Wednesday, 11 September 2013

talawas có thực sự hướng đến cộng đồng không? (N. Xu - Talawas)


11.12.2003
N. Xu
Trong bài viết này tác giả N. Xu trực tiếp đặt ra một số câu hỏi với talawas: sự thiết thực và tính thực tiễn của các tranh luận trí thức, tính mục đích của một diễn đàn trong công luận, sự khách quan và trung lập của báo chí, v.v.

talawas sẽ có hồi âm trong thời gian sớm nhất cho phép, song đây cũng là những câu hỏi đặt ra cho các tác giả tham gia và các độc giả theo dõi diễn đàn này. Mong nhận được đóng góp của quý vị và các bạn. 

talawas
Đọc bài trên talawas mấy tháng gần đây tôi thấy băn khoăn quá. talawas không phải là diễn đàn lớn, cũng chưa phải là diễn đàn cao cấp, vậy mà bài viết đăng trên talawas đã sặc mùi học thuật, tranh luận thì vô cùng phức tạp, các bài phân tích bình luận có rất nhiều tìm tòi công phu ... Chỉ một mảnh trời talawas con con mà đã có bao nhiêu vì sao lấp lánh, bầu trời cả nước có lẽ đếm không hết nhân tài. Vậy sao nước mình cứ nghèo và lạc hậu?

Tôi không biết ngày xửa ngày xửa các nền văn minh Hy La, Ai Cập hay Trung Hoa đóng vai trò như thế nào cho nền văn minh nhân loại. Nhưng tôi thấy văn minh phương tây hiện nay có vai trò rất lớn trong việc dẫn dắt thế giới trong nhiều lĩnh vực. Bằng chứng là tôi đang viết bài này bằng máy tính chạy hệ điều hành của Mỹ, bài viết xong sẽ gửi cho một diễn đàn internet được host ở Đức, và nếu bài này may mắn được đăng thì bạn đọc ở rất nhiều nơi trên thế giới có thể đọc được nó bằng tiếng Việt sử dụng unicode font.

Sao các nhân tài nước Việt nói riêng và Châu Á nói chung không làm được những việc mà nhân tài phương tây đã và đang làm được cho nhân loại nhỉ.

Tại sao những ngôi sao văn học kiểu như Nguyễn Huy Thiệp, Phạm Thị Hoài nổi đình đám trong nước nhưng bước chân ra ngoài biên giới lại gần là số không nhỉ? Tiếng Việt ít người biết chăng? Nếu chỉ là do rào cản ngôn ngữ thì các nhạc sĩ danh tiếng của Việt nam đã bao nhiêu người nổi tiếng trên thế giới (ngoại một album của Trịnh Công Sơn đã thành công ở Nhật).

Tôi hay thấy người ta nói "Xã hội phương tây khuyến khích phát triển tự do cá nhân còn xã hội phương đông phát triển theo hướng cộng đồng. Điều này dẫn đến cá nhân ở phương tây dễ phát triển đến đỉnh cao hơn ở phương đông, ngược sức mạnh cộng đồng ở phương đông mạnh hơn ở phương tây nhiều"

Thế thì tại sao các vĩ nhân phương tây làm ra được những tác phẩm vĩ đại không chỉ được cộng đồng bản xứ của họ mà cả thế giới ngưỡng mộ. Tại sao tác phẩm của Einstein và Freud làm thay đổi nền tảng khoa học của nhân loại. Tại sao nhạc của Beethoven (đã chết từ lâu lắm rồi), của Beatles (rã nhóm từ năm 70) vẫn được cả thế giới nghe. Tại sao bao nhiêu người say mê Mark Twain (đã khuất bóng từ lâu) đến thế. Và ngược lại đã bao nhiêu người trong nước mê Nguyễn Huy Thiệp (có thể thay tên Phạm Thị Hoài, Bùi Giáng, ... vào đây), theo thời gian số lượng fan trung thành của Nguyễn Huy Thiệp tăng lên hay giảm đi, và bao nhiêu "thằng Tây, con Tây" đã đọc và thích Nguyễn Huy Thiệp?

Có phải xã hội phương tây khuyến khích cá nhân phát triển hết cỡ và mỗi cá nhân đã thực sự phát triển tự do theo thiên hướng sáng tạo của mình nhưng luôn hướng về phục vụ cộng đồng. Vì lý do này mà các sản phẩm trí tuệ phương tây dù cao siêu đến mấy cũng cũng có thể tiếp cận được. Và người tiếp cận dù ở tầng lớp nào hay thế hệ nào cũng có thể tự mình thấy ít nhiều cái tinh hoa của tác phẩm mà mình đang tiếp cận.

Có phải xã hội phương đông không khuyến khích phát triển cá nhân mà thay vào đó là định hướng cộng đồng ngay từ trước khi cá nhân có ý định sáng tạo cho nên sự phát triển cá nhân chỉ dần dà chỉ đi theo một con đường duy nhất là tự hoàn thiện mình trong môi trường hẹp. Sự tự hoàn thiện mình nhìn theo khía cạnh tiêu cực tức là biến mình thành một kẻ xa rời cộng đồng, bị cô lập về tư duy sáng tạo.. Các vĩ nhân phương đông thường được nhìn nhận như một người rất cao siêu khó hiểu. Nói hay viết ra một câu mà cả ngàn đời sau vẫn không ai hiểu, hoặc thậm chí mỗi người hiểu một kiểu, nhưng tất cả đều đồng ý với nhau rằng những câu viết hay lời nói đấy quả là cao siêu và đầy ý nghĩa (điều này cực kỳ nguy hiểm). Sản phẩm trí tuệ chính vì vậy ít mang ý nghĩa xã hội hoặc biến hóa theo kiểu mị dân kiểu Khổng Tử (biết thì nói là biết, không biết thì nói không biết, vậy là biết đấy). Kết quả đáng buồn là người Châu Á nói chung và người Việt nói riêng rất thích chạy theo những sản phẩm trí tuệ khó hiểu và có giá trị xã hội rất mơ hồ, rất thích thần tượng những người kiểu triết gia ăn nói mơ hồ đa nghĩa.

Có thể lấy một ví dụ rất điển hình là những ca khúc được yêu thích nhất của Trịnh Công Sơn lại chính là những ca khúc rất khó hiểu trong khi những ca khúc mang tính xã hội cao của ông lại không nằm trong lòng công chúng nhiều lắm. Hơi nghịch lý, nhưng lại là sự thực. Đây chính là lý do mà Trịnh Công Sơn, được coi là nhạc sĩ hàng đầu của nền âm nhạc hiện đại Việtnam, cũng chỉ một lần thành công ở nước ngoài. Để giải thích cho việc này không còn lý do nào khác ngoài việc chính đồng bào của Trịnh Công Sơn còn không biết ông muốn diễn đạt điều gì nữa là người nước ngoài.

Có thể lấy một ví dụ nữa là Nguyễn Huy Thiệp (có thể lắp tên Phạm Thị Hoài, Bùi Giáng ... thay vào tên Nguyễn Huy Thiệp). Nếu hỏi một người hâm mộ văn của Nguyễn Huy Thiệp, nhất là người đó lại là dân phê bình văn học, về các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp thì chắc chắn sẽ được nghe những lời ca ngợi hào nhóang về tính đa nghĩa và triết lý sâu sắc trong từng tác phẩm. Nhưng nếu hỏi tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp có tác động như thế nào đến đời sống văn học, nền văn học Việt nam ở thời điểm chúng ra đời, ở thời điểm hiện tại, và trong tương lai thì chắc chắn câu trả lời cũng sẽ mơ hồ như tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp. Hơn nữa nếu hỏi về tác động xã hội của tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp thì chắc chắn câu trả lời sẽ là tịt ngóm. Tịt là cái chắc vì rất ít, rất ít các bạn trẻ trong nước dưới 24 tuổi đọc các tác phẩm của Nguyễn Huy Thiệp.

Quay trở lại diễn đàn talawas.

Gần đây có một vụ tranh luận khá vui về việc dịch My last tiger từ Anh qua Việt. talawas có vẻ thiên vị tác giả của bản dịch khi đăng khá nhiều bài ủng hộ trên diễn đàn chính còn những ý kiến chê bai thì giấu vào mục thư độc giả. Tôi không biết cách phê bình văn học dịch nhưng tôi biết chắc muốn dịch từ ngôn ngữ A qua ngôn ngữ B thì phải giỏi ngôn ngữ B (mà tốt nhất là giỏi cả hai). Tức là dịch Việt-Anh thì phải giỏi Anh, còn dịch Anh-Việt thì phải giỏi Việt. Nói như thế không có nghĩa là những người Việt giỏi tiếng Anh đều có thể dịch được Anh-Việt. Nếu tác giả Thường Quán dịch My last tiger cho chính mình, hoặc là dịch theo kiểu thử nghiệm cho một cộng đồng nhỏ thì Thường Quán thích dịch sao cũng được. Nhưng nếu Thường Quán muốn dịch một bài thơ của một tác giả nổi tiếng, qua tiếng Việt, để phục vụ rất nhiều bạn đọc người Việt thì bản dịch đó phải: đúng (so với bản tiếng Anh), có thể hiểu được (bằng tiếng Việt) và hay (có tính văn học). Bản dịch của Thường Quán thực chất đã sai (so với bản tiếng Anh) nên không cần tranh luận nhiều về hai tiêu chí sau. Bản dịch của Thường Quán lẽ ra nên coi là một tác phẩm phóng tác Borges theo phong cách Bùi Giáng. Những người ủng hộ Thường Quán chính là những người khoái trò triết lý đa nghĩa mù mờ và làm rối óc bạn đọc của talawas bằng những lập luận khó hiểu. Nếu Thường Quán (và những người ủng hộ) nghĩ đến cộng đồng thì sẽ chẳng bao giờ có vụ tranh luận vớ vẩn như vừa qua.

Nếu moderator của talawas muốn đây là một diễn đàn có ích cho xã hội, hoặc ít ra là có ích cho cộng đồng bạn đọc theo đúng như tiêu chí của talawas "chuyển tải thành tựu văn hóa thế giới và những thảo luận thời sự của trí thức quốc tế vào các tương quan Việt Nam ... là điểm gặp và cọ xát giữa tiếng Việt và các ngôn ngữ khác" thì vụ tranh luận về bản dịch của Thường Quán đã đi lệch khỏi tiêu chí này.

Các bài viết có tính học thuật trên talawas thường có nhiều tìm tòi phân tích sâu sắc nhưng tính thực tiễn thì rất lờ mờ (cái này là bệnh chung của Việt nam, mỗi năm có không biết bao nhiêu công trình nghiên cứu cấp quốc gia nhưng rất ít công trình có giá trị thực tế). Thế nhưng: đừng bao giờ reo vào đầu bạn đọc những hy vọng mơ hồ.

Xin lấy một ví dụ: Phạm Thị Hoài kêu gọi thành lập một giải thưởng mang tên Bùi Giáng. Bỏ qua vấn đề cái tâm của Phạm Thị Hoài với Bùi Giáng cũng như ý định tốt đẹp đối với giới cầm bút thì tính thực tế của giải thưởng này ở đâu? Giải thưởng này sẽ có ý nghĩa tài chính hay tinh thần? Hay cả hai? Nếu là giải thưởng lớn về tài chính thì việc gây quỹ cho giải thưởng sẽ như thế nào, khi gây được quỹ rồi thì ai quản trị quỹ đấy cho nó sinh sôi nảy nở hoặc chí ít là không bị tiêu xài lãng phí. Ai sẽ là người tham gia chấm giải Bùi Giáng, và tác giả hoặc tác phẩm như thế nào sẽ được trao giải. Kế hoạch hành động để biến ý tưởng của Phạm Thị Hoài thành sự thực là gì? Nếu giải thưởng chỉ có ý nghĩa tinh thần thì thành phần ban giám khảo và tiêu chí trao giải sẽ như thế nào để người nhận giải sẽ run lên vì hạnh phúc. Các độc giả khi nghe đến giải Bùi Giáng có biết Bùi Giáng là ai không, có đọc tác phẩm của Bùi Giáng không, và nếu đọc thì có hiểu không?

Trả lời các câu hỏi trên không dễ. Vì câu hỏi gốc "Phạm Thị Hoài có nghĩ đến cộng đồng (giới viết văn và giới đọc văn) không khi kêu gọi thành lập giải thưởng Bùi Giáng" cũng là câu hỏi không dễ trả lời.
Internet là một công cụ tốt để các cộng đồng khác nhau tiếp cận nhau, những con người khác nhau tiếp cận nhau, các mạch văn hóa khác nhau hòa vào nhau ... (có thể kể không hết ngày về lợi ích của Internet). Thế nhưng để một diễn đàn trên internet (ví dụ như talawas) mang lại nhiều lợi ích cho cộng đồng không phải là dễ. Nếu moderator của talawas và những người tham gia diễn đàn này không thực sự hướng đến cộng đồng thì rốt cục đây cũng chỉ là một loại báo tường mà thôi.

