HỮU NGHỊ DÂN TỘC VIỆT - TRIỀU:TỪ GÓC ĐỘ LỊCH SỬ - VĂN HÓA
Bài đã đăng trên: http://tiasang.com.vn/Default.aspx?tabid=62&CategoryID=42&News=5800
Trần Trọng Dương
Quan hệ ngoại giao Việt - Hàn bắt đầu từ năm 1992, trong khi quan hệ ngoại giao Việt - Triều có trước đó 42 năm (1950). Đây là những quan hệ song phương giữa các nhà nước. Tuy nhiên, từ góc độ lịch sử- văn hóa, quan hệ Việt - Hàn và quan hệ Việt - Triều đã hòa nhập trong tình hữu nghị giữa hai dân tộc Việt - Triều. Mối quan hệ hữu nghị này dài hơn rất nhiều so với mối quan hệ ngoại giao giữa các nhà nước hiện nay. Quan hệ Việt Nam và Triều Tiên thời Trung đại, trước nay vẫn là một đề tài được giới Đông Phương học trong nước cũng như quốc tế quan tâm và triển khai trên nhiều bình diện từ lịch sử cho đến văn học và văn hóa. Bài viết này chủ yếu mang tính chất giới thiệu những thành quả mới nhất trong nhiều năm qua về mối quan hệ đặc biệt này.
1. Việt - Triều trong đối ứng Trung Hoa
Vị trí địa lý hẳn nhiên là một yếu tố tiên quyết cho mối quan hệ Việt- Triều. Việt Nam nằm ở phía Đông Nam, Triều Tiên nằm ở phía Đông Bắc Trung Hoa.
Cái làm nên hằng số văn hóa cho cả hai dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử không gì khác chính là vị trí “sát nách” cận kề với một đại quốc đầy tinh thần bành trướng. Và chính hằng số này đã kéo gần hai dân tộc lại với nhau. Thử điểm lại vài mốc lịch sử quan trọng. Năm 207 tcn An Dương Vương và nước Âu Lạc bị Triệu Đà tiêu diệt, sự kiện này mở đầu cho 10 thế kỷ đấu tranh chống đô hộ phương Bắc tại Việt Nam. Tương đương với thời kỳ đó, vào năm 108 tcn, nhà Hán đem đại quân xâm lược bán đảo phía Đông Bắc, nhà nước cổ Cho Son của Wi Man (Vệ Mãn) bị thôn tính. Ở Việt Nam xảy ra các cuộc khởi nghĩa của hàng loạt thủ lĩnh người Việt như Triệu Thị Trinh, Trưng Trắc, Lý Bí, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng... chống lại các lực lượng quân sự đô hộ. Ở Triều Tiên là các cuộc chiến tranh của các tiểu quốc Koguryo (Cao Cú Lệ), PecChê (Bách Tế) và Shilla (Tân La) chống lại các nhà Hán, Tùy, Đường. Tuy nhiên, các cuộc khởi nghĩa ở Việt Nam nhanh chóng bị dập tắt, và phải đến thế kỷ X với hàng loạt các nỗ lực của các họ Khúc, Dương, Ngô, Lê thì Việt Nam mới giành được độc lập. Trong khi đó, ở bán đảo Triều Tiên nhà Tùy từng hai lần thất bại trước Koguryo. Và sau đó, nhà Đường bị đẩy lui khỏi bán đảo này bởi nhà nước Shilla vào năm 676. Nhưng những cái tên An Nam đô hộ phủ và An Đông đô hộ phủ mà người Hán đặt đã đi vào lịch sử hai dân tộc như những lời cảnh báo.
