Từ vựng NGHỀ LƯỚI ĐĂNG – Một vốn quý trong kho tàng NGÔN NGỮ, TRI THỨC, VĂN HÓA DÂN GIAN của ngư dân KHÁNH HÒA | ||||||
Trước đây, lưới đăng là nghề biển có quy mô lớn, có năng suất và lợi tức cao nhất trong các nghề đánh cá ở Khánh Hòa. Cùng với những tục lệ thờ cúng kỳ lạ, những tập quán kiêng cữ đặc biệt, trong quá trình giao tiếp cũng như khi hành nghề, ngư dân lưới đăng đã sáng tạo và sử dụng một hệ thống từ vựng rất phong phú và độc đáo, phản ánh đặc trưng nghề nghiệp và mang đậm sắc thái dân gian. Trải qua thời gian, hệ thống từ vựng này đã trở thành một vốn quý trong kho tàng di sản văn hóa truyền thống của địa phương.
A
- Ăn dọn (còn gọi là dọn nghề): Khâu chuẩn bị trước khi xuất hành ra biển làm mùa, từ việc bày dọn giàn lưới ra một bãi cát rộng để tu sửa, đan vá, kết lại cho hoàn chỉnh đến việc sửa ghe, trét ghe hay xảm thuyền. Thời gian ăn dọn bắt đầu từ trung tuần tháng 11 âm lịch, tùy giàn nghề lớn nhỏ mất khoảng 15 đến 25 ngày để hoàn tất. Trong thời gian ăn dọn, bạn nghề ăn ngủ ngay ngoài bãi.
B
- Bạn lưới (còn gọi là Bạn trên): thuyền viên kéo neo, kéo lưới, làm việc trên ghe là chính. Số lượng khoảng 20 - 28 người, chia đều cho 2 chiếc thuyền đăng, thuyền neo.
- Bạn nằm thuyền: thuyền viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, lo việc tát nước, nấu ăn và những việc nặng đòi hỏi tay nghề cao (như nhảy xuống nước kết giải, làm mé làm gót...). Mỗi bên thuyền đăng, thuyền neo đều có từ 1 đến 2 bạn nằm thuyền.
- Bao hầu: cá cờ lớn cỡ ba bốn tạ trở lên gọi là bao hầu.
- Bè: phao lưới, giúp giàn lưới nổi theo chiều thẳng đứng từ mặt nước xuống đáy biển. Ngày xưa, bè được làm bằng những ống tre kết lại, ngày nay bè làm bằng xốp, lại dùng ống tre bọc xung quanh để bảo vệ xốp khỏi bị vỡ. Lưới đăng có 2 bè chính là bè cái và bè dọc, còn lại là những bè nhỏ. Vị trí của bè được gắn liền với dây neo, có bao nhiêu neo trên một giàn lưới thì có bấy nhiêu bè.
- Bề dạu (còn gọi là bề đứng, bề thâm): chiều cao của tấm lưới tính từ mặt nước xuống đáy biển.
- Bên đăng: bên thuyền đăng (đậu giữa neo thứ 10 và thứ 9 từ bè cái tính vào).
- Bên đốc: bên cọc chèo bánh của ghe (bên trái).
- Bên lái: bên cọc chèo mũi của ghe (bên phải).
- Bên neo: bên thuyền neo (đậu bên giàn lưới hôm giữa 2 bộ neo nhì tráng tây và nhất tráng tây).
- Biển đói: đánh không được cá trong nhiều ngày hoặc mất mùa cá.
- Biển no: được mùa cá.
- Biện: thư ký, có nhiệm vụ ghi chép, tính toán, quản lý sổ sách thu chi. Làm việc trên thuyền có biện nước, trên bờ có biện bờ.
- Bộ: gọi tắt từ bộ neo. Khi khép lưới bửng nhốt cá vào rọ, mỗi bên thuyền đăng và thuyền neo kéo theo một đầu lưới rồi đi qua 5 hoặc 6 bộ để làm mé làm gót.
- Bồng đỏ mũi: phần đầu mũi thuyền đăng và thuyền neo có cây xỏ mũi sơn màu đỏ.
C
- Cá ăn đầu (còn gọi là cá tá): thuở nghề đăng còn sơ khai, thu nhập của ngư dân được tính theo lối ăn chia chứ không trả công ăn lương như sau này. Để chuyên chở cá về bến, các chủ đầm phải sắm hoặc thuê ghe phiên. Nếu thuê, cứ mỗi tá cá (12 con) chủ đầm thu hoạch được thì chủ ghe phiên được hưởng 1 con.
- Cá chạy bãi: mấy tháng biển động sóng to gió lớn, nước đục, nhiều loại cá như cá chét, cá chột lớn cỡ bắp vế, từ ngoài khơi vô bờ lúc nước lớn, chạy dọc theo bãi để kiếm ăn.