*

Từ thời điểm tôi viết bài này (lúc chưa được post) đến nay đã có thêm rất nhiều bài viết quanh chuyện Mãnh Cọp của Thường Quán. Tôi không biết sẽ còn bao nhiêu bài viết về câu chuyện con cọp này nữa nhưng xin các vị đã viết bài và sẽ biết bài bênh cọp cũng như chê cọp nên đọc lại những bài viết về việc dịch Hegel ra tiếng Việt (Phan NgọcPhạm Thị HoàiPhạm Việt Vinh). Tôi tin chắc là các bài viết đấy sẽ bổ ích cho các vị đấy.

Tôi không biết tiếng Đức, cũng không biết mấy về ông Hegel lẫn ông Phan Ngọc nhưng tôi biết dịch tác phẩm của một trí thức lớn như Hegel (nhất là tác phẩm gốc không phải do tác giả viết ra mà do người khác tuyển lọc từ các bài giảng của ông) ra tiếng Việt (là tiếng của một nước Á Đông không có truyền thống triết học) không phải là việc dễ. Chưa kể còn phải dịch qua một ngôn ngữ trung gian. Tôi là con nít mới biết chữ còn thấy được khó khăn như vậy thì Phan Ngọc phải thấy hơn tôi nhiều lần. Chắc chắn trước khi Phan Ngọc bắt tay vào công việc khó nhọc là dịch Mỹ học của Hegel ông cũng biết bản dịch của mình dù cố gắng đến mấy cũng không thể hoàn thiện được cũng như sẽ phải nghe những lời thị phi. Nhưng cuối cùng Phan Ngọc vẫn dũng cảm dịch và đã dịch xong. Đó là vì Phan Ngọc không nghĩ đến bản thân mình, không nghĩ đến danh, không nghĩ đến lợi. Ông chỉ nghĩ đến những người Việt Nam muốn đọc Hegel mà thiệt thòi không biết ngoại ngữ (mà kể cả biết ngoại ngữ đọc cũng chưa chắc đã hiểu). Ông nghĩ đến những dịch giả khác có thể dịch hay hơn ông những quá bận chưa thể dịch Hegel được, vậy thì ông bỏ công ra dịch trước, coi như khai phá mở đường để những dịch giả tiếp sau nếu có dịch lại Mỹ học cho hay hơn, đúng hơn, sẽ bớt vất vả hơn. Công việc (dịch Hegel) của Phan Ngọc giống như một ông giáo làng chăm chỉ thu thập kiến thức mới (đối với người dân trong làng của ông) rồi dạy lại cho trẻ con (và cả người lớn nữa) trong cái làng ấy bằng ngôn ngữ mà dân làng có thể hiểu được. Đối với các ông trí thức khác trong làng thì cách truyền đạt và ngôn ngữ của ông giáo làng có thể không hay, thậm chí sai, nhưng họ không được lấy những cái sai đó ra để phủ nhận giá trị công việc của ông giáo làng cũng như để mỉa mai rằng ông giáo làng dốt nát.

Bài viết của Phan Ngọc để trả lời Phạm Thị Hoài theo tôi có thể đưa vào sách giáo khoa đạo đức dành cho người lớn. Ông biết cách dừng lại một cách lịch sự: "Việc hiểu Hegel cho đúng quả là rất vất vả và phải có chân truyền, nếu không chỉ cãi lộn nhau mãi mà thôi" đồng thời trách nhẹ Phạm Thị Hoài mới chỉ thấy cây mà tưởng như đã thấy rừng "chị là người đầu tiên (theo tôi biết?) đã cho rằng chỉ cần biết tiếng Ðức thông thường là hiểu được Hegel"

Là một diễn đàn trung hoà (neutral) nhưng không có nghĩa talawas được thực hiện sự trung hòa đó bằng cách post mọi bài viết. Việc đăng bài của Phạm Việt Vinh sau khi Phan Ngọc trả lời Phạm Thị Hoài là một động tác đáng trách. Nó làm mất tính trung hòa vì chất lượng bài viết của Phạm Việt Vinh quá kém. Một bài viết kém tự nó sẽ mất tính khách quan. Đăng một bài phê bình có lý luận kém là tự mình đánh mất đi tính khách quan của mình đấy talawas ạ (tiêu chí và chất lượng nó liên quan đến nhau ở chố đấy đấy).

Quay lại với ông Mãnh Cọp Thường Quán. Nếu Mãnh Cọp của Thường Quán không phải là một bản dịch thì nó rất hay, và tôi sẵn sàng "cảm" bài thơ này cùng với ông Đỗ Kh. Nhưng nếu nó là bản dịch thì tôi sẽ hơi nghi ngờ vì sao Borges làm thơ giống Bùi Giáng thế. Nếu dịch một bài thơ chỉ vì sĩ gái hay lấy le với anh em nghệ sĩ thì xin mời ông Thường Quán dịch kiểu gì cũng được. Nhưng nếu ông muốn lấy le với cả những trí thức nho nhỏ như bọn tôi (rất là đông đấy) thì ông nên dịch kỹ hơn. Bản dịch Mỹ học của Phan Ngọc nếu có dở thì vẫn có ích cho nền học thuật nước nhà vì nó là viên gạch Hegel đầu tiên, còn bản dịch Mãnh Cọp nếu có hay thì cũng chỉ làm vui tai cá nhân ông và một nhóm nhỏ ủng hộ viên của ông thôi.

© 2003 talawas 

Câu chuyện dịch "Mỹ học" của Hegel (Phan Ngọc - Talawas)


19.8.2002
Trả lời chị Phạm Thị Ho� i
Một anh bạn cho tôi xem bài phê bình của chị Phạm Thị Hoài về bản dịch quyển "Mỹ học" của Hegel của tôi. Tôi nấn ná không trả lời ngay, một là vì bận nhiều, hai là vì bạn bè còn bảo tôi không nên trả lời. Cái khó ở đây không phải là nội dung của câu chuyện mà ở thái độ: nói thế nào để không mang tiếng là người "hộ đoản" - thuật ngữ Trung Quốc chỉ người khăng khăng bảo vệ sai lầm của mình.

Một thí dụ. Trong bản dịch "Mỹ học" của Hegel, tôi dịch thuật ngữ Entfremdung (tiếng Pháp làalíénation) thành "tha hoá". Cách dịch này không phải của tôi. Nếu chị Hoài tham khảo kỹ hơn, chị sẽ thấy các anh Trương Tửu, Trần Ðức Thảo nói chung đều dùng thuật ngữ này. Chị Hoài nhận xét cách dịch trên của tôi như sau:

"Sự tha hoá tiếng Việt của Entfremdung cũng vậy. Thuở ban đầu, khi đi kèm với "biến chất", nó vẫn quanh quẩn ở đâu đó trong phạm vi có thể truy nguyên về nghĩa gốc, những trong tư duy của nửa thế kỷ qua thì "biến chất" tất yếu là chuyển từ chất vô sản, tiến bộ, tốt đẹp sang chất tư sản, xấu xa. Biến chất là tha hoá. Vậy ngoại tình là tha hóa, viết văn ủy lụy cũng là tha hóa, lười lao động cũng là tha hóa, một lúc nào đó muôn vàn sự đổ đốn - của con người đều được gọi chung là sự tha hóa (4), chỉ có cái Entfremdung của Hegel ngơ ngác đâm đầu vào đấy là nhầm cửa mà thôi".

Cách nói của chị Hoài quả là gay gắt, thực tình tôi không hiểu tại sao từ chỗ phê bình cách dịch một thuật ngữ chị lại đi đến chỗ bàn về một nội dung nằm ngoài mục đích phê bình với những lời lẽ chắc như đinh đóng cột đến vậy được nhỉ. May mà ở chú thích (4), chị giải thích cách chị hiểu chữ tha trong tha hóa như sau :"Nhiều người cho rằng "tha" trong "tha hoá" cùng một nghĩa như trong "thối tha".

Xin trả lời chị là không người Việt nào lại hiểu chữ "tha" trong "tha hoá" có cùng một nghĩa như chữ "tha" trong "thối tha". Chữ "tha" ở đây có nghĩa là "khác" như trong tha hương (nơi không phải quê hương mình), tha phương cầu thực (kiếm ăn ở nơi xa lạ), lòng vị tha (lòng nghĩ đến người khác)... Muốn tạo ra một từ kép mới, trước hết người Việt bao giờ cũng dùng âm tiết đầu thuần Việt, hay Hán Việt có nghĩa khi đứng một mình. Chị hãy nghĩ xem, có người nào lại lấy một yếu tố láy âm không có nghĩa như tha trong thối tha để tạo thành từ kép không? Tha ở đây là láy âm của thối. Cấu tạo láy âm như thế này rất nhiều trong tiếng Việt, như: xót xa, lê la, ngâm nga..., rồi tùy theo cái dấu ở âm tiết đầu mà âm tiết thứ hai đổi dấu theo luật bằng trắc như ta thấy trong: vội vã, dần dà, hối hả... Cho nên trong tiếng Việt không bao giờ có thể có chữ "tha hoá" theo nghĩa "làm cho thối tha" được. Tôi biết chị muốn dạy ngôn ngữ học tiếng Việt cho tôi. Nhưng làm sao có thể "tha hoá" tiếng Việt theo kiểu của chị được?

Cũng vì vậy, tôi nghĩ mình không nên và không thể nào tranh luận với chị về cách dịch các thuật ngữ. Phần lớn các thuật ngữ này tôi lấy của Chu Quang Tiềm - một người nổi tiếng ở Trung Hoa về tiếng Ðức và rất thông thạo Hegel. Việc hiểu Hegel cho đúng quả là rất vất vả và phải có chân truyền, nếu không chỉ cãi lộn nhau mãi mà thôi. Tôi đã học Hegel với anh Trần Ðức Thảo. Chị có quyền bác bỏ cách dịch của tôi, nhưng vì chị chưa nêu cụ thể cách hiểu của chị về từng khái niệm như chị đã phân tích hai chữ "tha hoá", cho nên nếu tôi tranh luận chẳng hoá ra vẽ rắn thêm chân, cố tình xuyên tạc chị sao?

Tác phẩm "Mỹ học" không phải do chính Hegel viết ra, nó chỉ là tập bài giảng bằng miệng của ông. Sau đó, một số sinh viên ghi lại, rồi người ta sắp xếp lại và cố gắng xoá bớt những chỗ mâu thuẫn, trùng lặp - những điều khó tránh khỏi khi trình bày miệng, còn tác giả thì khi đó đã qua đời. Các bản ghi lại bài giảng có những chỗ trùng lặp và không nhất quán, tuy trong bản tiếng Ðức mà chị Hoài sử dụng đã cố gắng gạt bỏ những chỗ ấy, nhưng những chỗ ấy vẫn còn. Cho nên các bản dịch của Jankélévich, Popov và Stolpner, Chu Quang Tiềm đều có những điểm không theo bản tiếng Ðức. Phần lớn những lời chị chê trách tôi nhìn chung đều có trong các bản dịch kể trên, trong đó có thể có điều tôi sai bởi người nào cũng phải có những lúc dịch một thuật ngữ Ðức thành nhiều thuật ngữ khác nhau cho phù hợp với tinh thần Hegel theo như họ quan niệm. Tôi không tranh luận với chị được còn vì hiểu biết Hán học của chị không giống ai và chị là người đầu tiên (theo tôi biết?) đã cho rằng chỉ cần biết tiếng Ðức thông thường là hiểu được Hegel. Trong cách nói của chị có cái vẻ tự tín làm người đọc như tôi đâm sợ.

Tôi không hề giận chị Hoài về cách nói. Ðời tôi đã phải chấp nhận những lời phê bình như thế suốt hơn 20 năm, cho nên tôi đã quen. Tôi sống nhỏ bé, không nói năng ồn ào, cố gắng làm một vài việc nhỏ dù vất vả, bản dịch "Mỹ học" của Hegel chính là một trong vài việc nhỏ đó. Trong đời mình, ít nhất từ năm 1960, tôi không cầu xin một ân huệ nào, cũng không nói xấu ai để mưu lợi cho mình, chỉ hy vọng cuộc đời sẽ làm chứng cho tôi về cố gắng nhỏ bé ấy. Còn ngoài ra, rồi tất cả sẽ trở về với cõi hư vô, vậy hãy cố gắng sống và làm việc đúng như những gì mình có, thế là tốt rồi, chị Hoài ạ! 

