tòng phụ cư 從婦居 sang chế độ tòng phu cư 從夫居. Về sau, cùng với sự củng cố và ràng buộc  chế độ lễ nghi phong kiến, hình thức hôn nhân này càng ngày càng phong phú, phức tạp hơn về nội dung và quy trình thực hiện hôn lễ đỗi ngẫu.
Hôn nhân đối ngẫu ra đời đánh dấu một bước phát triển mới về nhận thức xã hội, chấm dứt  quá trình tạp hôn, đồng thời mang lại những cơ sở sinh lý đảm bảo chắc chắn cho việc tăng trưởng và phát triển của các thế hệ mai sau. Sự ổn định trong quan hệ hôn nhân cũng có những hiệu quả tích cực đối với tâm sinh lý con người. Và khi đó hôn nhân và cuộc sống ổn định sẽ có tác dụng thúc đẩy tốc độ phát triển của văn hoá, xã hội của một cộng đồng dân tộc nói riêng và văn minh nhân loại nói chung.
                                                ThS. Võ Minh Hải
                                          (GV, Khoa Ngữ văn, Đại học Quy Nhơn) 
  Tài liệu tham khảo chính
  1. Đàm Gia Kiện (1993), Lịch sử văn hoá Trung Quốc, NXB KHXH, H.
  2. Hứa ThậnThuyết văn giải tự, Giang Tô Quảng Lăng cổ tịch khắc ấn xã , Giang Tô (bản Trung văn).
  3. Ngô Vinh Chính (2004), Đại cương lịch sử văn hoá Trung Quốc, NXB VHTT, H.