- Cá dài: tiếng nghề đăng gọi chung các loại cá thu.
- Cá lái lợi: số cá ngư dân trả cho chủ nợ thay tiền lãi.
- Cá lại: từ cuối tháng 4 đến tháng 9 âm lịch, các loài cá di cư từ vùng biển phía bắc bắt đầu trở vô nam, ngư dân gọi là cá lại. Mùa này cá đi chậm, gặp vật cản thường xoay tròn lòng chảo và nép vào chân các gành đảo trong lộng.
- Cá lên: từ tháng Giêng đến đầu tháng 5 âm lịch, từng đàn cá nổi di cư theo mùa như cá thu, cá ngừ, cá bò... từ vùng biển phía nam bắt đầu di chuyển ra phía bắc, ngư dân gọi là cá đi hoặc cá lên. Thời gian này cá thường chạy khơi, xa gành nên đi nhanh và thẳng đường. Đây là mùa khai thác chính của nghề lưới đăng.
- Cá nhập đất: cá biển có tập tính thường đi sát đáy ngày 2 lần: lúc chạng vạng và mới rạng đông.
- Cá tròn: tiếng nghề đăng gọi chung các loại cá ngừ, bò, chù, chấm, dưa gang.
- Các bác: là những người khuất mặt, chết ngoài biển hoặc trên đảo.
- Cần khấu: cần ngắn khoảng 1m, gắn lưỡi câu lớn không ngạnh, dùng móc vào mình cá lớn cho dễ bắt.
- Câu chạy: nghề câu cổ truyền, thả mồi nổi trên mặt nước, dùng xuồng kéo chạy nhanh, cá lớn rượt theo đớp sẽ bị dính câu. Nghề này hoạt động ban ngày trong lông, dùng xuồng nhỏ, trước kia gắn buồm, về sau gắn động cơ để chạy nhanh, thuận tiện lúc ngược gió. Nhợ câu ngày trước là nhợ se bằng tơ tằm, sau dùng cước 70 hoặc 80, mỗi ống 100m, cột ít nhất 2 lưỡi câu. Mồi là lông gà loại mềm, tùy theo tháng và con nước mà dùng lông màu trắng, vàng, vàng lợt, xám... Mồi lông gà kéo chạy nhanh trên mặt nước làm cá lớn lầm tưởng là cá con. Cá ăn mồi nổi là các loại cá ngừ, chù, chấm, bò, thu, cá cờ, cá gòn. Nghề lưới đăng cũng đánh bắt các loại cá này nên các xuồng câu chạy có mặt trong vùng gần sở đầm từ tháng Giêng đến tháng 6 âm lịch, hết mùa lưới họ câu tiếp đến tháng 8 âm lịch thì nghỉ.
- Câu giăng: nghề câu cổ truyền, hoạt động trong lông, mỗi giàn câu gồm 1500 - 2000 lưỡi câu cột cách nhau 7, 8 tấc, với một số phao để giữ lưỡi câu cách rạng lối 1m. Mồi là cá nục, cá cơm trỏng, mực tươi xắt miếng. Ngư dân giăng câu buổi chiều chung quanh đảo hoặc nơi có rạng lố, tùy con nước họ thăm câu thay mồi mỗi đêm 3 - 4 lần. Sau này do nạn bắn cá bừa bãi bằng chất nổ, cá ở rạng lố bị tiêu diệt, những ghe câu giăng dần dần đổi sang nghề khác.
- Câu kiều: nghề câu cổ truyền, hoạt động trong lông, câu cá mà không có mồi. Ngư dân dùng nhiều giàn câu giăng, mỗi giàn cột 1000 - 1500 lưỡi câu lớn, mỗi lưỡi câu cách nhau 3 - 4 tấc, không gắn mồi, thả xuống đáy biển, lưỡi câu thòng tòn ten cách mặt đất lối 1 tấc, cá lớn nhập đất đi ngang qua vướng lưỡi câu, vùng vẫy thì các lưỡi câu gần bên móc thêm vào mình, không còn lối thoát. Về sau nghề giã cào phát triển, cào sát đáy biển, kéo bứt giàn câu kiều nên họ dẹp nghề.
- Cây chong: miếng gỗ nhỏ hình đồng xu dùng để móc tua chì của mỏ neo cái với vòng nhiếp chì.
- Cây gang: cây gỗ lớn dùng móc vào phần đầu dây song gang để mặt lưới tránh cọ xát với đá nhọn.
- Cây giang: những thanh đà ở hai bên be thuyền.
- Chao lưới: đoạn lưới rất thưa, sợi lớn, nối nạp con với giàn lưới đăng.
- Chắp bả: đan lưới, vá lưới.