Sấm Hegel (Phạm Thị Hoài - Talawas)


9.6.2002
Phạm Thị Hoài
Bertolt Brecht từng tuyên bố: „Người nào đọc Hegel là lỗi tại người ấy.“ („Wer Hegel liest, ist selbst schuld.“) Tôi không tự nguyện đọc Hegel bao giờ, cũng không ngờ có Mĩ học (Ästhetik) của Hegel trong tiếng Việt trước, còn những tác phẩm trụ cột, ít nhất là Phänomenologie des Geistes, có lẽ lại không bao giờ xuất hiện. Dịch Hegel sang tiếng Việt là việc hiếm người dám làm. Phan Ngọc đã thực hiện việc ấy, có lẽ trong cả chục năm ròng rã. Kết quả là Mĩ học, trọn bộ hai tập với lời giới thiệu của dịch giả, tổng cộng gần 1800 trang, nhà xuất bản Văn Học, Hà Nội, 1999.

Sự nổi tiếng của tác phẩm này, như tất cả những tác phẩm một thời gian dài bị khoá trong hai cái ngoặc kép „có vấn đề“ (vì sao lại ngoặc kép, tôi không bao giờ cắt nghĩa nổi) mà thỉnh thoảng vẫn bị kẻ sành sỏi moi ra vài câu đầy trọng lượng để trích dẫn, rất đắt, cũng như uy tín của dịch giả khiến người đọc bản tiếng Việt tuy sớm đầu hàng, song phần đông còn sớm trút bỏ mọi hoài nghi hơn. Vả lại Mĩ học-Hegel ấy của Phan Ngọc không phải không dùng được vào việc gì. Dùng để bói, như Kinh Dịch, Trạng Trình, Nostradamus, có lẽ rất thích hợp. Giở bất kì trang nào trong gần 1800 trang đó, kể cả những trang mục lục, cũng trúng ngay một câu không có cách nào hiểu bằng lí trí đơn thuần. Dường như chỉ dành cho những trí tuệ siêu đẳng. Dường như dùng siêu ngôn ngữ. Chúng là những câu sấm.

Mĩ học của Hegel trong nguyên tác không phải là tác phẩm khó đọc và khó hiểu nhất. Nó vốn là các bài giảng ở đại học Heidelberg những năm 1817, 1818 và Berlin 1820/21, 1823, 1826 và 1828/29 về triết học nghệ thuật, sau này được soạn thành bộ. Ông thầy Hegel đứng trên bục có lẽ đã phải truyền đạt những tư tưởng dù không đơn giản của mình sao cho người nghe có thể theo dõi và tiếp thu được. Ngôn ngữ của các bài giảng ấy là một ngôn ngữ hàn lâm trừu tượng nhưng tương đối sáng tỏ, phần lớn là đủ mạch lạc, nhiều đoạn dài còn có vẻ giản dị. Không hề là ngôn ngữ sấm.

Tôi xin phép khẳng định ngay rằng, đánh giá bản dịch của Phan Ngọc bằng cách so với nguyên tác là việc không đòi hỏi công sức gì đáng kể. Nếu nó chỉ có một số sai sót thì tìm ra chúng giữa gần một triệu chữ sẽ khổ công lắm. Nhưng nó không sai sót một cách khiêm tốn như vậy. Thật may là gần như toàn bộ bản dịch đều sai cả. Hoạ chăng phải làm ngược lại: phải lặn lội giữa gần một triệu chữ ấy, tìm ra một vài chỗ đúng. Song chúng ta biết rằng, một vài chỗ đúng không có giá trị gì, vì triết học nghệ thuật của Hegel là một hệ thống có trình tự và quy củ của nó, tuy chứa đựng không ít mâu thuẫn (từng được các học giả mác-xít rất chú mục), lại thêm một số rối ren do việc biên soạn các bài giảng thành một bộ sách đem lại, nhưng muốn vào thì không thể nhảy cóc và đọc tủ. Cái sai chỉ ở một chỗ dù nhỏ trong bản dịch cũng khiến mọi cái đúng trước đó và sau đó thành vô nghĩa, thậm chí có thể thành xuyên tạc.

Có ba khía cạnh liên quan đến chất lượng bản dịch cần lưu ý:

1. Bản tiếng Việt chúng ta đang nói tới được dịch từ tiếng Nga, có tham khảo một số bản tiếng Nga, Pháp, Trung khác và đối chiếu với bản tiếng Ðức [1] . Bản tiếng Ðức ra năm 1955 chỉ có thể là bản của Friedrich Bassenge, do Aufbau-Verlag Berlin und Weimar xuất bản, vì vậy tôi cũng dùng bản đó để đối chiếu một lần nữa. Việc chuyển qua chuyển lại, từ tiếng Ðức sang tiếng Nga, từ tiếng Nga sang tiếng Việt, với sự tham dự không rõ mức độ của tiếng Pháp và tiếng Trung, khiến một số yếu tố nhất định như cấu trúc câu, giọng văn, nhịp văn, hình ảnh, cách diễn đạt, những chi tiết đệm... không còn giá trị so sánh nữa, vậy tôi xin bỏ qua, chỉ tập trung vào những gì không được phép sai lệnh dù qua bao nhiêu chuyển dịch. Ai đó có thể hỏi, sao dịch giả không dịch thẳng từ bản tiếng Ðức, khỏi mất công đi vòng rồi lại quay về đối chiếu với chính bản tiếng Ðức. Tôi không thấy thắc mắc này hoàn toàn hợp lí. Việc đối chiếu, có lẽ trong trường hợp này là đối chiếu giản lược, không nhất thiết đòi hỏi khả năng ngoại ngữ như việc dịch. Vậy tôi sẽ không lấy bản tiếng Ðức ra làm chuẩn mực khe khắt, dịch giả đã không trực tiếp dịch từ tiếng Ðức. Công bằng hơn cả phải đánh giá bản dịch của Phan Ngọc trên cơ sở gốc của nó là bản tiếng Nga năm 1968. Các bản dịch Hegel ra tiếng Nga nói chung đều được giới chuyên môn ở Ðức xếp vào hạng có uy tín. Cá nhân tôi càng không tin là nước Nga, ở thời điểm đó là cường quốc Liên Xô, cố tình bóp méo Hegel, khiến Hegel kiểu Việt vô tình méo theo, song cũng không dám nhất quyết loại trừ một khả năng chưa được kiểm chứng mà lại li kì như vậy. Tuy nhiên có hai lí do khiến việc dùng bản tiếng Ðức để đánh giá vẫn là cần thiết: thứ nhất, dịch giả cho biết có đối chiếu với bản tiếng Ðức, dù không nêu rõ đối chiếu ở cấp độ nào; thứ hai, mục đích chính của chúng ta cuối cùng vẫn là để xác định: tác phẩm Mĩ học của Hegel trong tiếng Việt - nếu nặng lời - là sự huỷ diệt nguyên tác trong tiếng Ðức, mà cái xác ấy, nói theo ý Nguyên Ngọc [2] , thật tội nghiệp không còn là xác Hegel. Nói nhẹ hơn, nó là một biếm hoạ miễn cưỡng của nguyên tác, có thể gây hiệu quả ngoài ý muốn, là khiến người đọc phải thường xuyên bật cười.

2. Mĩ học của Hegel gần như là tác phẩm triết học phương Tây đồ sộ đầu tiên được dịch sang tiếng Việt và chính thức lưu hành ở Việt Nam, nếu không kể những tác phẩm triết học Marx-Lenin (dường như không được tính vào phương Tây) và một ít tác phẩm triết học hiện đại, chủ yếu của Pháp và Ðức, từng được phổ biến ở miền Nam trước 1975. Chỉ nói riêng về phương diện thuật ngữ, người dịch đi tiên phong như Phan Ngọc cũng hầu như không thể không thất bại trước hai thử thách quá sức một người đơn độc.

Thứ nhất, phải tự mình xây dựng một hệ thống thuật ngữ phần lớn chưa ai biết. Về điều này, Nguyên Ngọc đã trình bày rất rõ. Với bản dịch Mĩ học, Phan Ngọc có thêm một đóng góp ngoạn mục vào tình trạng hỗn loạn thuật ngữ nói chung, song ông không phải là người đầu tiên và cuối cùng. Ðương nhiên những bất cập ở một dịch giả có uy tín bao giờ cũng có vẻ trầm trọng hơn tự chúng.

Thứ hai - và ở đây thì chúng ta cũng thật khó trách riêng một Phan Ngọc -, một phần đáng kể các khái niệm triết học phương Tây, dù có được dịch chính xác, cũng không thể truyền đạt đúng nội dung mà chúng tải, vì nghĩa của chúng trong tiếng Việt đã bị chiếm, bị cố định, và bị lũng đoạn quá lâu dài và mạnh mẽ bởi những hệ thống tư duy và môi trường văn hoá khác.

Ðịa vị thống lĩnh mấy ngàn năm của các tư tưởng phương Ðông truyền thống trong tiếng Việt khiến mọi tư tưởng khác muốn xuất hiện và trụ lại trong ngôn ngữ này phải đủ sức cạnh tranh thật sự, hoặc phải được bảo hộ và bao cấp mãnh liệt, hoặc phải tìm ra những cơ hội và phương tiện chưa bị sở hữu. Một ví dụ nhỏ: nếu chữ sắc không có một đời sống vững vàng thuộc hẳn về Phật giáo như thế, thì cái Schein của Hegel trong Mĩ học dịch thành sắc có lẽ là đắt. Nếu phải dịch, tôi cũng tránh chữ sắc mà dùng chữ vỏ. Song Phan Ngọc đã làm khác, ông dịch là ngoại hiện, để rồi đương nhiên sẽ khó xử với những khái niệm khác như das Äußere, der Ausdruck, Entäußerung, Vergegenständlichung, và nhất là Erscheinung, rồi gần như trong cùng một câu, vẫn cái ngoại hiện ấy được dịch là bộc lộphát hiện và biểu hiện (tr. 65, I). Tất cả những tâm, thức, tuệ, tri, giác, niệm, định, hằng, tồn, ngã, dục... đều đã yên bề như vậy cả, không dễ gì huy động vào việc trái với thói quen lâu đời của chúng.

Ðịa vị độc tôn nửa thế kỉ nay của chủ nghĩa Marx-Lenin, hay quan trọng hơn: toàn bộ môi trường văn hoá nảy sinh từ sự hiện diện của nó tại Việt Nam, cũng đẩy mọi tư tưởng khác vào thế bất lợi về ngôn ngữ diễn đạt [3] . Một trong những dấu ấn còn lâu mới phai mờ trong tiếng Việt, dù những thế lực đóng dấu ấn ấy có thể đang qua đi, là dấu ấn của ngôn ngữ cách mạng với thói quen khuếch trương mọi nội dung cần truyền đạt lên tầm hoành tráng và cao cả. Một tập thể, một xã hội, một nhân loại được mệnh danh là tiến bộ, dường như hoành tráng hơn một cá nhân, vậy đời sống cá nhân hãy khoác lấy tấm áo ngôn ngữ cỡ rộng vốn dành cho sinh hoạt tập thể. Ðiều thú vị là phần lớn chúng ta bơi trong cái áo thùng thình, bùng nhùng, rõ ràng là thứ đi mượn ấy, không những không ngượng mà còn nhanh chóng thấy hợp ý. Vừa cất giấu an toàn phần riêng tư của mình, vừa như được nâng lên một tồn tại lớn lao hơn. Chúng ta khôngkhuyên bảo nhau nữa, mà đả thông nhau; thay vì phải lòngngỏ lờiyêu đương rồi lấy nhau thì chúng ta tiến hành các bước: có cảm tìnhđặt vấn đềtìm hiểu, rồi xây dựng hoặc tổ chức. Mở miệng là chúng ta xuất ra những ý thức, tinh thần, tình hình, hoạt động, lí tưởng, giác ngộ, ý chí, tâm niệm, chủ trương, mục đích v.v... Rủi cho Hegel và càng rủi cho Phan Ngọc, những khái niệm then chốt trong Mĩ họcGeist, Ideal, Wirklichkeit, Entfremdung... đều là những chữ chúng ta ưa phát ngôn như thế:

a. Hoặc đó là những chữ đã có nơi chốn, đã kết-nghĩa rõ ràng, không còn một chút tự do nào nữa. Nói cách khác, dường như cái vỏ chữ của chúng đã đóng kín, không nghĩa mới nào còn lách được vào. Chúng là những con thuyền đã cắm bến, không nhận chở thêm nghĩa nào, nhất là nghĩa lạ. Cái Weltanschauung ở Marx đã chắc chắn là thế giới quan trong tiếng Việt, dường như vì thế mà Phan Ngọc khó xử với cái Weltanschauung ở Hegel, thỉnh thoảng ông cho phép nó vẫn là thế giới quan, còn phần lớn là nhãn kiến thế giới, và có lúc – lúc quan trọng - nó bỗng là cái nhìn của thế giới. Hegel: Totalität der Weltanschauung, Phan Ngọc: cái nhìn của toàn bộ thế giới (!). Quả nhiên phải bật cười. Das Ideal của Hegel, Phan Ngọc dịch là lí tưởngLí tưởngtrong tiếng Việt có một đời sống hoàn toàn khác, bị hạn chế trong những nội dung rất cụ thể. Một thời gian dài, lí tưởng được hiểu duy nhất theo nghĩa lí tưởng cách mạng mà biểu hiện cụ thể là việc đi theo cách mạng, trở thành đảng viên cộng sản. Lí tưởng trong nghệ thuật thì đơn giản là hoài bão sáng tạo nghệ thuật. Còn lí tưởng theo nghĩa phổ biến nhất thì đồng nghĩa với ý chí phấn đấu cho một mục đích nào đó. Không có một nghĩa thực sự tồn tại nào của lí tưởngtrong tiếng Việt đủ độ thân thích với nghĩa của das Ideal ở Hegel. Nếu dịch ngược thì lí tưởngtrong tiếng Việt phần lớn tương đương với Idealismus trong tiếng Ðức, song chuyển sang tiếng Việt, Idealismus chỉ là chủ nghĩa duy tâm. Dịch chính xác hơn, thành cái lí tưởng thì may ra loại trừ được một số nghĩa gây nhiễu của lí tưởng. Tiếc rằng Phan Ngọc không chọn giải pháp này một cách nhất quán. Ông không hề nhất quán trong mọi giải pháp.

