Sunday, 23 February 2014

Tráng ca 307 - Kỳ 3: Một người Nga ở 307 (Nguyễn Kế Nghiệp - Tuổi Trẻ)


Thành Nga (hàng đứng, thứ ba từ phải sang) với anh em đại đội trợ chiến tiểu đoàn 307 - Ảnh tư liệu
TT - Cuối năm 1951, sau nhiều chiến công hiển hách và đà phát triển mạnh, tiểu đoàn 307 thành lập thêm một đại đội trợ chiến, chuyên sử dụng súng lớn để phá thành, bắn tàu và máy bay. Trong số cán bộ chiến sĩ được tuyển chọn để hình thành đại đội này có một "ông Tây" tóc vàng, mắt xanh, cao tới 1,9m, nói tiếng Việt giọng Nam bộ.
Anh tên Nguyễn Văn Thành, đến từ trung đoàn 99 Bến Tre. Trước nữa thì anh tên Platon Alexandrovich, người Nga. Từ đó, 307 có Thành Nga.
Con đường vòng
Câu chuyện đẩy đưa Thành Nga đến với 307 thật ly kỳ. Thế chiến thứ hai xảy ra, như mọi thanh niên Nga, Platon gia nhập Hồng quân Liên Xô, nguyện hi sinh thân mình cho chiến tranh vệ quốc. Trong một trận đánh, Platon bị quân Đức bắt làm tù binh. Trải qua nhiều trại tù, Platon bị bắt làm lao dịch, rồi bị đưa vào đội quân phát xít tấn công nước Pháp. Quân Đức bại trận, số tù binh được bàn giao cho quân đồng minh, quân đồng minh giao luôn cho quân đội Pháp. Platon lại một lần nữa bị bắt buộc đổi quân phục, bị biến thành quân lê dương và bị đưa sang VN, về đồn Cái Cối, Bến Tre.
Platon chưa bao giờ biết VN. Cầm khẩu súng đứng lạc lõng trong đồn, lý tưởng vệ quốc, tinh thần quốc tế vô sản của một chiến sĩ Hồng quân trong Platon mách bảo những tiếng súng phát ra sau những lũy tre kia không phải là quân phiến loạn ở thuộc địa Pháp. Platon để tâm tìm hiểu và một ngày kia, trong mớ chiến lợi phẩm quân lê dương Pháp thu về có một tập tài liệu và mấy tấm ảnh. Thành Nga vẫn còn xúc động khi kể cho chúng tôi nghe giây phút ấy: "Thoáng thấy mấy tấm hình bọn chúng giơ cao, tôi suýt nữa bật đứng nghiêm và hô ua-ra như thói quen ở Liên Xô. Đó là ảnh Lênin, Stalin, Mao Trạch Đông và một người mà sau này tôi biết là Hồ Chí Minh. Ngay lập tức, tôi hiểu VN đứng về phía nào, những người lính phía bên kia là ai. Những tấm ảnh đã cứu linh hồn tôi và đó là việc duy nhất tôi phải cảm ơn quân Pháp".
Từ đó Platon tìm cách lân la đến gần những người Việt. Anh tận dụng mọi cơ hội, chọn một quán nước để "ngồi đồng", biểu lộ tâm tư bất mãn, chán nản của mình. Nhưng cả tháng vẫn không thấy tín hiệu khả quan, Platon sốt ruột đánh liều, anh lấy mảnh giấy viết một câu tiếng Pháp: "Tôi muốn liên lạc với Việt Minh" để lên bàn trước khi rời quán. Mảnh giấy lập tức được bà con chuyển đến ban công tác thành Bến Tre.
Một cuộc thăm dò công khai nhưng âm thầm được tiến hành. Ngày nào Platon cũng đến đúng chiếc bàn ấy chờ. Ban công tác nhận định tay lính này quả là có thiện ý móc nối. Một lần nữa Platon viết mấy chữ vào mảnh giấy, cô chủ quán đến lau bàn rồi cầm nó đi luôn. Platon sững người vì bất ngờ và vui mừng. Anh ra về, cố ý đi qua cô chủ. Cô nói khẽ, rất nhanh: "Sáng mai ông đến sớm, cà phê ngon hơn". Cuộc tiếp xúc với Việt Minh sáng hôm sau diễn ra chóng vánh. Thêm một tuần lễ chuẩn bị, nhân một cuộc đi càn, Platon vác một khẩu súng máy và một bao đạn, theo hướng dẫn của giao liên đi sâu vào vùng giải phóng.