- Chèo dọc: tức đội trưởng (nếu là chèo dọc bên ghe đăng) hoặc đội phó (nếu là chèo dọc bên ghe neo), là người chỉ huy, điều khiển, quyết định phương án đánh bắt cụ thể cho từng giác lưới.
- Chính đầm, phụ đầm: Mỗi sở đầm lớn (đầm chính) thường lãnh thêm một sở đầm nhỏ gọi là đầm phụ, vì vậy tên của các sở đầm này thường được ghép chung, ví dụ: Xưởng Dự - Táo Chỉ, Lam Dự -Châu Dự, Tiểu Cảng - Suối Châu, Thạch Dự - Bút Chử...
- Chủ đầm: là người hay nhóm người được lãnh khoán hoặc trúng thầu khai thác một sở đầm đăng nào đó, còn gọi là chủ nghề, nghiệp chủ hoặc chủ nhiệm (hợp tác xã).
- Chủ nậu: những người giàu có, cho các chủ phương tiện đánh bắt vay vốn và nhận bao tiêu sản phẩm (mỗi chủ nậu có thể cho vay và bao tiêu cho từ 2 đến 10 tàu đánh cá) rồi bán lại cho những người làm nghề rổi.
- Chủ vựa: những người chuyên thu mua cá với số lượng lớn, sau đó bán dần cho những người làm nghề rổi.
- Chuyến chính, chuyến phụ: cá lưới đăng đi phiên mỗi ngày 2 chuyến, chuyến chính về bến lúc 2 - 3 giờ chiều, chuyến phụ về bến lúc 6 - 7 giờ tối.
- Chửng cá: cách chia cá giữa chủ đầm và bạn lưới thuở nghề đăng còn sơ khai.
- Coi nước: quan sát số lượng cá đã có trong rọ lưới để quyết định khóa hom và thu hoạch. Người coi nước ôm ống tre hay phao bơi trong rọ lưới, dùng kính lặn nhìn sâu xuống đáy xem cá đã vào rọ thì báo hiệu cho trên thuyền đóng cửa bửng để cá không chạy thoát ra ngoài.
- Con nước thủy triều: mỗi tháng thường có 3 hoặc 4 ngày nước thủy triều, cứ nước lớn một lúc rồi ròng một lúc, lừng chừng như vậy cả ngày.
- Con trân (còn gọi là nhợ cúi): cuộn nhợ đan lưới có chiều dài 100 sải.
- Cốt gang: là sợi dây lớn ràng, buộc quanh hòn đá kết gang. Từ cốt gang phân ra hai sợi nhánh bằng cáp là tay rượng đồi và tay rượng chì.
- Cụi lưới: lưới đã cuộn lại thành từng ôm.
- Cúng cầu ngư: cúng vào lúc năng suất sở đầm quá thấp.
- Cúng Dàng (còn gọi là cúng Thập nhị Nhang Dàng): lễ cúng ảnh hưởng theo tục lệ của người Chăm xưa, tổ chức vào cuối tháng Ba hoặc đầu tháng Tư âm lịch hàng năm.
- Cúng hạ đăng: ngày xưa nghề đăng dùng lưới đan bằng vỏ cây mấu trên rừng hoặc bằng xơ dừa nên lưới mau hư mục, mỗi tháng sở đầm phải nghỉ một hai ngày để ráo lưới - tức vá lưới, phơi lưới. Khi bủa lại giàn lưới, phải làm lễ này.
- Cúng kết gang: lễ cúng xin phép Thần linh cho cột một đầu lưới (móc gang) vào gành đá.
- Cúng khai sơn: lễ cúng xin phép chư vị Thần linh cho sử dụng gành đảo để đặt gang lưới.
- Cúng lịch y: hàng năm vào khoảng hạ tuần tháng 2 âm lịch (tháng này còn gió đông bắc, thỉnh thoảng biển động mạnh, cá thường đi khơi), các phường lưới đăng làm lễ dâng cúng các đồ y trang, vàng mã... để cầu xin chư vị thần linh dẫn dắt cá chạy gành sớm. Nhân dịp này ngư dân rước thầy chùa làm lễ cầu siêu và lễ phóng đăng để siêu độ vong hồn Các Bác và những đồng nghiệp tử nạn ngoài biển.
- Cúng mừng rau: khi năng suất tăng vọt trong nhiều ngày, ngư dân làm gỏi cá cúng tạ ơn chư vị Thần linh (tiếng nghề đăng gọi chung các loại cá là “rau”).
- Cúng ra mắt: lễ cúng xin phép Thần linh để bắt đầu hành nghề.
- Cúng ráp xương quẹo: nghi thức ráp lưới thưa và lưới tư ở một góc 90 độ, chỗ sẽ đặt neo cái (so sánh chỗ ráp hai đầu lưới như cùi chỏ). Việc này do chủ nghề hoặc đại diện và ông chèo dọc thực hiện.