b. Hoặc đó là những chữ chẳng hề bị buộc vào đâu cả, chúng hoàn toàn tự do, chúng là những cửu vạn chở mướn cho toàn thiên hạ, tự chúng tuyệt đối vô nghĩa, không đủ sức làm một khái niệm độc lập nữa. Cái vỏ chữ của chúng đã hoàn toàn rách nát. Tinh thần là một chữ cửu vạn hăng hái như thế. Chúng ta có đủ thứ tinh thần: tinh thần lao động, tinh thần kỉ luật, tinh thần đoàn kết, tinh thần xây dựng, tinh thần dân tộc, tinh thần nghị quyết... Trong muôn vàn cách thăm hỏi, ta có thể hỏi bạn: “Sao, tinh thần thế nào?”, và bạn đáp rằng: “Tinh thần là dạo này đói lắm”, để sau đó ta có phận sự “lên dây cót tinh thần” cho bạn. Khi được giao nhiệm vụ chuyển tải cái nghĩa của Geist ở Hegel thì tinh thần trong tiếng Việt đã kiệt sức bởi những vụ làm thuê triền miên ngoài chương trình từ nguyên như thế. Cho nên cái Weltgeist của Hegel có thể được hiểu là chủ nghĩa quốc tế, vì tiếng Việt của nó là tinh thần thế giới; và objektive Geistlichkeittinh thần khách quan trong bản dịch của Phan Ngọc, thì đồng nghĩa với thái độ trung lập, không thiên vị, không định kiến. Sự tha hoá, tiếng Việt của Entfremdung, cũng vậy. Thuở ban đầu, khi đi kèm với biến chất, nó vẫn quanh quẩn ở đâu đó trong phạm vi có thể truy ngược về nghĩa gốc, nhưng trong tư duy của nửa thế kỉ qua thì biến chất tất yếu là chuyển từ chất vô sản, tiến bộ, tốt đẹp sang chất tư sản, phản động, xấu xa. Biến chất là tha hoá. Vậy ngoại tình là tha hoá, viết văn uỷ luỵ cũng là tha hoá, lười lao động lại càng là tha hoá, một lúc nào đó muôn vàn sự sa đoạ, đổ đốn - hay nói đúng hơn: bị coi là sa đoạ, đổ đốn - của con người đều được gọi chung là sự tha hoá [4] , chỉ có cái Entfremdung của Hegel ngơ ngác đâm đầu vào đấy là nhầm cửa mà thôi.

3. Chúng ta biết rằng muốn được giới thiệu, dù chỉ trong phạm vi tham khảo nội bộ và dành riêng cho giới nghiên cứu thì mọi tư tưởng không trùng khít với hệ tư tưởng chính thống tại Việt Nam phải được đỡ đầu chu đáo. Giới chuyên lót đường cho những vị khách lạ ấy thành công hay thất bại tuỳ thuộc ở nhiều phương diện, song quan trọng là ở khả năng dẫn khách với giá nào. Giới ấy có những kinh nghiệm thú vị của họ. Họ có thể cho rằng, dẫn được một con chim cánh cụt đến nhà cá là việc chính, còn cắt cái cánh đằng nào cũng cụt của nó và thay vào đó cái vây là chuyện phụ. Tôi từng muốn trải thảm cho Kafka bằng cách khăng khăng tuyên dương ông là con chim bơi sâu hơn cá, không nhà văn Việt nào lặn ngụp trong hiện thực Việt Nam hơn Kafka, là tai hoạ cho văn chương Việt Nam hơn Kafka, nhưng tôi không thành công. Phan Ngọc uyển chuyển hơn nhiều, ông khen, chê, thêm cái vây này, cắt cái cánh kia, chỗ nào có thể trung thành thì trung thành, chỗ nào cần sáng tạo cho hợp hoàn cảnh và khí hậu Việt Nam thì linh động sáng tạo, mà đừng chẳng được thì ông thổi cho Hegel thành rối tung mù mịt, một Hegel vô nghĩa đương nhiên vô hại và an toàn.

Trong phần giới thiệu ở dạng tóm tắt nội dung dài 50 trang mở đầu bản dịch Mĩ học, Phan Ngọc trình bày một bản hướng dẫn sử dụng cái cỗ máy tư tưởng khổng lồ và có vẻ dễ gây sự cố này sao cho an toàn nhất, trên cơ sở kết hợp hai thái độ căn bản cần phải có: a) phải lấy chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng mác-xít và mĩ học mác-xít với hạt nhân là lí thuyết phản ánh để phê phán những khuyết điểm và hạn chế ở Hegel; b) phải nhìn nhận những đóng góp tích cực nhất định của Hegel. Sở dĩ chúng là những đóng góp đáng nghiên cứu bởi chúng chẳng những không hoàn toàn mâu thuẫn mà còn tương đối gần với chủ nghĩa duy vật lịch sử, phép biện chứng mác-xít và mĩ học mác-xít với hạt nhân là lí thuyết phản ánh. Thái độ thứ nhất là đương nhiên, không có gì cần chú ý. Nhưng thái độ thứ hai là thứ cho phép những người đỡ đầu như Phan Ngọc dường như vừa đi đúng đường lối vừa giúp cho đường lối ấy khỏi chết cứng trong giáo điều. Vị trí tuy-đúng-đường-lối-nhưng-không-giáo-điều vốn là sự lựa chọn ưa thích của giới trí thức trong nước (người anh em sinh đôi của nó ở hải ngoại là tuy-quốc-gia-nhưng-mềm-dẻo) và là sự lựa chọn có vẻ lương thiện duy nhất tương đối an toàn. So với những lựa chọn tuyệt đối an toàn (trong đó có cả lựa chọn vô can) thì nó là một cái gì nhang nhác sự dũng cảm. Có lẽ cũng đã đến lúc cái nhang nhác dũng cảm và thường được âu yếm gọi là “mạnh dạn” đó nên tìm ra mình, để chỉ giống chính mình thì sòng phẳng hơn. Song như thế nào mặc lòng, trong trường hợp cụ thể này thì lựa chọn của Phan Ngọc khiến ông phải hiểu, trình bày và chuyển tải Hegel sao cho chúng ta đủ hình dung ra một trí tuệ tuy có những cái “trác việt” của nó nhưng đầy hạn chế không thể tự vượt qua, một trí tuệ ắt phải đi đến chỗ “bi kịch”, “quái đản”, “bế tắc”.

Chúng ta, người đọc Việt, phải lấy làm tiếc cho cái tài năng đi trệch đường và bị lịch sử bỏ qua không nhân nhượng ấy và bày tỏ lòng thông cảm bằng cách... đọc bản dịch Mĩ học, dù đó là việc thực ra không cần thiết, bởi cái dở của nó chúng ta biết rồi, mà cái hay chẳng qua chỉ gần bằng cái hay của chúng ta, cũng biết rồi, mà thôi. Phan Ngọc khen Hegel nói hay về “câu chuyện nhân tính của nghệ thuật” (!) - câu chuyện chúng ta đã thuộc lòng - và bình luận rằng: “Nhân tính của nghệ thuật nằm ngay trong sự chiếm hữu của con người đối với hiện thực khách quan. Ví thử nhà triết học kéo cả lao động sản xuất vào đó thì câu chuyện đã xong xuôi từ lâu” (tr. 11, I). Kéo vào đâu? Vào nhân tính của nghệ thuật, vào nghệ thuật, vào sự chiếm hữu của con người đối với hiện thực khách quan, hay vào hiện thực khách quan? Câu trả lời không quan trọng, vì với chúng ta thì câu chuyện xong xuôi từ lâu, có lí do gì mà đọc một kẻ nói mãi chưa xong chuyện như Hegel? Khi Hegel không đủ tầm nhận thức rằng các khái niệm mà ông “đã xác lập rất tài giỏi đều xuất phát từ đấu tranh chống thiên nhiên và đấu tranh giai cấp” (tr. 12, I); không biết “cụ thể hoá khái niệm con người là quần chúng lao động” để “khái niệm nhân loại của ông khỏi trừu tượng” (tr. 12, I); chỉ biết “than phiền về sự tan rã của nghệ thuật” (!) mà “không thấy triển vọng của một nghệ thuật vì quần chúng lao động” (tr. 13, I) và hoàn toàn không đủ khả năng “xây dựng một mĩ học cho người lao động” (tr. 22, I) thì ông còn dùng được vào việc gì? Khi chúng ta bẩm sinh đã mang sẵn lí thuyết phản ánh trong người thì một kẻ hì hục lặn lội mãi mới “tiến gần đến lí luận phản ánh” (tr. 21, I) như Hegel chỉ còn đáng thương. Và tuy Phan Ngọc nhiệt tình mời chúng ta đọc Mĩ học “để trèo lên vai Hegel” (tr. 54, I), nhưng động tác đó thực ra không khả thi: Marx đã lộn ngược Hegel cho cắm đầu xuống đất mất rồi. Còn chính Phan Ngọc lại bảo: “Tôi biết trong từng lĩnh vực của nghệ thuật Việt Nam các bạn của tôi có nhiều kiến thức hết sức quý báu mà Hegel không sao có được“ và mong muốn chúng ta hãy “chuyển hoá biện chứng pháp này (của Hegel) sang con đường thoả mãn những nhu cầu vật chất và những đòi hỏi của tâm thức Việt Nam” (tr. 54, I). Chuyển biện chứng pháp của Hegel sang con đường thoả mãn những đòi hỏi của tâm thức Việt Nam? Chuyển biện chứng pháp của Hegel sang con đường thoả mãn những nhu cầu vật chất của chúng ta? Ai đã hiểu ý tứ của câu ấy có thể chuyển sang tìm hiểu một câu khác: Phan Ngọc cho rằng tuy “tác phẩm của Hegel đọc hết sức rối rắm, khó hiểu. Nhưng nếu ta vứt nó đi thì chẳng khác gì đổ chậu nước tắm cùng với đứa trẻ đang được tắm” (tr. 22, I). Tác phẩm của Hegel với sự rối rắm, khó hiểu của nó ví như chậu nước tắm. Ðứa trẻ nào bỗng tắm trong đó khiến ta không đành lòng hất đi?