Trong giai đoạn Trung đại, cả hai nước đều tồn tại thiết chế trung ương tập quyền. Ở Việt Nam, các triều Khúc, Dương, Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lý, Trần, Hậu Lê, Nguyễn thay nhau cai trị từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX. Ở Triều Tiên là hai triều đại Koryo (918 - 1392) kéo dài gần 474 năm, triều đại Cho Son (1392 - 1910) kéo dài 518 năm. Cũng trong 1000 năm này, nhân dân Việt - Triều cũng đã nhiều lần tiến hành các cuộc chiến tranh vệ quốc vỹ đại. Nếu như triều Trần 3 lần đánh thắng quân Nguyên Mông, thì Koryo (trong vòng 30 năm từ năm 1231 đến năm 1259) cũng có 6 cuộc chiến tranh chống trả đế quốc này, trong đó có những chiến thắng vang dội tại thành Chơ- In năm 1232. Đến năm 1259, nhà Nguyên buộc phải ký hiệp ước giảng hòa. Nếu như triều Tây Sơn làm nên đại thắng quân Thanh vào thời thịnh trị bậc nhất của triều đại này vào năm 1789. Thì Triều Tiên cũng hai lần chiến thắng quân xâm lược từ Mãn Châu vào các năm 1627 và 1636.
Phác qua vài dòng như vậy để thấy lịch sử hai nước Việt - Triều ít nhiều có nhiều điểm tương đối gần nhau qua các chặng đường lịch sử. Nếu so sánh với hàng loạt các quốc gia cổ bị thôn tính, sáp nhập vào lãnh thổ Trung Hoa như Đại Lý, Liêu, Kim, Thổ Phồn... ta sẽ phải đặt ra câu hỏi rằng, điều gì đã khiến cho Việt Nam- Triều Tiên có thể vượt qua những thử thách lịch sử liên quan đến sự tồn vong của dân tộc? Tinh thần quật cường hẳn là một đáp số chung. Nhưng cũng cần phải tính đến ở đây chính là vị trí địa lý đủ xa để các triều đại phong kiến Trung Hoa dù đầy tham vọng nhưng qua nhiều lần cố gắng thì vẫn phải công nhận rằng đây là những mảnh đất “gân gà”- đánh cũng khó mà giữ càng không phải dễ. Tuy nhiên, bán đảo Triều Tiên dẫu sao cũng an bình hơn bởi lẽ phía Đông Bắc ngoài Nhật Bản ra thì đó được coi như là ngả cụt của con đường bành trướng. Trong khi đó, Việt Nam nằm ở vị trị trọng yếu ở phía Nam- nối liền với hàng loạt các quốc gia cổ đại như Champa, Phù Nam, Khmer, Xiêm La,... và được coi như là “cửa ngõ” để người Trung Hoa có thể tiếp tục mở rộng tham vọng của mình đến những miền đất mới. Chính vì thế, các cuộc chiến tranh của Trung Hoa dành cho các triều đại ở Việt Nam luôn khốc liệt và có tần số cao hơn. Và mảnh đất này, ở mọi thời điểm, luôn tồn tại như một tiền tuyến chịu mọi phong ba bão táp, là nơi chà đi xát lại của các tham vọng lịch sử.
Và cũng chính từ đây đã có những va đập giữa các nền văn minh, trong đó một mẫu số chung giữa hai dân tộc Việt- Triều là cách ứng xử với nền văn hóa Hán.
2. Cơ tầng bản địa và yếu tố văn hóa Hán hay phương thức sinh tồn
Những cuộc đọ sức giữa các quốc gia thường được thể hiện qua các cuộc chiến tranh vũ lực, và chiến tranh thì chỉ có thời điểm- thời đoạn nào đó. Nhưng cuộc chiến văn hóa để một dân tộc tồn tại thì luôn diễn ra dai dẳng, bền bỉ, nó cần một tầm nhìn viễn kiến và mang tính sống còn. Ở điểm này, cả hai dân tộc Việt- Triều cũng đã có một mẫu số chung để tồn tại, đó là công thức: cơ tầng bản địa kết hợp với yếu tố văn hóa Hán.
Trước một thế lực mạnh cả về vật chất lẫn tinh thần, hai dân tộc Việt- Triều (cũng phải kể thêm cả Nhật Bản vào đây nữa) đã lựa chọn chính sách song ngữ- song văn hóa trong suốt quãng một ngàn năm: tiếng bản địa được dùng trong đời sống thường nhật, trong các tầng lớp bình dân, và tiếng Hán được sử dụng trong hành chính, thi cử và ngoại giao. Đây chính là yếu tố quan trọng nhất để Việt - Triều được coi như là những nước đồng văn. Nhưng điểm quan trọng ở đây qua bài học của người xưa chính là việc “lấy ngôn ngữ văn tự và văn hóa của người Hán để chống lại mọi sự xâm thực của người Hán”. Cho đến nay, bài học này vẫn được các nước Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore thực hiện một cách nhất quán.