Platon đã trở thành Việt Minh, thành Thành Nga. Anh tận dụng lợi thế của mình mặc quân phục sĩ quan Pháp, đeo lon quan hai cùng đồng đội cải trang, đi xe jeep tiến hành những cuộc đánh úp chiếm đồn bót, đoạt vũ khí nhanh gọn, đối phương trở tay không kịp. Gần một năm kiểu cải trang đó mới bị quân Pháp phát hiện là do tên lính đào ngũ. Thành Nga được đưa về trung đoàn 99 Bến Tre rồi được chuyển sang tiểu đoàn 307, là một đại đội phó sử dụng súng 12 ly 7 và cối 60 rất dũng cảm.
Năm 1952, Thành Nga được kết nạp vào Đảng Lao động VN.
Xứ dừa thành quê ngoại
Janine (giữa) và các cựu binh tiểu đoàn 307 tại Bến Tre năm 1987 - Ảnh tư liệu
Thành Nga đã cùng anh em 307 chèo xuồng, lội ruộng, băng đồng xuôi ngược từ Tháp Mười tới mũi Cà Mau. Anh trầm tĩnh, ít nói, nghiêm túc, hiền lành và hòa hợp, cũng cắm câu soi cá, cũng giậm cù bắt chuột, cũng mắm muối tương chao, cũng áo cổ vuông, quần đùi túi hàm ếch, cũng rút xuống lỗ chân trâu rít hơi thuốc trong đêm hành quân...
 Các má, các chị miền Tây cũng thương Thành Nga như thương tất cả các anh bộ đội khác, có phần còn ưu ái hơn cái đứa côi cút phải xa gia đình, xa quê hương, bản xứ. Các má vun đắp cho Thành Nga kết duyên với cô gái xinh đẹp nhất làng, chính là cô chủ quán nước hôm nào đã đem đến bước ngoặt cho đời anh. Dưới mái lá hạnh phúc, một cô con gái ra đời, ghi tên là Nguyễn Hồng Minh và gọi là Janine.
Đến ngày đình chiến, Thành Nga được lệnh tập kết. Anh bâng khuâng trước một cuộc ra đi nữa, xa nơi anh đã coi là quê hương thứ hai thì bà ngoại bế Janine xuống tận điểm tập kết ở Chắc Băng, Cà Mau trao vào tay. "Kẻo nó đi bơ vơ, tội nghiệp", bà chỉ nói đơn giản vậy nhưng mối dây nối với VN của Thành Nga sẽ không bao giờ đứt. Ra Hà Nội, một lần Janine 5 tuổi được theo thiếu nhi Liên Xô con các cán bộ đại sứ quán vào thăm Bác Hồ. Bác bế cháu lên nói chuyện bằng tiếng Nga, Janine không hiểu mà lại líu lo tiếng Việt. Bác Hồ vô cùng xúc động khi biết có một người Nga tham gia kháng chiến ở Nam bộ.
Về nước, Thành Nga vào làm biên tập viên chương trình tiếng Việt của Đài phát thanh Matxcơva. Cán bộ miền Nam nào sang Nga, Thành Nga cũng tìm đến để nói tiếng Việt và để hát "Cửu Long Giang sóng trào nước xoáy...". Anh dạy con gái tiếng Việt và Janine sau này cũng làm công việc như cha. Thành Nga bảo con về Hà Nội tu nghiệp thêm tiếng Việt ở ĐH Tổng hợp Hà Nội và tìm đường về quê ngoại, tìm các đồng đội xưa ở 307. Janine đã tìm được ban liên lạc tiểu đoàn 307, đã được các chú đưa về sông Cái Cối, bà ngoại và mẹ của Janine đã mất nhưng tình thương yêu mà bà con Bến Tre đã dành cho cô bé hai dòng máu thuở nào thì vẫn ắp đầy. Janine cúi lạy bên mộ bà và mẹ, bảo rằng từ nay cô có thêm một chốn để trở về.
Dịp kỷ niệm 40 năm ngày truyền thống 307 năm 1988, tỉnh Bến Tre đã mời Thành Nga trở về VN. Cuộc hội ngộ giữa những người cựu binh có nhiều nước mắt, nhiều tiếng cười. Sau khi cùng nhau hát vang "Ai đã từng đi qua sông Cửu Long Giang...", các đồng đội hỏi Thành Nga có ước muốn gì ở Bến Tre để cùng nhau thực hiện, anh bảo có hai điều: một là thăm mộ mẹ và vợ, hai là được ăn một bữa cơm với ba khía và rau lang luộc chấm chao.
NGUYỄN KẾ NGHIỆP
(nguyên trung đội trưởng bộ binh tiểu đoàn 307)
--------
Đầu những năm 1960, ở Hà Nội có một người được mệnh danh là Paven VN, trở thành tấm gương sống động của “thép đã tôi” trong mắt bao chiến sĩ, thanh niên thời ấy. Trước đó, anh là tiểu đoàn trưởng anh dũng thứ ba của tiểu đoàn 307.
Kỳ tới: Tay mềm mại bút hoa