Như trên đã nói, gần như toàn bộ bản tiếng Việt của Mĩ học đều sai cả, hoạ hoằn có chỗ tạm đúng về nghĩa thì cái nghĩa ấy lại bị cách diễn đạt che tối hoặc sơ lược hoá, thậm chí dung tục hoá. Trong phạm vi bài này tôi xin nêu một số lỗi chính của bản dịch:


Ðọc sai

Ðây là một trong hai khuyết điểm trầm trọng nhất và cũng thường xuyên nhất. Hầu như bất kì câu phức hợp, có nhiều mệnh đề lồng vào nhau nào - đáng tiếc lại là sở trường của các triết gia Ðức mà Hegel thuộc hạng dẫn đầu - cũng bị đọc nhầm. Vừa buớc vào phần Dẫn luận, câu phức hợp đầu tiên của bản dịch đã thất bại: “Thực ra, danh từ Ästhetik (“mĩ học”), không hoàn toàn thích hợp với đối tượng chúng ta khảo sát, bởi vì mĩ học kể ra chỉ là khoa học, khảo sát cảm giác, tình cảm. Nếu hiểu như vậy, thì mĩ học đã nảy sinh ở trong trường phái Vônphơ với tính cách một khoa học mới, hay ít nhất là với tính cách mầm mống của một nền triết học tương lai. Trong lúc đó, ở Ðức vẫn quen khảo sát các tác phẩm nghệ thuật ở trong mối liên hệ với những tình cảm mà chúng cần phải nêu lên - chẳng hạn liên hệ với những khoái cảm, tình cảm ngây ngất, sợ hãi, cảm thương v.v...” (tr. 55, I).

Chưa kể cách diễn đạt vụng về (“khảo sát các tác phẩm nghệ thuật ở trong mối liên hệ với những tình cảm mà chúng cần phải nêu lên”), người chỉ đọc bản tiếng Việt không thể hiểu toàn bộ sự lằng nhằng đầy mâu thuẫn của đoạn này được viết ra nhằm mục đích gì. Mĩ học kể ra chỉ là khoa học, vậy mà chính trong cái nghĩa phải hiểu như vậy thì nó đã nảy sinh ở đâu đó với tính cách một khoa học mới, mà ở Ðức thì người ta quen khảo sát abc, còn vì sao phải nêu cái khảo sát abc đó ra trong đoạn này thì chịu, không ai cắt nghĩa nổi. Không trách Thảo Hảo than rằng, đọc rồi không biết nội dung cái vừa đọc là gì mà thuật lại [5] .

Cả đoạn trên ở Hegel là một câu như sau: „Dĩ nhiên là với đối tượng này (tức „vương quốc rộng lớn của cái Ðẹp“, đã xác định trong câu mở đầu phần Dẫn luận - PTH) thì cái tên Ästhetik thực ra không hoàn toàn phù hợp, vì đúng ra thì Ästhetik là tên của môn khoa học về giác quan, về cảm xúc; và hiểu theo nghĩa này thì nó, với tư cách một môn khoa học mới, hay đúng hơn là một bộ môn triết tương lai, bắt nguồn từ trường phái Wolff vào cái thời điểm mà ở Ðức người ta thường xem các tác phẩm nghệ thuật với ý chú trọng những cảm giác mà chúng phải gợi ra được, chẳng hạn cảm giác dễ chịu, cảm giác ngưỡng mộ, sợ hãi, thương xót v.v…“ („Für diesen Gegenstand freilich ist der Name Ästhetik eigentlich nicht ganz passend, denn “Ästhetik” bezeichnet genauer die Wissenschaft des Sinnes, des Empfindens, und hat in dieser Bedeutung als eine neue Wissenschaft oder vielmehr als etwas, das erst eine philosophische Disziplin werden sollte, in der Wolffischen Schule zu der Zeit ihren Ursprung erhalten, als man in Deutschland die Kunstwerke mit Rücksicht auf die Empfindungen betrachtete, welche sie hervorbringen sollten, wie z.B. die Empfindungen des Angenehmen, der Bewunderung, der Furcht, des Mitleidens usf.“, tr. 13, I, bản tiếng Ðức.)

Chúng ta thấy rõ, Hegel tìm cách lấy cái tên vốn dùng cho một ngành khoa học khác, nảy sinh trong một hoàn cảnh khác, cho môn triết học nghệ thuật của mình ra sao. Ông muốn khoanh rõ phạm vi mình đang chuẩn bị bàn đến. Không có gì là quá phức tạp.

Song ngay cả những câu đơn giản hơn nhiều cũng bị đọc sai. Ðọc câu „Cũng giống như thơ trữ tình phương Ðông, thơ trữ tình Hi Lạp và La Mã khác thơ trữ tình lãng mạn“ của Phan Ngọc (tr. 715, II), chúng ta phải ngạc nhiên. Trình tự phát triển của nghệ thuật theo Hegel là tượng trưng - cổ điển - lãng mạn. Sao bỗng nhiên cái cổ điển của Hi Lạp và La Mã phải giống cái tượng trưng của phương Ðông, để cả hai được khác cái lãng mạn? Hegel nói câu ấy như sau: „Thơ trữ tình của người Hi Lạp và La Mã cũng khác với thơ trữ tình lãng mạn, hệt như khác với thơ trữ tình phương Ðông.“ („Wie von der orientalischen, so unterscheidet sich die Lyrik der Griechen und Römer auf der anderen Seite ebensosehr von der romantischen.“, tr. 506, II, bản tiếng Ðức) Vậy là Hegel tự mâu thuẫn ở đâu, chứ không ở một ý hoàn toàn nằm trong quỹ đạo tư duy của mình như vậy.


Dịch vô nghĩa

Hãy lấy ngay ví dụ do Thảo Hảo nêu: “Trong khi cố gắng tác động ra ngoài và biểu hiện cái bên ngoài nghệ thuật nhằm mục đích gây tác động ra ngoài, và nét chung nhất là cố gắng gây ấn tượng. Nghệ thuật có thể đạt được những hiệu quả này nếu như nó sử dụng yếu tố xấu xí, gò ép, đồ sộ, những hiệu quả mà ở đấy thiên tài phi thường của Miken Ăngcơ đã biểu hiện, hay sử dụng những sự đối lập rõ rệt để gây nên những tương phản nhất định” (tr. 13, II). Ðương nhiên đó là một đoạn vô nghĩa như muôn vàn đoạn khác trong bản dịch. Dường như muốn làm một câu sấm qua sự lặp lại liên tục của “tác động ra ngoài”, “biểu hiện cái bên ngoài”, rồi lại “tác động ra ngoài”, của ba lần “gây” và hai lần “cố gắng”, hai lần “biểu hiện”, hai lần “hiệu quả”. Nhưng để làm sấm thì nó thiếu sự cô đọng cần thiết.

Ðoạn ấy là một câu như sau: “Khi toàn bộ cái cấp bậc nghệ thuật này chủ trương tác động hướng ngoại bằng cách thể hiện cái bề ngoài thì một nét chung nữa của nó có thể được nêu thêm ra ở đây là hiệu quả có được qua sử dụng những phương tiện gây ấn tượng như cái khó ưa, cái gắng gượng, cái đồ sộ (một thiên tài ghê gớm như Michelangelo thường sa đà vào đó chẳng hạn), hay sự tương phản mạnh mẽ, v.v…“ (“Insofern nun aber diese ganze Stufe der Kunst auf die Wirkung nach außen hin durch die Darstellung des Äußeren losgeht, können wir als ihre weitere Allgemeinheit den Effekt angeben, der sich denn auch des Ungefälligen, Angestrengten, Kolossalen, wohin z.B. das ungeheure Genie des Michelangelo oft ausschweift ist, schroffer Kontraste usf. als Mittel des Eindruckes bedienen kann“, bản tiếng Ðức, tr. 12, 13, II.)

Cái cấp bậc nghệ thuật đang nói tới là cấp bậc của phong cách vừa lòng (Hegel: der gefällige Stil; Phan Ngọc: phong cách thú vị) sau phong cách nghiêm ngặt (Hegel: der strenge Stil; Phan Ngọc: phong cách trang trọng) và phong cách lí tưởng. Lời dịch của Phan Ngọc tất nhiên không cho thấy tiến trình này, mà những đặc trưng của mỗi giai đoạn phát triển cũng hoà tan trong đống hổ lốn của những kí hiệu hình như là chữ Việt.


Suy diễn và đoán mò

Tôi luôn hình dung ra một vở kịch phi lí với ba nhân vật, gồm Hegel, dịch giả Phan Ngọc và người đọc Việt, trong đó thỉnh thoảng người đọc Việt lại gật gù, tiến ra bắt tay Hegel, còn Hegel thì quay sang bắt tay Phan Ngọc cảm ơn. Cả ba đều hạnh phúc. Hegel nói gì mặc kệ, ông ta có thể bỏ tiếng Ðức mà dùng tiếng sao Hoả, không sao cả, miễn là Phan Ngọc còn khả năng đoán ý. Ðoán mò cũng không sao cả, miễn là trúng cái tai của người đọc Việt. Nghe đoạn “Nó xua tan nỗi buồn bực của ta trong những giờ nhàn rỗi, và ngay cả ở nơi không thể có điều gì tốt lành thì ít nhất nghệ thuật cũng thay thế cái xấu, và điều đó cũng còn tốt hơn là cái xấu” (tr. 59, I), người đọc Việt thấy lọt tai lắm, khen cho Hegel có quan điểm hợp lí, rất gần gũi với chúng ta. Nghệ thuật mà thay thế cái xấu thì đương nhiên là tốt hơn cái xấu rồi.

Ý Hegel thực ra như sau: lúc nhàn rỗi thì cái đẹp và nghệ thuật là thứ thú vị để xua đuổi thời gian (chứ không xua tan nỗi buồn bực nào như suy diễn của người dịch), và khi không có điều Thiện nào mà thực thi thì nó (cái đẹp và nghệ thuật) nhảy vào chỗ cái Ác, ít ra nó cũng giữ chân này giỏi hơn cái Ác. (“… indem sie… die Müßigkeit auf eine unterhaltende Weise tilgt und, wo es nichts Gutes zu vollbringen gibt, die Stelle des Bösen wenigstens immer besser als das Böse einnimmt”, tr. 15, I, bản tiếng Ðức.) Quả nhiên không phải là một ý tưởng gần gũi với chúng ta. Chỗ nào có vẻ bùi tai trong bản dịch của Phan Ngọc là chỗ ấy suy diễn và đoán mò, quy tắc này có thể áp dụng triệt để.


Giản lược hoá và dung tục hoá

Và một quy tắc nữa: chỗ nào có vẻ bùi tai - khi chúng ta chỉ nghe loáng thoáng nửa tai -, là đã được dịch giả dàn xếp thế nào đó. Cách dàn xếp thông dụng nhất là vứt bỏ mọi khía cạnh rối rắm, mọi so sánh phiền toái, mọi ý tứ quá tế nhị, mọi liên tưởng quá xa xôi, chỉ giữ lại cái mà dịch giả quan niệm là ý chính. Cả đoạn nói về châm biếm hiện đại (tr. 283, I) là như vậy, và nếu đủ khả năng đọc vỡ những câu văn bí hiểm của Phan Ngọc, có lẽ chúng ta cũng tưởng mình đã nắm được ý chính, ai nhẹ dạ còn có thể chép câu sau đây vào sổ tay để dùng khi có dịp: “Với tính cách một nghệ thuật huỷ bỏ tất cả do tính chất rầu rĩ vô bổ của nó, châm biếm, cũng như sự ham muốn mà chúng tôi đã nói ở trên, đi đến một trình độ không nhất quán, chẳng có gì là nghệ thuật cũng chẳng quan hệ gì với cái lí tưởng thực sự.” Hegel đã được xào xáo lại theo cách chém to kho mặn, miễn sao ăn được. Câu ấy vốn là mệnh đề kết thúc một loạt các trình bày về những khía cạnh khác nhau và về bản chất của châm biếm hiện đại: “... cho nên cũng như cái khao khát kia, châm biếm là một nghệ thuật chối bỏ toàn diện so với cái lí tưởng đích thực, nó đồng thời hàm chứa mặt thiếu nhất quán nghệ thuật nội tại.” (“…so behält die Ironie als diese allseitige Vernichtungskunst wie jene Sehnsüchtigkeit, im Vergleich mit dem wahren Ideal, zugleich die Seite der inneren unkünstlerischen Haltungslosigkeit“, tr. 161, I, bản tiếng Ðức).


Tuỳ tiện thêm, bớt

Dịch đương nhiên là cho nguyên tác thêm một cái gì, trước hết là một đời sống mới trong một ngôn ngữ khác. Và tước đi một cái gì, trước hết là những đặc trưng không thể tái hiện ngoài phạm vi văn cảnh gốc. Song phần còn lại để chuyển ngang giá trị của mọi văn bản, có lẽ chỉ trừ thơ, vẫn đủ lớn và đủ cố định để đòi hỏi trung thành với nguyên tác còn là chính đáng. Những ví dụ đã nêu đều cho thấy độ chênh lớn giữa nguyên tác và bản tiếng Việt. Đáng ngạc nhiên chỉ là, sự thêm và bớt của Phan Ngọc dường như hoàn toàn tuỳ tiện, thiếu mọi cơ sở, ngay cả ở những chỗ trung thành lẽ ra là giải pháp dễ và hợp lí nhất. Hegel: “Ta có thể xếp người Do Thái, người Ả-rập và người Ba Tư liền nhau trong khu vực thứ ba của nghệ thuật sử thi phương Ðông.” (“In einem dritten Kreise der orientalisch-epischen Dichtkunst können wir die Hebräer, Araber und Perser nebeneinanderstellen”, tr. 456, II, bản tiếng Ðức.) Phan Ngọc: “Trong số các dân tộc phương Ðông đã sáng tạo nên một nền thơ ca sử thi, người ta còn có thể xếp những người Do Thái, người ảrập và người Ba Tư” (tr. 645, II).