Cũng từ chữ Hán, hai dân tộc Việt - Triều đã xây dựng và phát huy thêm các yếu tố văn hóa bản địa của riêng mình. Vào thời Lý, chữ Nôm đã được người Việt sáng tạo ra trên cơ sở tự hình chữ Hán dùng để ghi chép lại tiếng Việt, và thứ văn tự này cho đến nay vẫn là hệ thống chữ viết duy nhất do chính người Việt sáng tạo trong lịch sử[1]. Trong khi đó, ở Triều Tiên là chữ Hangưl - một loại văn tự do vua Thế Tông (Sejong) và các triều thần sáng tạo và đưa vào sử dụng từ năm 1446 qua tác phẩm Huấn dân chính âm. Cũng từ đó, văn chương truyền thống của Việt Nam và Triều Tiên chia làm hai dòng chính là văn chương Hán văn và văn học bản ngữ (ở Việt Nam là văn học chữ Nôm, ở Triều Tiên là văn học chữ Hangưl). Việc sử dụng chung chữ Hán đã khiến cho các dân tộc xích lại gần nhau hơn. Có thể thấy điều này qua các đánh giá của sứ thần hai bên, cũng như lời nhận định của Minh Mệnh năm 1840 coi Triều Tiên cũng là một nước văn hiến[2] giống như Việt Nam. Như thế, văn tự Hán và văn hiến được coi như là một công cụ của chính trị của ngoại giao, nó là công cụ để hiểu rõ người Hán và chống lại mọi mưu đồ của người Hán.
Tác phẩm Phật thuyết (tk XII) đan xen Hán và Nôm.
Văn bản Huấn dân chính âm (tk XV) đan xen Hán và Hangưl.
3. Những mốc son trong quan hệ dân tộc Việt – Triều
Có thể nói rằng, trong suốt dọc dài lịch sử, các triều đại phong kiến của cả hai nước Việt - Triều gần như không có mối quan hệ bang giao, thương mại chính thức nào bởi lẽ khoảng cách địa lý cùng với hạn chế của điều kiện giao thông. Thế nhưng, từ những đoạn sử rời, chúng ta còn lần ra được những mốc son trong quan hệ giữa hai dân tộc Việt - Triều.
Năm 1958, Tổng thống Đại Hàn Dân Quốc là Lý Thừa Vãn, viếng thăm miền Nam Việt Nam. Trong dịp này ông đã tuyên bố rằng tổ tiên ông là người Việt. Thông tin này khiến cho các nhà sử học giật mình. Liền ngay sau đó, các nghiên cứu được đào sâu để vén lộ bức màn huyền bí của lịch sử. Nhân vật thủy tổ của dòng họ Lý trên đất Triều Tiên lạ lùng thay lại chính là Kiến Bình Vương Lý Long Tường một vị hoàng thân triều Lý của đất Việt, con thứ sáu của vua Lý Anh Tông (1138-1175). Vào đầu thế kỷ XIII, Lý Long Tường cùng thuộc tướng và những người trong họ tộc đã di cư sang Cao Ly để thoát khỏi sự truy sát của nhà Trần. Hiện nay, con cháu các chi họ Lý vẫn đang định cư tại Hoàng Hải, Hán Thành và Đông Hỏa, ở cả hai nước Triều Tiên và Hàn Quốc. Tại đây, dòng họ Lý vẫn còn bảo lưu được các địa danh cổ của tổ tiên như cửa sông Phú Lương (huyện Bồn Tân)- nơi Kiến Bình Vương cập bến, địa danh Ung Tân- nơi họ Lý định cư cắm đất dựng nhà, đồi Julhang nơi có lăng của Kiến Bình Vương, Vọng Quốc đài tại Quảng Đại sơn- nơi vương đứng ngóng mỗi khi nhớ về quê hương. Theo các tư liệu Hán văn hiện còn như Hoa Sơn Quân bản truyện, Hoa Sơn Lý thị tộc phả, Cao Ly sử còn có nhiều thông tin về nhân vật này. Văn bia Thụ Hàng môn kỷ tích bi ghi : « Năm Bính Tuất niên hiệu Bảo Khánh (đời Tống), trong