Saturday, 22 February 2014

Bán lữ đoàn lê dương số 13 sang Đông Dương làm gì?



Bán lữ đoàn lê dương số 13 nguyên là bán lữ đoàn lê dương dã chiến số 13 (13e demi-brigade de marche de la Légion étrangère - 13e DBMLE), được thành lập ngày 1 tháng 3 năm 1940 để tham gia đạo quân Anh pháp trong chiến dịch Phần Lan. Khi Pháp đầu hàng Đức, đơn vị này chạy thoát được sang Anh. Vấn đề đặt ra cho 1619 người. sĩ quan và binh lính tại hàng ngày 28/6/1940 là lựa chọn xem phải theo ai, tham gia kháng chiến (bất hợp pháp) hay về với chính phủ (hợp pháp).

Ngày 1/7/1940 tiểu đoàn 1 (khoảng 900 người) quyết định ở lại Anh, lập ra bán lữ đoàn lê dương dã chiến số 14 (14e DBMLE, 25 sĩ quan, 102 hạ sĩ quan và 702 binh sĩ) tham gia kháng chiến. Đây là tập thể lớn nhất đi theo kháng chiến đầu tiên. Trong khi đó tiểu đoàn 2 (khoảng 800 quân) kéo sang Ma-rốc với danh nghĩa của 13eDBMLE, quy thuận chính phủ Pháp (thân Đức).

Ngày 4/11/1940 13e DBMLE được giải thể. Bộ phận ở Anh bèn bỏ phiên hiệu 14e DBMLE và lấy lại phiên hiệu và truyền thống của 13e DBLE.

Trong Thế Chiến thứ 2, 13e DBLE lập được nhiều thành tích. Đặc biệt trong trận Bir-Hakem (từ 26/5/1942 đến 11/6/1942), 13e DBLE nằm trong đội hình của lữ đoàn 1 Pháp Tự Do (1re Brigade Française Libre) có công chặn đứng các cuộc tấn công của liên quân Đức Ý, tạo điều kiện cho quân Anh triệt thoái an toàn. Ngày 6/4/1945 13e DBLE được thưởng huân chương Giải Phóng (Croix de la Libération).

Sau khi chiến tranh thế giới kết thúc, chính phủ Pháp quyết định gửi 13e DBLE sang Đông Dương trong thành phần đạo quân viễn chinh tái chiếm thuộc địa cũ. Ngày 6/2/1946 13e DBLE đổ bộ ở Sài Gòn, đóng quân ở phía bắc thành phố, tạo lập tam giác liên hoàn Gia Định – Thủ Đức - Hóc Môn. Tuy nhiên, từ khi  bắt đầu hành quân, các tiểu đoàn của 13e DBLE thường bị xé lẻ, đưa đi nhiều chiến trường khác nhau: tiểu đoàn 1 ở Cam-puchia, tiểu đoàn 2 ở Trung Bộ (Huế và Đà Nẵng), tiểu đoàn 3 ở Nam Bộ. cuộc hành quân. Đến năm 1950, 13e DBLE mới tập trung trở lại, biên chế tăng thêm một tiểu đoàn để làm nhiệm vụ càn quét Đồng Tháp Mười.