- Cúng tạ: ngày mãn mùa cá, sở đầm làm lễ cúng tạ ơn chư vị Thần linh đã phù hộ cho ngư dân trong mấy tháng hành nghề. Biển no họ cúng trọng thể, biển đói thì cúng đơn giản hơn nhưng cũng đầy đủ phẩm vật thường lệ.
- Cúng tết thuyền: lễ cúng tại thuyền đăng, thuyền neo vào ngày Tết Nguyên Đán.
- Cúng tổ nghề (còn gọi là cúng Tam vị thánh tổ): lễ cúng trọng thể tại nhà chủ nghề hoặc nhà chung của phường lưới đăng (nhà đoàn).
- Cữ: kích thước tiêu chuẩn của tấm lưới.
D
- Dây cốt hôm: dùng cột một đầu lưới hôm qua trung gian là giây xiềng xiềng.
- Dây cửa (còn gọi là dây mé nhảy): một đầu buộc vào đầu dây còn trống của bửng, một đầu buộc tại chỗ gần với góc lót. Người ta có thể đặt dây cửa theo nhiều cách khác nhau tùy theo vị trí của thuyền neo.
- Dây đòi: sợi dây dài cột hòn đồi.
- Dây giằng dọc, dây giằng gót, dây nhồi mé: 3 tên khác nhau của cùng một sợi dây giăng dọc theo chiều dài dây giềng của lưới bửng
- Dây giằng hôm, dây giằng tây: cùng một sợi dây mà phần giữa được nối với dây giềng của lưới bửng, còn hai đầu nối trên dây nạp cái của dây cốt hôm.
- Dây khóa dọc: được kéo thẳng từ đầu mút lưới bửng đến bè neo dọc.
- Dây khóa hôm: nối lưới hôm bằng cách nối với giềng đồi của lưới lưng.
- Dây khóa sau: dây nối vành neo, có vai trò như dây giằng tây và dây giằng hôm.
- Dây khóa trước: vừa giữ điểm cuối của lưới bửng vừa chống lại những dây giềng của lưới hôm.
- Dây kình: dây nối giềng kình và giềng đồi.
- Dây mồi: dùng để buộc phao và mỏ neo.
- Dây muối: đóng vai trò trung gian khi người ta muốn buộc chung các dây lại.
- Dây song gang: dùng để buộc đầu lưới gang vào mặt lưới, gồm 2 phần: phần đầu gọi là dây cốt gang dùng để cột vào hòn đá nơi gành, phần sau gọi là tay rượng chia làm 2 nhánh: một nhánh buộc vào đầu giềng đồi của lưới gang gọi là tay rượng đồi, một nhánh buộc vào đầu giềng chì gọi là tay rượng chì.
- Dây xiềng xiềng: nối với dây cốt hôm qua một ròng rọc, từ đó chia ra 2 nhánh, một nhánh móc vào giềng đồi gọi là tua đồi, một nhánh móc vào giềng chì gọi là tua chì.
- Dây xôm (còn gọi là dây làm lưới): dùng cột vào 2 dây chão lớn của các đầu dây tráng. Khi kéo lưới, một trong hai thuyền dùng dây xôm như dây chão để buộc mũi bè thích hợp.
- Dinh Ông: lăng thờ Ông Nam Hải (cá Voi).
- Dò nước: ông chèo dọc sau khi nghe người coi nước hô “Lui” thì quan sát dòng nước chảy mà đề ra phương án đánh bắt thích hợp.
- Dời: đơn vị tính cổ truyền, 1 dời = 20 sải.
- Dúng: đơn vị tính cổ truyền, cứ 5 sợi loại dài 4 sải = 1 dúng.
Đ
- Đại diện: người thay mặt nghiệp chủ quản lý sở đầm ngoài biển.
- Đầm đăng: vị trí đặt lưới đăng. Qua theo dõi nhiều năm, ngư dân đã xác định được một số vị trí tương đối chính xác để đặt giàn lưới đăng đánh bắt cá hiệu quả. Vì thế, tuy bờ biển dài nhưng những nơi có thể làm đầm đăng rất ít, thời kỳ cao nhất toàn tỉnh Khánh Hòa chỉ có khoảng trên 30 sở đầm, trong đó nhiều nhất thuộc hải phận Nha Trang (13 đầm). Hiện nay, TP. Nha Trang chỉ còn 5 sở đầm hoạt động là Hòn Nọc, Sông Hồng, Hòn Xưởng, Thạch Dự và Lam Dự.