nước có loạn, việc thờ cúng tổ tiên ở nhà tông miếu bị hủy bỏ. Ông là chú vua, khóc ở miếu Nam Bình rồi đem các đồ thờ ở bàn thờ tổ tiên chạy về phía Đông… Ông vượt biển đến sông Phú Lương huyện Bồn Tân nước Cao Ly, ẩn ở Trấn Sơn tại phía Nam phủ thành, đặt hiệu là Vi Tử động». Văn bia này cũng ghi, Lý Long Tường được coi là anh hùng của nước Cao Ly trong cuộc chiến chống quân Nguyên Mông vào năm 1253, ông được vua Cao Ly phong làm Hoa Sơn Quân, ban 30 dặm đất, lập biển ghi công trạng, cho làm thái ấp để phụng thờ tổ tiên và con cháu đời đời được nhập tịch ở Hoa Sơn. Con cháu Kiến Bình Vương Lý Long Tường hiện nay sống ở cả Triều Tiên và Hàn Quốc, riêng ở Hàn Quốc có khoảng 200 hộ với trên 600 người. Gia phả dòng họ ghi chép 32 đời kể từ đời Lý Thái Tổ, trong đó 6 đời ở Việt Nam và 26 đời ở Hàn Quốc[3].
Trung Hiếu đường do hậu duệ Lý Long Tường xây theo kiểu kiến trúc mái đình Đại Việt tại Bong-hwa (Hàn Quốc)
Thụ hàng môn tại Hoa sơn, Bắc Hàn
Theo nghiên cứu của giáo sư Pyon Hong Kee (Phiến Hoàng Cơ) cho biết: dựa trên gia phả dòng họ mang tên Tinh Thiện Lý thị tộc phả được tàng trữ tại thư viện Quốc gia Seoul, ông đã phát hiện thêm một dòng họ Lý gốc Việt thứ hai thường gọi là Lý Tinh Thiện mà ông tổ của dòng họ này là Kiến Hải Vương Lý Dương Côn- hoàng tử (con nuôi)[4] của vua Lý Nhân Tông đã sang Cao Ly từ đầu thế kỷ XII. Theo Cao Ly sử, cháu đời thứ 6 của Lý Tinh Thiện là Lý Nghĩa Mân (Lee Ui Min) được vua Cao Ly là Nghị Tông (Ui Jong, 1146- 1170) phong làm Biệt tướng, sau đó khi làm phụ tá cho Lý Trọng Phu, ông còn được phong làm Trung lang tướng, Tướng quân, Đại tướng quân (1173), Thượng tướng quân (1174), Tây Bắc lộ binh mã sứ (1178). Đến đời vua Minh Tông, ông được phong làm Tư không tả bộc xạ, rồi Đồng trung thư môn hạ Bình chương sự nắm quyền như Tể tướng Cao Ly trong 6 năm (1190- 1196). Sau đó, ông và ba con trai bị phái Thôi Chung Hiến (Choi Chung Heon) sát hại để đoạt quyền. Dòng họ Lý tại Tinh Thiện (thuộc đạo Giang Nguyễn, Hàn Quốc ngày nay) sau đó được nối kế bởi một người chú của Lý Nghĩa Mân[5].
Hình : ông Lý Xương Căn và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Ảnh TT&VH
Còn theo con số thống kê tổng thể, thì hiện nay có khoảng 3600 người là hậu duệ của hai nhánh nhà Lý đang sinh sống tại Hàn Quốc[6]. Con cháu họ Lý, từ năm 1994 đến nay, đã nhiều lần về thắp hương cho tổ tiên tại Bắc Ninh, và họ là những thành viên chủ chốt của Hội giao lưu văn hóa Hàn- Việt. Đặc biệt, năm 2010, nhân dịp Đại lễ 1000 năm Thăng Long, ông Lý Xương Căn và gia đình, đã chính thức được nhập tịch trở thành công dân Việt Nam [7]. Cũng nhân dịp này, cuốn tiểu thuyết lịch sử « Hoàng thúc Lý Long Tường » của tác giả Khương Vũ Hạc (xuất bản năm 1967 tại Hàn Quốc) đã được tái bản lần thứ hai tại Việt Nam. Ước nguyện hồi hương sau 800 lưu lạc đã trở thành hiện thực. Ông Căn cùng với những người con dòng họ Lý đang viết tiếp những trang sử hữu nghị giữa hai dân tộc.