Dàn ý của Hegel hoàn toàn mạch lạc, trước hết ông nói về sử thi Trung Hoa, rồi đến Ấn Ðộ, tiếp đến Cận Ðông là khu vực thứ ba mà câu trích đề cập. Lời dịch thêm và bớt của Phan Ngọc khiến câu văn chỉ còn là một sự liệt kê vô vị, không hữu cơ với mạch đi của cả đoạn văn.

Những đoạn tương đối phức tạp ở Hegel, khó trung thành hơn, thường bị cắt phăng, chỉ chừa lại vài ba câu chống chếnh nào đó, thì nhiều không kể xiết, điển hình là đoạn bắt đầu bằng “Hơn nữa sự khẳng định cho rằng...” (cuối tr. 65, I) đến “... do tinh thần sản sinh ra” (tr. 66, I).


Cẩu thả

Một cụm từ đơn giản như “die römische Konstruktion der Bogenwölbung” (cấu trúc La Mã của vòm hình cung), sở dĩ ở Phan Ngọc là “kiến trúc xây dựng La Mã xây dựng trên cái vòm hình cung” (tr. 834, II) thì chỉ có thể do quá cẩu thả. Chẳng lẽ còn một lí do sâu sắc hơn cho việc dịch “künstlerische Konzeption” (ý đồ của nghệ sĩ) là “hư cấu nghệ thuật” (tr. 836, II); “dienende Baukunst” (nghệ thuật kiến trúc phục vụ, để phân biệt với nghệ thuật kiến trúc của giai đoạn tượng trưng trước đó) là “nghệ thuật vụ lợi” (tr. 834. II); “die dichtende Subjektivität” (chủ thể sáng tác thơ, tức nhà thơ) là “tính chủ thể nên thơ” (tr. 837, II); hay “Material der Malerei” (chất liệu hội hoạ) là “tài liệu hội hoạ”, “die schöne Kunst” (mĩ thuật) là “sáng tác nghệ thuật” và “bloßer Schein” (cái vỏ suông) là “ngoại hiện trần trưồng”? Có lẽ ở ví dụ cuối này, người dịch quả nhiên đã đối chiếu với bản tiếng Ðức và dùng luôn cái nghĩa ghi trong một từ điển tồi nào đó. Một tấm thân bloß dịch là “trần truồng” thì cũng được, còn cái vỏ bloß, cái vẻ ngoài suông, cùng lắm thì dịch là “trần trụi” (dù sai ý Hegel), sao lại “trần truồng”?


Sử dụng thuật ngữ võ đoán

Ta đã biết những khó khăn, thậm chí bế tắc, của việc tìm thuật ngữ tương ứng trong tiếng Việt. Ngay cả những dịch giả và học giả xuất sắc cũng có thể bó tay hoặc mắc lỗi. Nhưng có những lỗi không nhất thiết phải mắc, và một chút thận trọng khi quyết định sáng chế thuật ngữ có lẽ không thừa. Khi đã dịch Prosa là “văn xuôi”, sao Phan Ngọc lại quyết gọi “tính văn xuôi” (prosaisch) là “cái nôm na”? Người đọc khó mà không giật mình khi bắt gặp “chủ nghĩa tượng trưng quái đản” (die phantastische Symbolik) ở văn hoá Ấn Ðộ. Cả danh từ Phantasie lẫn tính từ phantastisch của nó đều được dịch là “quái đản”, mà trong phần giới thiệu Mĩ học, khi phê phán Hegel, Phan Ngọc đã cho người đọc biết “quái đản” là gì. Vì sao Symbolik (hệ biểu tượng) bỗng thành “chủ nghĩa tượng trưng“, hay ở một chỗ khác, cá nhân các vị thần (Götterindividuen) lại thành những “vị thần cá biệt”? Lập một cuốn từ đIển thuật ngữ cho Mĩ họcbản tiếng Việt là được một sưu tầm “Chuyện lạ đó đây” đáng kể.


Diễn đạt tối nghĩa, cứng nhắc, lủng củng, què cụt, sai văn phạm, lệ thuộc vào cấu trúc câu văn tiếng nước ngoài

Sự bất lực của người dịch tiếng nước ngoài, đặc biệt là các thứ tiếng phương Tây, sang tiếng Việt xưa nay vốn là một trong những bi kịch chúng ta đã quen và chán tới mức chẳng buồn nói nữa. Bây giờ nói về thất bại của Phan Ngọc, chẳng qua vẫn là cái bi kịch tuyệt vọng và hài hước bất đắc dĩ ấy, có đáng nhắc hơn chỉ vì quy mô đồ sộ của nó, gần 1800 trang hình như là tiếng Việt; vì dịch giả đồng thời là một học giả chuyên về ngôn ngữ học, nặng thâm niên, dày dạn kinh nghiệm dịch thuật và biên khảo, là tác giả của hàng chục đầu sách và hàng trăm bài nghiên cứu, trong đó nên kể đến những công trình mang cái tên nôm na - lại nôm na! - là Mẹo:Mẹo dịch các biểu thức nối ý (1983), Mẹo dịch thơ chữ Hán ra chữ Việt (1999), Vài mẹo về phong cách khoa học (1984), Mẹo giải nghĩa các từ Hán-Việt (1991)..., và tự cho biết là đã “chuẩn bị công trình Một nghìn linh một mẹo dịch mà thực chất là sự mò mẫm của một đời làm công tác dịch thuật để tìm cho ra những cách diễn đạt rất Việt Nam đồng thời lại phù hợp với yêu cầu thời đại mới đặt ra” [6] .

Chúng ta có thể nhắc thêm một nửa mẹo nữa để thành một nghìn linh một phảy năm mẹo dịch, là: số nhiều và số ít trong tiếng Việt không hoàn toàn dễ dùng như trong tiếng Tây. Nửa mẹo còn lại: khi nào phải trực tiếp hiển thị số nhiều để phân biệt với số ít, khi nào ít và nhiều đều được viết giống nhau nhưng chắc chắn được hiểu khác nhau, khi nào ít là nhiều, nhiều lại là ít (vâng, ta đang nói về sự đồng bóng khó thương mà dễ được sùng bái của bà hoàng tiếng Việt, về khả năng bắt nạt và bắt bí người lạ của thằng lỏi tiếng Việt, ta đang nói về khả năng xuất quỷ nhập thần của anh du kích tiếng Việt), cái nửa mẹo còn lại ấy đố ai giảng nổi.

Dịch tiểu đề “Edelsteine und Glas” (Ðá quý và thuỷ tinh) theo kiểu Phan Ngọc thành “Các ngọc và thuỷ tinh” có khác nào treo biển cho công ti vàng bạc và đá quý là “công ti những vàng bạc và các ngọc”. Cứ như vậy thì chúng ta có Steinbeck với tác phẩm Của những chuột và những người hay Của các chuột và các ngườiCác và những tràn ngập bản dịch, thậm chí cả khi Hegel không hề dùng số nhiều, (Hegel: Das Verhältnis des Ideals zur Natur, tiểu đề một đoạn trong chương “Cái đẹp nghệ thuật hay cái lí tưởng”; Phan Ngọc: „Những quan hệ của lí tưởng đối với tự nhiên“). Vì sao phải dịch “... trong các quan niệm về sự sáng tạo thế giới, trong các lịch sử các trưởng lão...” (tr. 645, II), trong khi nó rất giản dị là: “trong hình dung về sáng thế, trong truyện tổ tiên”? Không nhất thiết phải chiều người đã bỏ công đọc Mĩ học bằng những câu văn mượt mà trong sáng, vốn không là đặc sản của Hegel, nhưng cũng chẳng có lí do gì để phạt hắn bằng kiểu câu đầy tinh thần mậu dịch quốc doanh –lại tinh thần!- , có thế thôi, đọc được thì đọc: “trong những bức tranh Hà Lan về những quán rượu, những đám cưới, và những cuộc vui và những cuộc ăn uống...” (tr. 297, I) Rồi “với tính cách”, “mang tính”, “mang tính chất”, “có tính chất”, “như là”, “được coi là”, “được xem xét”, “được quy định”, “điều làm cho”, “cái nói lên”, “cái thuộc về”, “trong sự liên hệ với”, „nhờ đó mà“, „ở chỗ mà“... tất cả những cách chuyển ngữ lười biếng và máy móc ấy cũng tràn ngập bản dịch. Song đó còn là những lỗi mọn, không đáng kể nhất trong cái tập hợp trùng điệp, ngổn ngang, dày đặc sai phạm về cách diễn đạt tiếng Việt này.

Diễn đạt thừa: “Về tính đặc thù của giai điệu, theo tôi những điều quan trọng nhất mà người ta có thể nói về vấn đề này là như sau” (tr. 429, II) Chẳng lẽ Hegel cũng ăn nói vô duyên như những cán bộ văn hoá bất đắc dĩ, thường độn “vấn đề” vào mọi “vấn đề” cho ra “vấn đề”? Thực ra Hegel nói rằng: “Lưu ý tới điểm nói trên thì thứ hai, về đặc tính của giai điệu, theo tôi những khác biệt sau đây là quan trọng.” Câu dịch vừa bị thiếu ý, mất liên hệ với đoạn trước, vừa bị chêm một kiểu nói tầm phào.

Diễn đạt thô thiển: “... cho nên chúng ta phải sử dụng những áp dụng của quan điểm cao hơn này đối với nghệ thuật” (tr. 132,I)

Diễn đạt tối tăm lủng củng: “ở giai đoạn này, đối tượng của nghệ thuật là tính tinh thần tự do cụ thể, cái này cần phải nêu lên tinh thần, sinh hoạt nội tâm ở trong hiện tượng” (tr. 167, I). Tính tinh thần cần phải nêu lên tinh thần ư? Sinh hoạt nội tâm ở trong hiện tượng là cái gì? Xin miễn phải trích câu nguyên tác của Hegel, nó là một câu hoàn toàn khác.

Không làm chủ nổi câu văn Việt: “Khái niệm cũng thế: trong khi làm cho sự tồn tại thực tế bên ngoài nhờ đó nó trở thành sinh động, khái niệm được hưởng tính chất tự do ở trong tính khách thể này nó biểu hiện ở đấy như ở bản thân mình” (tr. 215, I). Xin miễn phải cấp cho câu văn này thêm hai dấu phẩy và một vài liên từ, bởi có sửa sang cũng không ích gì, đằng nào nó cũng sai về nội dung rồi.

Sự phong phú của cái xấu trong Mĩ học bản tiếng Việt, tác phẩm bàn về cái đẹp, dường như vô tận, nêu ví dụ này e phụ ví dụ khác. Ai thực lòng muốn đọc Hegel (tất nhiên lỗi tại người ấy), có lẽ nên học tiếng Ðức, là một thứ tiếng không dễ, nhưng công bỏ ra cho tới khi hiểu nổi Hegel trong nguyên tác chắc chắn không bằng công đọc bản dịch của Phan Ngọc trong tiếng Việt, chỉ có điều mất đi cái thú của việc mầy mò đoán sấm và cái ngứa ngáy muốn chữa lành những câu tiếng Việt không dưng mà tàn phế. Vì có trạng và có thương binh đang tắm trong đó mà ta chẳng nỡ đổ cả chậu nuớc tắm đi chăng?

Còn lại để suy ngẫm là khả năng thành công của tiếng Việt mỗi khi ta cần nó vào việc chuyển dịch những tác phẩm quan trọng của các nền văn hoá khác. Tình trạng những tư tưởng, học thuyết, trường phái và trào lưu bên ngoài vào đến Việt Nam là trệch đường ray, biến dạng, bị xuyên tạc, nhẹ nhất là bị sơ lược và dung tục hoá, khiến chúng ta có nghe cũng như nghe sấm, hiểu thế nào thì hiểu, có phải cũng do sự bất lực phần nào của tiếng Việt hay không? Tiếng Việt cũng như bếp Việt, đều là đối tượng đặc biệt để chúng ta bày tỏ lòng quan tâm và yêu mến. Ai cũng sẵn một giải pháp có thể áp dụng tức khắc cho mảnh tiếng Việt này hoàn hảo hơn, một bí quyết cho món Việt kia bất hủ hơn. Song những khi tiệc lớn cho mấy trăm thực khách thì bếp Việt bắt đầu lúng túng. Nó thích đem toàn bộ cái ưu việt của mình phục vụ bữa cơm gia đình ấm cúng và nóng sốt hơn. Những khi diễn đạt một nội dung đồ sộ phức tạp, tiếng Việt cũng không kém bối rối. Nó thích trút sự kì diệu của mình vào những khoảnh hình như còn bao quát được và có vẻ cận nhân tình hơn. Chẳng lẽ chúng ta chỉ biết dịch thơ Ðường rất hay, và có lẽ cũng sẽ dịch hay cả một chút tiểu thuyết phương Tây hiện đại, ngoài ra thì thất bại là chắc chắn hay sao?