- Đầm hải đông: tên gọi các ngư trường phân bố dọc ven bờ biển và các gành đảo trong tỉnh (ví dụ vùng biển từ Hòn Đỏ đến mũi Cù Hin thuộc TP. Nha Trang trước đây phân chia thành các hải đông Cù Lao, hải đông Xương Huân, hải đông Bích Đầm, hải đông Trường Đông, hải đông Trường Tây). Ngày xưa, ngư dân hành nghề trong các vùng biển này phải đóng thuế gọi là thuế hải đông, do ông xã lạch ở làng thu.
- Đầm úc: vùng biển gần bờ, gần cửa sông, nước không sâu.
- Đi bạn: đi làm công cho chủ nghề.
- Đi khơi (còn gọi là đi kinh): đánh cá ở vùng biển nước sâu, xa bờ.
- Đi lộng (còn gọi là đi ốp): đánh cá ở vùng biển gần bờ.
- Đi phiên: chở cá từ sở đầm về bến bằng ghe phiên. Cá lưới đăng bán ra ở ghe phiên phần lớn là cá ngon, lại là cá “tươi dong”.
- Đi tới, đi tráng đông, đi xây: 3 phương án đánh bắt chính của lưới đăng. Tùy theo hướng nước chảy, người chèo dọc sẽ quyết định phương án cụ thể cho từng giác lưới. Đi tới là cách thông thường khi không gặp nước chảy (nước êm). Đi xây khi dòng nước ngoài biển chảy vô. Đi tráng đông khi dòng nước từ trong gành chảy ra.
- Đường neo: Lưới đăng sử dụng rất nhiều bộ neo để giằng giữ giàn lưới. Neo lại phải thả lài ra cho vững nên sử dụng rất nhiều dây chạc hoặc dây ny-lon lớn. Cứ khoảng 10m lưới thì đặt một mỏ neo và 50m là một đường neo. Có hai cách đặt đường neo là neo chiếc và neo đôi. Neo chiếc là một neo cố định bằng một dây. Đây là đường neo sử dụng ở những phần biên lưới nơi có độ căng rất lớn. Neo đôi là một neo cố định bằng hai dây.
G
- Gạn: động tác vừa kéo lưới vừa thu hẹp vòng rọ.
- Ghe lòi: thuyền nhỏ chở cá trên sông rạch hoặc vùng biển nước không sâu.
- Giã cào: nghề biển sử dụng công cụ lưới hình ống, có cánh hai bên, dùng ghe kéo để đánh bắt cá và các loại hải sản khác ở tầng đáy. Ghe giã cào hành nghề vào những tháng biển động, hoạt động cả ngày lẫn đêm, giàn lưới thả sát đáy, miệng giã rà trên mặt bùn, càn quét tất cả các loại hải sản vào một đảy lưới thật dầy. Nghề giã cào thường hoạt động ở vùng biển có mực nước sâu từ 6 hoặc 7m trở ra, ở những vùng không có rạng lố, đáy biển chỉ toàn cát và bùn.
- Giác lưới: một mẻ lưới đăng, gồm các công đoạn thả lưới, nhổ lưới, thu hoạch cá.
- Giàn nghề lưới đăng: một giàn nghề lưới đăng gồm 6 tấm lưới (gang, lưng, rọ, tráng, hôm, bửng) kết vào nhau bố trí thành thế trận lừa cá vô rọ. Ngoài ra còn một giàn lưới rút để sẵn trên thuyền, khi cá đã vào rọ thì thả xuống thu hoạch.
- Giềng chì: dây cạp chân lưới.
- Giềng đồi: dây cạp phần trên cùng của lưới, gắn với chao lưới.
- Giềng kình: phần ngoài cùng của cạp giềng.
- Giềng miệng: phần giữa của cạp giềng.
- Gió nam đò: gió tây nam từ vùng núi huyện Ninh Hòa thổi tạt ra biển.
- Gió cây khô: trận bão khủng khiếp xảy ra vào ngày 25 tháng Giêng âm lịch năm Thìn (không rõ năm nào, nhưng cũng cách đây trên cả trăm năm) khiến 32 ngư dân quê ở Phường Mới (Bình Định) bị thiệt mạng tại một điạ điểm lưới đăng thuộc Hòn Xưởng ở Bích Đầm ngoài khơi biển Nha Trang.
|
DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Đại tá Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan
Ngày 26 tháng 12 năm 1920, trong lần tham
dự Đại hội Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tán thành đi theo đường
lối của Quốc tế Cộng sản (còn gọi là Quốc tế III, Đệ tam Quốc tế), và
trở thành một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Tán thành “đi theo Quốc tế Cộng sản”, có
lẽ Nguyễn Ái Quốc nghĩ nhiều về đường lối ủng hộ các dân tộc thuộc địa
giành độc lập, trong đó có tổ quốc Việt Nam, về một điểm tựa một hậu
phương lớn mạnh, duy nhất bấy giờ cho cách mạng Việt Nam.