Hình 3: Sách Cao Ly sử
Ngoài hai dòng họ Lý trên, giới nghiên cứu còn đề cập đến dòng họ Mạc – hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi (1293-1324) ở Cao Ly. Có một số nguồn thông tin cho biết, Mạc Đĩnh Chi từng được vua Trần Anh Tông cử đi sứ sang nhà Nguyên, trong thời gian này ông gặp được một vị chánh sứ của Cao Ly và trở thành đôi bạn tâm giao, nhiều lần cùng nhau xướng họa thơ văn. Sau đó, Mạc Đĩnh Chi được mời sang thăm kinh đô Hán Thành của Cao Ly, ở đây ông đã lấy một người cháu gái của sứ thần Cao Ly nọ và sinh được một trai một gái. Đây chính là thủy tổ của họ Mạc ở Cao Ly. Rất tiếc cho đến nay, chúng tôi chưa từng được tiếp cận sử liệu gốc của những thông tin trên. Tuy nhiên, theo Lê Khắc Hòe, năm 1926, ông đã từng gặp một hậu duệ của Mạc Đĩnh Chi- đang trên đường hồi hương về Hưng Yên tìm lại nguồn gốc họ tộc. Theo như lời kể của hậu duệ 20 đời của họ Mạc Cao Ly, người con trai của Mạc Đĩnh Chi làm quan võ, sinh được 12 người con: 8 trai, 4 gái… Ngành trưởng này phần đông là người giàu có, làm nghệ thương nhân. Ngành thứ, sau này sinh ra nhiều nhân tài có những đóng góp nhất định cho lịch sử văn hóa Cao Ly. Ông cũng khoe rằng, ông thuộc thế hệ ngành trưởng, thân ở Cao Ly mà hồn ở Việt Nam. Cao Ly là nơi chôn rau cắt rốn nhưng đất Việt mới là quê cha đất tổ. Hồn thiêng sông núi đất Việt luôn luôn gọi ông trở về[8].
Mặc dù, những thông tin trên chưa thực sự được kiểm định bằng các sử liệu khả tín. Song nó có ý nghĩa gợi mở lớn cho những hợp tác khoa học giữa hai dân tộc trong thời gian tới. Không chỉ thế, nhiều hiện tượng văn hóa tương đồng, cho đến nay vẫn còn là một đề tài để ngỏ đầy thú vị. Ví dụ như, Truyện Nàng Xuân Xương (- một truyện cổ tích Việt Nam sao có nhiều tình tiết với Truyện Xuân Hương của Triều Tiên đến vậy ? Hay như, có dư luận cho rằng nhạc điệu của ca trù có những tương tự về làn điệu như một số loại hình âm nhạc truyền thống của Triều Tiên? Liệu chúng có liên quan, ảnh hưởng gì đến nhau trong lịch sử?[9] Câu trả lời vẫn ở phía trước.