Berlin, 6.2002

© 2002 talawas


[1]Hoặc Ngữ: „Vài suy nghĩ về bản dịch bộ Mĩ học-Hegel của Phan Ngọc“, 22.04.2002
[2]Nguyên Ngọc: „Ðôi điều về chuyện dịch“, 28.04.2002
[3]Việc ở Việt Nam kinh điển Marx-Lenin được dịch và truyền bá bằng ngôn ngữ như thế nào để trong một thời gian ngắn có thể tạm đẩy lùi hoặc tạm thay thế những tư tưởng phương Ðông truyền thống, trở thành vốn liếng văn hoá ở cả những tầng lớp bình dân, là một đề tài thú vị.
[4]Vì thế đã nhiều người cho rằng chữ tha trong tha hoá cùng một nghĩa như trong thối tha.
[5]Thảo Hảo: „Tôi nghi ngờ ông Heghen!“, 20.04.2002
[6]Phan Ngọc, Cách giải thích văn học bằng ngôn ngữ học, nhà xuất bản Trẻ, 1999, tr. 210 

Tuesday, 10 September 2013

Bán dâm đồng tính có nặng tội hơn bán dâm dị tính không?

Báo chí ở trong tay những người dị tính luyến ái. Bán dâm đã là một tội rồi. Đồng tính [luyến ái] là một tội nữa. Vì vậy mới có những tít bài kiểu Chiêu cướp tài sản của gã bán dâm đồng tính (VnExpress 9/9/2013), Tử hình gã bán dâm đồng tính sát hại bạn tình (VnExpress 23/9/2010)... Trai gái mua bán dâm với nhau không bao giờ bị báo réo cái xu hướng dị tính luyến ái ra mắng.

Monday, 9 September 2013

Tiếng Việt vốn trong sáng mà (Cao Tự Thanh - Trục Nhật Phi)



Tiếng Việt vốn trong sáng mà

Nhiều năm nay nhiều người thường nói tới chuyện giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, coi đó như một nhiệm vụ chiến lược quan trọng trong sự nghiệp phát triển văn hóa của dân tộc Việt Nam. Công việc ấy dĩ nhiên rất tốt đẹp, nhưng thừa nhận điều đó cũng là thừa nhận tiếng Việt có nguy cơ không trong sáng. Cho nên ở đây có một loạt vấn đề lý luận và thực tiễn đan xen vào nhau cùng được đặt ra, ví dụ tiếng Việt có nguy cơ không trong sáng không, điều gì dẫn tới nguy cơ ấy, làm sao ngăn chặn nguy cơ ấy, thậm chí có thể cắc cớ mà hỏi rằng thế nếu tiếng Việt không trong sáng thì có hại gì cho văn hóa Việt Nam, hay thế nào là trong sáng và thế nào là không trong sáng vân vân, tóm lại đều là những câu hỏi thuộc loại có thể gây ra các cuộc tranh cãi dễ bắt đầu mà khó kết thúc. Nếu đây chỉ là chuyện lý luận thì hạng thảo dân như tôi có thể để mặc cho các học sĩ quốc doanh và tư nhân tranh cãi với nhau đến lúc nào kết thúc (hay không kết thúc được thì kết thúc), nhưng nó lại có khía cạnh thực tiễn nên không thể không lạm bàn tí ti. Bởi nếu chẳng may tôi có vợ, chẳng may kế đó lại có con, chẳng may đứa con ấy lớn lên biết chữ ra tiệm internet chát chít quen tay quen mồm lại về nói chít con òi (hay roài gì đó) ba oi, con chưa đóng xiền học thim mun tiếng Dziệt thì không khéo tôi lại phải học thêm thứ nội ngữ độc đặc ấy mới hiểu mà đưa tiền cho nó học thêm môn tiếng Việt và để các kênh thông tin trong gia đình vận hành được thông suốt. Hoặc giả có một blogger nữ nào vào đây comment linh tinh, tôi bực mình không nhẫn nại được xóa đi, cô ta lại vào sừng sộ tại sao em còm (comment) mà anh lại rờ mu (remove) em thì đúng là xấu xa không biết để đâu cho hết, mà lúc ấy làm sao còn bịt được miệng người thiên hạ. Cho nên tiếng Việt có nguy cơ không trong sáng hay không quả là chuyện không thể không bàn vậy.
Nhưng tiếng Việt tự thân nó vốn rất trong sáng mà.
Nhìn từ các phương diện là công cụ tư duy, công cụ giao tế, công cụ thông tin (nếu nói tời phương diện là công cụ lưu trữ thì phải kể thêm chữ viết), tiếng Việt hiện nay đều có thể đáp ứng tất cả các nhu cầu của người sử dụng đồng thời có khả năng vươn lên đáp ứng các nhu cầu mới. Nói một cách chung nhất, tiếng Việt hiện đủ cho người sử dụng trình bày cặn kẽ cũng như che giấu kín mít suy nghĩ của mình, đủ cho họ nói rất nhiều mà không nói gì cả cũng như nói rất ít mà truyền đạt rất nhiều, đủ cho họ phức tạp hóa một vấn đề rất đơn giản cũng như đơn giản hóa một vấn đề rất phức tạp, đủ cho họ chối từ kiểu ưng thuận cũng như ưng thuận kiểu chối từ, đủ cho họ khen mà chê cũng như chê mà khen, đủ cho họ đốp chát thô bạo cũng như xỏ xiên thâm thúy, tóm lại nó đã có một kho từ ngữ phong phú cho phép người sử dụng nói từ chuyện thiên văn địa lý tới sự Đông Tây kim cổ, ca tụng hay mạt sát, chửi lộn hay làm thơ. Ngay các phương ngữ cũng thực hiện được các chức năng ngôn ngữ nói trên, ví dụ khi vì ngữ âm mà phương ngữ Nam Bộ dùng từ gầy với ý nghĩa gầy dựng thì từ ốm được dùng để thay cho gầy, rồi kế đó có từ đau hay bịnh (bệnh) để thay cho từ ốm trong phương ngữ Bắc. Hay khi không phân biệt được rạch ròi bác và bát (Bác Ba ăn ba bát cơm) thì nó dùng từ chén thay cho bát, và khí cụ dùng để uống nước được gọi là ly… Sự phân bố ngữ âm – từ vựng luôn hướng tới giữ gìn tính thống nhất hoàn chỉnh của toàn hệ thống ngay cả ở từng phương ngữ như vậy đã đảm bảo cho tiếng Việt thực hiện thông suốt các chức năng tư duy, thông tin và giao tế, một ngôn ngữ như thế mà không được gọi là trong sáng thì thế nào mới là trong sáng hả trời?
Bên cạnh đó, ngoài khả năng phản ảnh – thông tin, tiếng Việt còn hàm chứa một khả năng biểu cảm rất to lớn. Hình như trong Nỗi oan Thì Là Mà Giáo sư Nguyễn Đức Dân có kể lại một câu chuyện có thật rất tiêu biểu về chữ thì, đại khái là có vài phụ nữ trong Đại sứ quán một nước Đông Âu nào đó ở Hà Nội ra chợ Đồng Xuân mua sắm, các mẹ tiểu thương nhà ta thấy họ to béo xồ xề bèn bàn tán dè bỉu, thấy không có phản ứng gì lại cho rằng họ không biết tiếng Việt càng yên tâm phóng tứ chê bai, không ngờ lát sau mua hàng xong ra về một người trong bọn ngoảnh lại buông một câu không những rất chuẩn về ngữ âm mà còn chính xác về từ vựng và tinh tế về phong cách làm cả chợ bật ngửa “Vâng, các bà THÌ đẹp”. Chỉ một ví dụ ấy cũng đủ để thấy tiếng Việt rất trong sáng trên phương diện biểu cảm, muốn cay độc thì cay độc, muốn mát mẻ thì mát mè, người nói muốn thế nào là người nghe hiểu thế ấy, không thể lẫn lộn mù mờ được.
Tuy nhiên trong lịch sử tiếng Việt đã phát triển qua nhiều bối cảnh văn hóa và chính trị khác nhau, chẳng hạn trong thời gian 1600 – 1777 tiếng Việt ở Đàng Trong đã tiếp thu lại một lần nữa cách đọc chữ Hán theo Minh âm, Thanh âm thay cho Đường âm như trên địa bàn Đàng Ngoài, hay trong thời gian 1862 – 1945 nó phải phát triển trong hoàn cảnh dân tộc chịu ách thống trị của thực dân Tây phương, nên trên các khía cạnh từ vựng, ngữ pháp và phong cách cũng không khỏi bị đặt trước nguy cơ khách mạnh lấn chủ. Tuy nhiên việc tiếp thu Minh âm, Thanh âm nói trên vẫn được tiến hành khá chủ động, ví dụ hệ thống phụ âm đầu Việt Hán vẫn được giữ vững trên căn bản Đường âm (xem thêm entry a02), còn trong thời gian 1862 – 1945, tiếng Việt đã tiếp thu đồng thời Việt hóa được nhiều yếu tố từ vựng, ngữ pháp và phong cách trong ngôn ngữ phương Tây để làm giàu có thêm khả năng phát triển của mình. Thật ra hiện tượng tiếp nhận mảng từ vựng ngoại sinh luôn luôn diễn ra trong tiến trình phát triển của tiếng Việt, chẳng hạn từ thế kỷ XVIII tiếng Việt ở Nam Bộ đã tiếp nhận một số từ vựng Khmer như cà om, cà ràng hay nhiều từ thuộc các phương ngữ Hoa Nam như ghe, cắc, hên xui…, và không thể nói sự tiếp nhận đồng thời Việt hóa những từ Pháp như ra (drap), ga (gare), kem (crème) đã làm tiếng Việt không còn trong sáng. Những cách nói Tây đặc trước 1945 kiểu Nếu anh có hai đồng, hãy cho tôi vay chúng nó hay Ngôi nhà mà trong đó có hai con chó ở như Lãng Nhân từng chế giễu cũng dần dần mất đi nhường chỗ ch
o các mô hình Việt hóa nhuần nhuyễn hơn, thuận tai hơn… Rõ ràng một ngôn ngữ đã trưởng thành như tiếng Việt hoàn toàn có khả năng xác lập lại sự trong sáng của nó ngay cả tại những khúc quanh chật hẹp và nguy hiểm nhất của lịch sử. Cho nên cái làm cho tiếng Việt đứng trước nguy cơ không trong sáng không phải do bản thân tiếng Việt, mà do cách sử dụng tiếng Việt phi quy chuẩn và chính sách ngôn ngữ không rõ ràng.
Giống như mọi giá trị văn hóa phi vật thể, tiếng Việt chỉ có thể tồn tại và phát triển trên cơ sở hoạt động sử dụng – tiêu dùng và tái tạo của con người, nên mối quan hệ với thực tiễn xã hội của nó luôn được xác lập trên cơ sở chức năng. Dĩ nhiên chức năng của các giá trị văn hóa phi vãt thể có thể mở rộng hay thu hẹp, giữ nguyên hình hay được khuôn nắn lại, nhưng luôn luôn có một một giới hạn nhất định mà nếu vượt qua thì các giá trị ấy không còn là chúng nữa. Đối với ngôn ngữ mà chức năng chủ yếu đầu tiên là thông tin và giao tế, giới hạn ấy lại càng nghiêm ngặt. Ngôn ngữ chat bằng tiếng Việt trên mạng của một bộ phận người trẻ lan ra trong văn nói và viết, hàng loạt từ Việt Hán bị cả một bộ phận trí thức hiểu sai dùng sai, sự lạm dụng nhiều từ tiếng Anh trong hoạt động giao tế hàng ngày… đang đụng tới cái giới hạn nghiêm ngặt ấy. Đây là chưa nói tới sự giảm thiểu đáng kể cũa các thành ngữ tục ngữ trong thực tiễn ngôn ngữ của xã hội cũng đang góp phần làm cạn kiệt tiềm năng của tiếng Việt hiện nay. Tình trạng phi quy chuẩn này cũng mở rộng ra trong hoạt động tạo từ, với những sản phẩm dị dạng kiểu Quốc giỗ (may mà người ta chưa sửa Quốc kỳ thành Quốc cờ) hay Quốc mẫu Âu Cơ – Quốc tổ Hùng Vương. Việc xé rào gần như của toàn bộ xã hội ấy về ngôn ngữ lại hoàn toàn không mang dấu hiệu nào của việc phủ nhận chuẩn mực cũ để xác lập chuẩn mực mới, nên không lạ gì mà trên tiến trình của nó trong lịch sử, tiếng Việt hiện nay gần như đang bị đặt trước một ngả ba đường…
Trên phương diện chính sách ngôn ngữ, có thể nói ngoài khẩu hiệu Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt thì nhiều năm qua chính quyền gần như hoàn toàn không có một chính sách rõ ràng và nhất quán. Trước 1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh có một lá thư khen ngợi các chiến sĩ dân quân gái ở một địa phương dùng súng trường bắn rơi máy bay Mỹ. Không ngờ người trên ưa thích thì kẻ dưới làm quá, sau đó báo chí miền Bắc rộ lên hàng loạt từ mới như Bộ trưởng gái, Nhà bác học gái, Nhà du hành vũ trụ gái khiến dư luận đương thời phải lên tiếng chấn chỉnh. Nhưng ngược lại trong suốt hơn hai mươi năm đổi mới gần như không có một Pháp lệnh nào về tiếng Việt trong lãnh thổ Việt Nam được ban hành, không có một quyển Từ điển thuật ngữ tin học mang tính pháp quy nào được xuất bản, không có một Hội nghị cấp quốc gia nào được tổ chức để các nhà ngôn ngữ học, các nhà nghiên cứu văn hóa cùng nhận diện thực trạng tiếng Việt trong hoàn cảnh mới. Trong khi đó, khẩu hiệu Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt lại được vận dụng tùy tiện và ngẫu hứng ở các ngành các cấp. Chẳng hạn khi chỉ đạo việc xuất bản tập Thơ Trần Dần, người ta đã gởi một công văn cho Giám đốc Nhà xuất bản Đà Nẵng, trong có đoạn:
“Nhà xuất bản Đà Nẵng cần tổ chức biên tập kỹ bản thảo nói trên theo hướng:
- Tuyển chọn những bài có chất lượng tốt về tư tưởng và nghệ thuật,
- Không chọn những bài có cách viết không theo chuẩn chính tả hiện hành, không trong sáng về tiếng Việt,
- Không chọn những bài có xen lẫn chữ Việt, chữ nước ngoài”.
Ngôn ngữ thơ ca là ngôn ngữ nghệ thuật, và nghệ thuật bao giờ cũng nỗ lực vượt thoát các lối mòn, mà ở đây người ta đem chuẩn chính tả ra làm thước đo, coi đó là một tiêu chuẩn về sự trong sáng của tiếng Việt văn học. Nhưng tới mục “Không chọn những bài có xen lẫn chữ Việt, chữ nước ngoài” thì quả thật không rõ các tác giả của tờ công văn ấy có hiểu được sự khác biệt giữa tiếng Việt và chữ Việt không, và họ nghĩ thế nào về những câu thơ như “Ốtsơvenxim, Ốtsơvenxim!” của Tố Hữu.
Những chính sách ngôn ngữ tích cực luôn luôn hướng tới việc giúp cho ngôn ngữ thực hiện thông suốt các chức năng đồng thời phát huy tối đa các khả năng của nó, nên không phải ngẫu nhiên mà ở nhiều quốc gia chính phủ chĩ pháp quy hóa mảng từ vựng khoa học kỹ thuật, hay ở Trung Quốc do thực tiễn văn tự mà Quốc vụ viện (Quốc hội) phải ban hành cách viết một số chữ phồn thể thành giản thể, tức chỉ can thiệp về mặt chính tả. Nhưng tiếng Việt là một ngôn ngữ tự nhiên đã trưởng thành và đủ mạnh để trong sáng, và cần nhấn mạnh rằng sự trong sáng của ngôn ngữ không mang hàm ý đạo đức hay chính trị. Chính sự sử dụng bừa bãi bậy bạ của xã hôi và quan niệm không đúng đắn về sự trong sáng của ngôn ngữ ở những người quy hoạch chính sách và quản lý xã hội đã đưa tiếng Việt tới một thực trạng đáng buồn như hiện nay.
Chứ tiếng Việt tự thân nó vốn rất trong sáng mà…
Tháng 3. 2008