Năm 1930, với Chính cương, Điều lệ tóm tắt khi thống nhất ba đảng, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam “chia giai cấp địa chủ ra đại, trung, tiểu”, lôi kéo các tầng lớp trí thức vào hàng ngũ Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã bị “phê bình” là “quốc gia chủ nghĩa”.
Bất đồng ý kiến với Nguyễn Ái Quốc, Quốc tế Cộng sản lo lắng cho chặng đường tiếp sau.
Cuối cùng, Nguyễn Ái Quốc đã xin được phép rời Matxcơva, không được phụ cấp tài chính, không cấp giấy giới thiệu.
Qua nhìn nhận tình hình Đông Dương trước
nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới sắp xảy ra do chủ nghĩa dân tộc
hẹp hòi Đức khởi xướng, Quốc tế Cộng sản cuối cùng cũng đã thay đổi ý
kiến, tức là chấp thuận quan điểm mới, chính xác của Nguyễn Ái Quốc về
vấn đề các dân tộc thuộc địa đấu tranh cách mạng giành giải phóng dân
tộc.
Từ ngày 25 tháng 7 đến 20 tháng 8 năm
1935, Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản đã đề ra và chủ trương “cần
phải thành lập mặt trận thống nhất của giai cấp vô sản để tập hợp các
khuynh hướng chính trị, xã hội, tín ngưỡng khác nhau để chống chủ nghĩa
phát xít và nguy cơ chiến tranh. Mặt trận thống nhất sẽ có những hình
thức khác nhau ở các nước, những nét riêng của từng nước mà trình độ,
đặc điểm kinh tế xã hội, quan hệ giai cấp và phong trào quần chúng khác
nhau.” (Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam tập I, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, 2004, tr. 116).
Tình hình thực tiễn ở Việt Nam cho phép
kết luận rằng: “Năm 1935 là năm “khai tử”, chấm hết quan điểm đấu tranh
giai cấp kiểu phương Tây trong xã hội phương Đông, cụ thể là ở Việt Nam,
trong một xứ thuộc địa đế quốc cai trị, đang tiến hành cuộc đấu tranh
giành giải phóng dân tộc (Năm 1950, trong bài Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đăng trên tờ Sinh hoạt nội bộ ở Việt Bắc, ký tên X.Y.Z, Bác Hồ viết: “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc (Nguyễn Văn Khoan, Đi tới một mùa xuân tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân, 2007))
Tháng 9 năm 1937, Hội nghị mở rộng Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương
“kiểm điểm, đánh giá sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào qua hai năm thực
hiện Mặt trận Dân chủ” đã phê bình “các đồng chí mắc phải bệnh thiên về
thợ thuyền lao động quá, có khi chỉ biết có đám người ấy thôi mà quên
hết cả quyền lợi của các tầng lớp giai cấp khác”. (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr 201-262).
Ngày 26 tháng 6 năm 1940, Trung ương Đảng
Cộng sản Đông Dương, khoá này do Nguyễn Văn Cừ làm Tổng bí thư (Trường
Chinh được cử vào Ban chấp hành Trung ương, tại hội nghị lần thứ 7,
tháng 11 năm 1940) đã ra lời kêu gọi “toàn dân đứng dậy
đấu tranh trong hàng ngũ mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông
Dương”. Lời kêu gọi – tuyên ngôn này ra đời sau khi đế quốc Pháp quy
hàng Hít-le. Trung ương Đảng coi đây là “cơ hội tốt có một không hai để
đánh đổ đế quốc thuộc địa” và kêu gọi “tinh thần đoàn kết rộng rãi từ các bậc thượng lưu trí thức (chúng
tôi nhấn mạnh vì Phạm Quỳnh là thành viên của các “bậc” này) đến các
hàng viên chức, hội tề, cho đến các công, nông, binh, các lớp dân chúng
cần lao và các chị em phụ nữ và các giới, tất cả những ai yêu nước
(chúng tôi nhấn mạnh, vì theo lời Hồ Chí Minh: “Hễ là người Việt Nam,
ai cũng có lòng yêu nước và mỗi người yêu nước theo cách của họ chứ
không phải chỉ có đảng viên cộng sản mới yêu nước hoặc cộng sản là người
yêu nước hơn.” -NVK)
Sau khi Nguyễn Ái Quốc về nước (đầu năm
1941), Hội nghị Trung ương lần 8 họp tại Pác Bó (Cao Bằng) vào tháng 5
ngày 19 năm 1941 đã xác định: “Cuộc cách mạng trước mắt là cách mạng
giải phóng dân tộc. Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng,
không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể
quốc gia dân tộc (bao gồm cả sĩ, nông, công, thương binh, các tôn giáo,
dân tộc… NVK) còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai
cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Do đó, “Hội nghị đặt ra yêu
cầu cần có những thay đổi căn bản trong chính sách đoàn kết, tập hợp lực
lượng cách mạng cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới và chỉ rõ: phải
thống nhất lực lượng cách mạng toàn Đông Dương, tất cả các giai cấp,
các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo không phân biệt thợ thuyền, dân
cày, phú nông, địa chủ, tư sản, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng
nhau thống nhất thành mặt trận cách mạng chung”.