4. Danh nhân Việt- Triều: tình anh em bốn bể
Như trên đã viết, các triều đại phong kiến Việt- Triều chưa từng có quan hệ bang giao chính thức. Song, qua các đợt ngoại giao với các triều đại Trung Hoa tại Yên Kinh, các sứ thần hai nước đã nhiều lần gặp gỡ, xướng họa với nhau trên đất Trung Hoa. Mối quan hệ thuần túy học thuật, thuần túy thi ca này khiến chúng ta có thể đi đến nhận định rằng tình hữu nghị dân tộc Việt- Triều là một mối quan hệ hữu nghị thuần khiết và thanh tao. Theo thống kê hiện nay, tổng cộng số thơ văn xướng hoạ giữa sứ thần hai nước (từ đợt tiếp xúc Phùng Khắc Khoan- Lý Túy Quang năm 1597 đến chuyến đi sứ của Nguyễn Tư Giản- Nam Đình Thuận năm 1868 tính ra là 371 năm) đã có trên dưới 10 lần hai đoàn sứ bộ Việt Nam - Hàn Quốc gặp nhau xướng hoạ ở Yên Kinh với 33 sứ thần - tác gia, (Việt Nam: 12 người, Hàn Quốc: 21 người) và 92 bài thơ, văn (thơ: 81 bài, văn: 11 bài)[10]. Nếu tính cả đợt đi sứ của Mạc Đĩnh Chi thì các con số có lẽ còn khác nữa. Các tác phẩm này được chép trong hàng chục tập thơ hiện còn lưu trữ được tại Việt Nam (chủ yếu tại Viện NC Hán Nôm) và Hàn Quốc, Triều Tiên.
Vài chục tác giả còn lại thi văn xướng họa với nhau đó là những đại biểu tinh hoa, những trí thức hàng đầu của hai dân tộc. Như ta biết, sứ giả thời xưa đều phải là những người tài năng lỗi lạc, khoa bảng đứng đầu, họ giữ những chức vị trọng yếu trong triều đình, và khi đi sứ họ cần phải có đủ cả tài năng, chí khí, để thể hiện “phương diện quốc gia”, trong đó “đặc biệt phải lầu thông kinh sử, uyên thâm Hán học, cái vốn tri thức cần thiết trong bối cảnh quan hệ bang giao giữa các nước đồng văn”[11]. Chúng ta có thể liệt kê ra đây một số danh nhân tiêu biểu của Việt Nam như: Mạc Đĩnh Chi, Phùng Khắc Khoan, Nguyễn Công Hãng, Nguyễn Tông Quai, Lê Quý Đôn, Nguyễn Đề, Đoàn Nguyễn Tuấn, Nguyễn Tư Giản,... và các danh nhân của Triều Tiên như Lý Toái Quang, Du Tập Nhất, Hồng Khải Hy, Lý Hiệu Lý, Từ Hữu Phòng, Nam Đình Thuận,... Những sứ giả- nhà thơ này đã viết nên những trang sử hữu nghị thấm đẫm chất văn chương và tinh thần học thuật giữa hai dân tộc Việt- Triều, trong nó điểm nổi bất nhất được thể hiện qua từng câu thơ ấy chính là tinh thần “tứ hải giai huynh đệ”:
古云四海皆兄弟
相濟同舟出共車
Xưa rằng: bốn bể anh em,
Chung thuyền cùng giúp, chung xe cùng ngồi
Câu thơ trên của Phùng Khắc Khoan là dành tặng cho Kim Tiêu Dật sĩ (Triều Tiên). Trong cuộc gặp gỡ năm 1597 này, Phùng Khắc Khoan cùng với các sử thần Triều Tiên đã có đến trên 30 tác phẩm bút đàm, trao đổi học thuật. Theo đánh giá của Gs Bùi Duy Tân, cuộc gặp gỡ này được coi như là mốc son mở đầu trong lịch sử hữu nghị Việt- Triều.