Sao không ai phân loại dân quân theo cách của Bác Hồ?


Bác Hồ không thích gọi chị em dân quân là nữ dân quân. Người gọi họ là dân quân gái. Thư khen của chủ tịch nướccũng sử dụng cụm từ này.
Các cụ già tham gia dân quân được Bác gọi là dân quân già (không nêu giới tính trai gái), nhưng thư khen của chủ tịch nước lại dùng cụm từ lão dân quân và cũng không nói rõ đó là trai hay gái.
Trước và sau Bác Hồ không ai gọi dân quân theo cách ấy, nếu cần phải nói rõ giới tính hay tuổi tác của người ta.

Ý kiến nhỏ về Tư duy và Suy nghĩ (Phạm Toàn - Đại Đoàn Kết)

Ý kiến nhỏ về Tư duy và Suy nghĩ04/04/2013

Ảnh: TL

Chừng dăm bảy tuần trước, giáo sư Chu Hảo gọi cho tôi và ra đề: "TƯ DUY và SUY NGHĨ khác nhau ra sao?”. 

Hình như bữa đó, câu trả lời chợt đến với tôi lại giống như là một câu hỏi ngược. Ờ nhỉ,  Cogito ergo sum dịch là gì nhỉ? "Tôi tư duy vậy tôi tồn tại”. Có thể nôm na hơn không, chẳng hạn, "Tôi đang suy nghĩ, vậy là tôi đang sống trên đời”?  

Tiếng Việt có hai từ tư duy và suy nghĩ để cùng diễn tả cùng một "hành động thầm trong đầu” ấy. Chỗ khác nhau về hình thức tư duy là từ Hán Việt, suy nghĩ là từ thuần Việt – suy nghĩ  liên tưởng sang suy xét, nghĩ ngợi, tính toán, sắp xếp, sắp đặt mọi việc –  tư duy thì cộc, gọn lỏn vậy thôi.   

Khi trong kho từ vựng có hai từ cùng nghĩa một Hán Việt và một thuần Việt, thì ta đứng trước những cách dùng khác nhau. Dạng thuần Việt được dùng lối thân mật, giản dị, ngữ nghĩa gần với đời thường. Dạng Hán Việt được dùng theo lối trịnh trọng, ngữ nghĩa chặt chẽ, khái quát, gần với ngôn ngữ khoa học, tức là dùng như một khái niệm, như một phạm trù, khó gây hiểu lầm.

Lấy một thí dụ: Cụ Hồ gọi dân quân gái, học sinh gái, bác sĩ gái, kể cả bộ trưởng gái, nhưng đến khi giới thiệu nữ Thủ tướng Ấn Độ Indira Gandhi thì hình như Cụ cũng kịp hãm phanh, không bỗ bã thân tình gọi vị nữ nguyên thủ đó là Thủ tướng gái.

Liên quan đến chủ đề của chúng ta hôm nay, khai thác cách dùng khái niệm diễn đạt bằng thuật ngữ tư duy cùng những hệ quả của cách dùng đó, tập trung vào hướng này và ta sẽ thấy thêm đôi điều.

Điều đầu tiên đập vào ta, theo tôi nghĩ, ấy là tư duy là công việc không diễn ra trong chân không. Nó giống như việc phát âm trong một ngôn ngữ: cái ngữ âm không thể nằm trong chân không, mà phải được gửi trong những từ. Khi tư duy thì chắc chắn càng phải có một vấn đề cho ta giải quyết. Ta có thể suy nghĩ mông lung, nhưng tư duy của con người hướng tới việc giải quyết một vấn đề đặt ra cho con người. Nghĩ rằng đó có thể là định nghĩa tư duy một cách hành dụng – định nghĩa bằng việc làm và định nghĩa để làm.

Con người suy nghĩ để xử lý một chuyện của đời thường, như mọi con người bình thường vẫn bắt gặp cần xử lý hàng ngày hàng giờ. Nhưng con người sẽ tư duy về những vấn đề lớn của mình đòi hỏi những thao tác tư duy thích hợp và đòi hỏi một kỷ luật tư duy thích hợp.

Tôi xin phép lấy thí dụ từ những việc đã và đang làm để minh họa đôi chút về tư duy như là những việc làm trong đầu và thể hiện trong cuộc đời thực để giải quyết một vấn đề của con người trong cuộc đời thực.

Chắc nhiều bạn biết rằng đã ba năm rồi chúng tôi có một nhóm Cánh Buồm để soạn lại sách giáo khoa bắt đầu từ bậc tiểu học, rồi tự mình trình ra trước xã hội, trước đồng bào, trước công chúng.  

Trước hết, nhóm đó định giải quyết một vấn đề gì của cuộc sống thực của Việt Nam hiện thời? 

Đó là vấn đề khủng hoảng của Giáo dục và dường như là cả sự bất lực không thoát ra nổi khỏi cuộc khủng hoảng đó. 


Nhà giáo Phạm Toàn với
 học sinh trường Nguyễn Văn Huyên, Hà Nội

Chúng tôi giả định nguyên nhân sự bất lực là do thiếu đường lối lý thuyết và thiếu đồng thuận trong cách thoát ra khỏi khủng hoảng.

Tiếp theo, chúng tôi tự đặt cho mình nhiệm vụ dùng một công việc đột phá để tạo ra một "địa chỉ đồng thuận” cho xã hội chú mục vào. Chúng tôi chọn khâu đột phá đầy tính chất thị phạm đó là MỘT BỘ SÁCH GIÁO KHOA, bắt đầu từ bậc học khó nhất, bậc Tiểu học. Chỉ một việc làm đó sẽ (1) hàm chứa lý thuyết về một cuộc Giáo dục Hiện đại cần thiết cho đất nước, (2) hàm chứa cách học phải thay đổi của trẻ em và do đó thay đổi cả cách làm việc của giáo viên, và (3) hàm chứa những gợi ý về cách xây dựng toàn bộ ngôi nhà Giáo dục để các chuyên gia trong cả nước cùng nghĩ và cùng làm. 

Ngoài việc gắn tư duy với những việc làm, nhờ lấy chuẩn mực đánh giá tư duy là những việc làm có thật, đổi lại tư duy cũng tạo ra một trật tự cho sự SUY NGHĨ của con người – và chính cái trật tự tư duy ấy sẽ thành một cái nết đem lại kết quả cho công việc.

Vì nhận thức như thế, nên trong nội dung sách giáo khoa mới, chúng tôi thường trực chú ý đến những việc giao cho học sinh làm để tổ chức tư duy đứa trẻ từ tấm bé, từ khi bắt đầu vào lớp Một. Chứ không bắt các em "học” với cái đầu rỗng, học mà không học gì hết – vì học đâu có phải là kiến thức, mà học chính là dùng cách đi tìm kiến thức (học phương pháp học) để rèn luyện tư duy trừu tượng cho người học... Nhưng ôi chao, bắt học sinh đợi hoài, đợi đến khi chán các thao tác tư duy, vì thấy chúng không gắn kết máu thịt với con người mình, chỉ thấy chúng là một mớ thuật ngữ rắc rối lạnh lùng vô cảm, hơn nữa, chúng còn liên kết thành những đề ôn tập rồi thành đề thi quấy nhiễu cuộc sống yên lành của kẻ đã chán học chỉ còn muốn ăn no ngủ kỹ... 

Chúng tôi hy vọng từ lớp Một thì tạo ra cái tư duy thuận cho trẻ em. Hy vọng dần dần tạo thêm được tư duy thuận nghịch cho các em vào cuối bậc học phổ thông. Mong rằng khi đó có thể tạo thêm tư duy hoài nghi cho các em nữa. René Descartes nói đến Cogito ergo sum (Tôi tư duy, vậy là tôi tồn tại).  Cuộc đời thực còn bổ sung cho tư duy người Dubito, ergo cogito, ergo sum (Tôi hoài nghi, do đó tôi tư duy, và do đó tôi tồn tại thật trên đời này). 

Mong sao mấy gợi ý này sẽ giúp các nhà lý thuyết (tức là các nhà hành động) bớt ăn no ngủ kỹ, sao cho những hành động trên đất nước này sẽ thấm đượm chất tư duy.

Phạm Toàn