Để thực hiện đường lối đoàn kết rộng rãi ấy, đường lối đại đoàn kết, hội nghị đã thành lập Mặt trận Việt Minh.
Mặt trận Việt Minh kêu gọi: “nông dân phải vào Nông dân cứu quốc hội;
phụ nữ phải vào Phụ nữ cứu quốc hội; trẻ em vào Nhi đồng cứu quốc hội;
binh lính vào Binh lính cứu quốc hội; các bậc văn sĩ phú hào vào Việt
Nam cứu quốc hội.”
Nhân dịp Hội nghị Trung ương lần thứ 8,
Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc này quyền lợi
dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ
bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa
nóng.”
Tháng 8 năm 1943, nhận định rằng sau thất
bại nặng nề ở Stalingrát, phát xít Đức đang đứng trước nguy cơ thua
trận cuối cùng, thời cơ khởi nghĩa sắp đến gần, phải tập trung, thống
nhất lực lượng đông đảo hơn nữa, cần một lần nữa nói rõ quan điểm của
Việt Minh, báo Việt Nam Độc Lập số ra ngày 21
tháng 8 năm 1943, dưới khẩu hiệu: “Tiến lên vũ trang khởi nghĩa” đã nhắc
nhở: “chúng ta phải nhớ rằng lực lượng chúng
ta là ở chỗ đoàn kết, đoàn kết toàn dân, đoàn kết đàn ông, đàn bà,
người già, trẻ con, đoàn kết người làm ruộng, làm thợ, bán buôn, người làm việc cho Tây (tức thực dân, đế quốc Pháp), người đi lính cho Tây” (Chúng tôi nhấn mạnh-NVK) (Bản gốc lưu trữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam).
Như vậy là đã quá rõ ràng: Phạm
Quỳnh, một nhà viết báo, viết văn, một người “vào bậc thượng lưu trí
thức”, một người “đã làm việc cho Tây”, cũng đã được Đảng Cộng sản Đông
Dương và Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh cũng như Ban chấp
hành Trung ương Đảng từ 1935, đưa vào diện đoàn kết – đoàn kết rộng rãi –
đại đoàn kết, để cùng đấu tranh giải phóng dân tộc.
Hai năm sau khi bài báo này công bố – bài
viết mà nhiều nhà khoa học, nghiên cứu lịch sử Đảng, nghiên cứu Hồ Chí
Minh nghĩ rằng “chỉ có Bác, với tư cách của mình mới viết được rõ ràng
như vậy”- cũng đúng vào tháng 8 – tháng 8 năm 1945, nhân dân ta đã tổng
khởi nghĩa giành được chính quyền, thắng lợi to lớn, bước đầu rất quan
trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất cuối cùng
sẽ đến vào năm 1975.
Có thể cho phép chúng ta suy luận là khi ở
khu căn cứ Việt Bắc, Khu Giải phóng – nơi đã thành lập Uỷ ban Nhân dân –
Hồ Chí Minh đã nghĩ tới một chính phủ của nước Việt Nam mới trong tương
lai gần. Và một trong những thành phần của chính phủ ấy là sự có mặt
của các bậc “thượng lưu, trí thức, văn sĩ, phú hào”, cả những người “đã
đi lính cho Tây, làm việc cho Tây”. Lịch sử sau này đã ghi lại một danh
sách dài những vị đó, từ vua Bảo Đại, khâm sai đại thần Phan Kế Toại đến
các thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Phạm Phú Tiết… và các bộ trưởng của chính
phủ Trần Trọng Kim như Phan Anh, Trịnh Đình Thảo… cùng rất nhiều trí
thức tư sản khác như Lê Văn Hiến, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường,
Đặng Phúc Thông, Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện, kể cả những tổng đốc đã có
một thời “đàn áp cộng sản” như Vi Văn Định…
Như vậy, công bằng mà xét, Phạm Quỳnh cũng được đứng vào hàng ngũ những người kể trên.
Nhưng không phải riêng Phạm Quỳnh, mà
nhiều người khác, trước tháng 8 năm 1945 đã bị quy tội là “theo Pháp”,
“phản động”… “làm cho Pháp”. Đúng là vậy, nhưng Phạm Quỳnh vẫn được xếp
trong “danh sách” những người “làm việc cho Tây, đi lính cho Tây”, để
được thu hút vào Việt Minh, để đoàn kết với mọi “giai tầng” khác. Phạm
Quỳnh “phản động” nhưng chưa có chứng cứ gì trực tiếp đàn áp phong trào
cộng sản, làm chỉ điểm. Còn như giữ hai chức thượng thư Bộ Học, Bộ Lại
thì cũng chỉ để làm vì, để lấy cớ làm việc khác mà mình muốn thực hiện
thôi.