彼 此 雖 殊 山 海 域
淵 源 同 一 聖 賢 書
Núi sông tuy đó đây có khác,
Nguồn sâu cùng một sách thánh hiền. (Phùng Khắc Khoan)
Hoặc như: 我 居 東 國 子 南 鄉
文 軌 由 來 共 百 王
Tôi ở nước Đông, ông nước Nam,
Lịch triều văn hiến vốn sánh ngang. (Lý Toái Quang)
Các trạng nguyên- thi sĩ này cũng tỏ rõ sự hữu hảo cũng như hiểu biết về đất nước của nhau qua những áng thơ văn. Sứ giả Cao Ly Lý Tuý Quang từng có những ghi chép như sau về con người và đất nước Đại Việt: "Chuyến đi có 23 người đều vấn búi tóc. Người cao quý thì nhuộm răng, người thấp kém thì mặc áo ngắn đi chân không... Nơi nằm thì phải ở trên giường không có hầm sưởi, ăn uống giống như người Trung Hoa..., ăn mặc phần nhiều là the lụa, không mặc gấm vóc và áo bông. Dáng người đại để sâu mắt, thấp bé... tính nết hiền lành, có biết chữ biết viết, thích tập múa kiếm..." hay “tôi nghe nói Giao Châu là nơi cực Nam, có nhiều của lạ châu báu, vàng, ngọc lâm lang, đồi mồi, ngà voi, tê giác. Thế cho nên cái khí tinh anh trong lành đặc biệt chung đúc ở đó, có người tài sinh ra ở đấy, há chỉ những của lạ mà thôi đâu”. Đặc biệt là đối với Phùng Khắc Khoan, Lý Tuý Quang miêu tả khá tỉ mỉ: "Sứ thần họ Phùng, tên là Khắc Khoan, tự hiệu là Nghị Trai, tuổi ngoài 70, hình dáng kỳ lạ, răng nhuộm đen, tóc vận thành búi, áo dài, ống tay rộng, khăn đội trên đầu thì lấy cả khổ vải đen trùm lên đầu như dáng khăn ông sư, để một nửa rủ về đằng sau xuống quá vai. Ông họ Phùng tuổi tuy đã già nhưng sức còn khoẻ, thường đọc sách viết sách luôn luôn". Những ghi chép trên cho thấy sứ giả Cao Ly rất trọng thị đối với Trạng Bùng của Đại Việt.
Vào thời Lê trung hưng, Lê Quý Đôn sau khi có tiếp xúc với sứ Cao Ly đã viết mấy lời trong sách Kiến văn tiểu lục như sau: “Nước Cao Ly về thời Đường thuộc An Đông đô hộ phủ... Người dân hiền lành cẩn thận, ham đọc sách, thạo văn học, trọng nghi lễ. Sứ thần nước Việt ta trong thời gian đi sứ Bắc Kinh, cùng với sứ nước họ có qua lại, tặng thơ xướng họa cho nhau... bày tiệc bút đàm, càng tăng thêm tình hữu hảo, sau khi về quán, lại sai 2 vị thiếu khanh mang thổ sản đến tặng”. Sau đó, các sứ giả Triều Tiên có thư lại cảm ơn và biếu tặng sản phẩm đặc biệt của Cao Ly là quạt giấy[12]. Sách Đồng văn vựng khảo bổ biên có phần chép của Chánh sứ Hồng Khải Hi và Phó sứ Triệu Vinh Tiến về phong tục tập quán nước ta như sau: “Nước An Nam, Nam Chưởng (quan lại nước Nam) đã có chế độ về mũ áo. Người An Nam lấy lụa mỏng làm mũ áo, hơi giống với nước ta. Chỉ có điều họ búi tóc. Nam Chưởng vốn là đất cũ của họ Việt Thường, họ lấy tơ vàng làm mũ áo, chế độ rất khác thường. Mũ làm bằng gấm vàng như Thác Tử (đeo thêm một đoạn đuôi), trang điểm thêm vàng để rủ ra phía sau, tóc buông như người An Nam. Cách ăn mặc của người phương Nam đại thể khác xa như thế.”
Các nhà thơ- sứ giả hai nước cũng “tranh thủ” giới thiệu về văn hóa và sản vật quê hương mình. Trong đó, có nhiều câu thơ hay đã đi vào lịch sử của hai dân tộc. Ví như đoạn thơ sau đây của Phùng Khắc Khoan:
閭巷 開 書 墊
旗亭 賣 酒 船
雨晴 添 象 跡
風暖 送 龍 涎
thôn xóm mở ra trường lớp học,
tửu lâu rượu đế chất đầy thuyền.
mưa tạnh chân voi in lối vắng,
gió nồng thổi dậy vị long diên.
Hay đôi câu thơ:
傘圓概似松山秀
鴨錄應同珥水長
Xanh tốt Tùng Sơn ngang núi Tản,
Đua dài sông Áp sánh sông Hồng
Có thể nói, thơ văn xướng họa xung quanh những chuyến tao ngộ giữa các sứ giả Việt- Triều đều là các tác phẩm ngôn từ có sức lay động mạnh mẽ. Các tác phẩm ấy đều được viết bằng tiếng Hán- quốc tế ngữ vào thời bấy giờ, nhưng vẫn đậm đà phong vị dân tộc Việt- Triều. Quả đúng như lời thơ của Nam Đình Thuận (Triều Tiên) đã viết: “núi sông tuy có khác, bút mực cũng như nhau” (san hà ưng hữu dị, hàn mặc tư tương đồng). Đường đi sứ của những danh nhân đồng thời cũng là con đường thơ ca- con đường của mối quan hệ hòa hiếu. Và các sứ giả- các thi nhân tài hoa đồng thời cũng là sứ giả bang giao hữu nghị ngàn đời giữa hai dân tộc[13].
[1] Trần Trọng Dương. Phật thuyết có phải là bản dịch ở thế kỷ XII?. Tạp chí Ngôn ngữ. 4 (2011), 31-48.
[2] Murasova G.Ph. Quan hệ Việt Nam- Triều Tiên trong các thế kỷ XVII-XIX. M. 1973. tr.126 [Chuyển dẫn. N. Niculin. Quan hệ văn học Việt Nam- Triều Tiên cuối thế kỷ XVI- giữa thế kỷ XVIII. Lưu Liên dịch. Tc Văn học. 2-1987. tr. 78.
[3] Phan Huy Lê. tb 2011. Họ Lý Hoa Sơn- Một họ Lý gốc Việt ở Hàn Quốc. Trong “Tìm về cội nguồn”. Nxb. Thế giới. H. tr.1023-1029.
[4] Ông là con đẻ của Sùng Hiền hầu- một tông thất của nhà Lý.
[5] Chuyển dẫn theo Phan Huy Lê. tb 2011. Họ Lý Tinh Thiện- một họ Lý gốc Việt mới phát hiện ở Hàn Quốc. Trong “Tìm về cội nguồn”. Nxb. Thế giới. H. tr.1030-1034.
[6] Phan Hiển. Thêm một chi thuộc dòng họ Lý ở Hàn Quốc tìm về Việt Nam. http://dantri.com.vn
[7] Kate Jellema. 2007. Returning home: Ancestor Veneration and the Nationalism of Đổi Mới Vietnam. Modernity and Re-Enchantment: Religion in Post-Revolutionary Vietnam (Philip Taylor edited). Institute of Southeast Asian Studies. Singapore. P. 80- 89.
[8] Lê Khắc Hòe. An Nam tạp chí số 4, tháng 8/ 1926, trang 14 -17. Chuyển dẫn theo Vũ Hiệp. Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi có hậu duệ ở Cao Ly từ thế kỷ XIV đến nay? Nghiên cứu Lịch sử số 2 (285)- 1996, tr. 76-81). Xem thêm Người Việt Nam ở Triều Tiên và mối giao lưu văn hoá Việt – Triều trong lịch sử. Hội khoa học lịch sử Việt Nam. Hà Nội. 1997, tr.75- 82.
[9] Bùi Duy Tân. 2005. Tứ hải giai huynh đệ: Những cuộc tao ngộ sứ giả- nhà thơ Việt- Triều trên đất nước Trung Hoa thời Trung đại. trong “Theo dòng khảo luận văn học Trung đại Việt Nam”. Nxb. ĐHQGHN. Tr.244.
[10] Lý Xuân Chung. Nghiên cứu, đánh giá thơ văn xướng họa của các sứ thần hai nước Việt Nam - Hàn Quốc (Luận án Tiến sĩ). Viện Nc Hán Nôm. Hà Nội. 2009.
[11] Bùi Duy Tân. 2005. bdd. Tr.250.
[12] Shimizu Taro. Cuộc gặp gỡ của sứ thần Việt Nam và Triều Tiên ở Trung Quốc trọng tâm là chuyện xảy ra trong thế kỷ XVIII. Lương Thị Thu dịch, Nguyễn Thị Oanh hiệu đính, TC Hán Nôm, 3/2001.
[13] Lời của cố Gs. Bùi Duy Tân. 2005. bdd. Tr. 279.