Phạm Quỳnh yêu nước theo cái cách của ông
là làm “quân chủ lập hiến”. Ngoài ra ông viết báo, viết sách “mở tai,
mở mắt” cho đồng bào, tài sản trí tuệ của ông để lại cho dân, cho nước
không phải là nhỏ. Ý kiến của Phạm Quỳnh về mặt tư tưởng đã không thống nhất với các đảng viên cộng sản. Xin nhớ rằng trên báo Thanh Niên,
từ năm 1925, Lý Thuỵ (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh) có căn dặn các hội
viên Thanh Niên: “phải tôn trọng ý kiến người khác”, “phải biết hy sinh ý
kiến”.
Nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Phạm
Quỳnh cần được làm rõ, vì tư thù cá nhân, vì “vô chính phủ”, vì e ngại
khi bọn Pháp vào Thuận An hỏi về Phạm Quỳnh (trong khi chưa có chứng cứ
gì là Phạm Quỳnh liên lạc với chúng).
Có một thực tế là các người con của Phạm
Quỳnh đều rất “ôn hoà”. 13 người trai, gái thì cô Phạm Thị Giá vợ Tôn
Thất Bình, hiệu trưởng điều hành trường Thăng Long (nơi quy tụ những
Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Quang Đạm…), cô Phạm Thị Thức
là vợ Giáo sư Đặng Vũ Hỷ giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1), cô Phạm Thị
Ngoạn, vợ Nguyễn Tiến Lãng. Ông Lãng từng là “trợ thủ” của tướng Nguyễn
Sơn ở Liên khu 4. Bà Ngoạn là tiến sĩ văn chương Việt Nam ở Pháp. Còn
Nhà giáo Nhân dân, giáo sư Phạm Khuê là viện trưởng Viện Lão khoa, ông
Phạm Tuyên là “Nhạc sĩ của nhân dân” với bài hát “Như có Bác trong ngày đại thắng”. Còn phải kể đến cô Phạm Thị Hoàn, vợ nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, tác giả bài hát mà thời đầu Cách Mạng Tháng Tám các anh Vệ Túm thường hát: Một đi là không trở về…
Mà ông Châu lại là cháu nội cụ cử Lương Văn Can. Cũng có thể nghiêm
khắc hay thông cảm mà nói rằng: trong số hơn 10 người con của Phạm Quỳnh
cũng có người vì nhiều lý do đã “hồi cư”, rồi ra nước ngoài… Nhưng gia
đình này đã không trực diện làm gì hại đến dân tộc, tổ quốc. Họ đã ít
nhiều nghe theo lời dặn của Hồ Chí Minh. “Cụ Phạm (Phạm Quỳnh) là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng”.
Cũng nên đối chiếu thêm việc các con
trai, con gái Phạm Quỳnh mất cha, cùng chung một lần với Ngô Đình Diệm
mất anh (Ngô Đình Khôi) và cháu (Ngô Đình Huân, con trai Ngô Đình Khôi).
Trong lần tiếp Ngô Đình Diệm năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói”
“Khi dân chúng bị ức hiếp nổi dậy, lỗi lầm không thể tránh khỏi và
chuyện bi thảm đã xảy ra. Nhưng tôi vẫn luôn luôn tin rằng hạnh phúc của
nhân dân vượt lên trên những lỗi lầm đó. Ông (Ngô Đình Diệm) có những
điều oán hận chúng tôi, ta hãy nên quên đi” (Theo Hanleng Karnow, Viet Nam: A History (Lịch sử Việt Nam)
New York, 2003 bản dịch của Lê Xuân Khoa). Nhưng Ngô Đình Diệm, dù vẫn
là một người yêu nước, yêu nước theo cách của ông ta, vẫn không vượt qua
được oán hận của gia đình (với anh, với cháu) để vì “hạnh phúc” của
nhân dân (Sổ tiếp khách của Hồ Chủ tịch, lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam ghi: “Ngày 15/1/1946, tiếp Ngô Đình Diệm”).
Khi được tin Phạm Quỳnh không còn nữa, có thông tin cho rằng Bác Hồ nói: “Các chú làm hỏng việc rồi”. “Việc” có thể là “việc” của Bác đã suy nghĩ về cách mời Phạm Quỳnh ra làm gì đó cho “việc” dân, “việc” nước chăng?
Dù sao cũng đã lỡ rồi, nhưng cũng rất cần “lịch sử đánh giá lại” Cụ Phạm như lời Hồ Chí Minh…
N.V.K.