Ngày 31/1/1953, tiểu đoàn 4 được giải thể, tiểu đoàn 3 trở thành tiểu đoàn lưu động, ra tận Bắc Bộ. Cuối năm này toàn bộ 13e DBLE được đưa ra Bắc. Trừ tiểu đoàn 2 ở lại đồng bằng sông Hồng, hai tiểu đoàn kia phải lên Điện Biên Phủ: tiểu đoàn 3 (thiếu tá Paul Pégot) trấn giữ cứ điểm Béatrice (Him Lam), tiểu đoàn 1 (thiếu tá de Brinon, sau là thiếu tá Robert Coutant) giữ Claudine.

Ngày 13/3/1954 Việt Minh tấn công Điện Biên Phủ, mở màn bằng trận diệt Him Lam. Số sống sót của tiểu đoàn 3 gom lại chưa đủ một đại đội. Hậu cứ dưới đồng bằng đang tổ chức tái lập tiểu đoàn 3 thì ngày 7/5/1956 Điện Biên Phủ thất thủ, tiểu đoàn 1 bị xóa sổ luôn.

Ngày 15/5/1955 bán lữ đoàn lê dương số 13 là đơn vị quân Pháp cuối cùng rời Đông Dương. Tổng cộng 80 sĩ quan, 307 hạ sĩ quan và 2334 binh sĩ đã bỏ mạng vì cuộc chiến tranh Đông Dương.

Friday, 21 February 2014

Hồi tỵ là gì?



Hồi tỵ (chữ Hán : ) là tránh đi – Ví như một người bổ đi làm quan thủ-hiến ở một địa-phuơng, nếu có một người bà con đã làm thuộc-liêu ở chỗ đó thì người ấy phải tránh đổi đi chỗ  khác, thế gọi là hồi-tỵ. (Đào Duy Anh, 2005:347)

Gustave Hue (1937:389) dịch là se retirer, s’abstenir, chính là tránh đi.

Quy định hồi tỵ thì có nhiều, mỗi thời mỗi khác, nhưng nguyên tắc chi phối chỉ có một. Đó là tránh để  xảy ra xung đột lợi ích (tiếng Anh là conflict of interest). Ví dụ như giữa mình và thằng ấy có quan hệ thân thiết kiểu Tôi và gia đình anh Ngọ đã có quen biết từ lâu mà cấp trên lại giao cho mình làm trưởng ban chuyên án điều tra các sai phạm của nó thì phải hồi tỵ ngay. Càng không thể cho nó đến nhà riêng rồi ân cần bảo nó rằng chỗ anh em chú cứ yên tâm để anh lo Mà cho dù không thân đến mức ấy nhưng đã gặp riêng nó rồi thì cũng phải hồi tỵ cho nó lành, khỏi cần ai giải oan.  

Nguyễn Văn Thành (Trang thông tin kinh tế - xã hội Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre)

Nguyễn Văn ThànhIn
    Ngày 17-8-1947, một người lính lê-dương trong quân đội Pháp chiếm đóng tại BếnTre, qua đường dây của cơ sở địch vận của ta, đã mang vũ khí sang hàng ngũ kháng chiến. Người hàng binh ấy nguyên là một hồng quân Liên Xô bị bọn phát xít Đức bắt làm tù binh, và cuộc chiến tranh đã đưa đẩy anh vào quân đội viễn chinh Pháp hoạt động ở chiến trường Việt Nam.
   Anh tên là Skrinski Platon Alekxandrovich, sinh năm 1922 tại Ucraina. Sau khi tốt nghiệp trung học hệ 10 năm, anh gia nhập hồng quân Liên Xô năm 1941. Mùa xuân 1942, trong một cuộc bao vây của quân Đức tại mặt trận Khaccốp, anh cùng đơn vị bị bắt làm tù binh tại Đan Mạch, thì bị động viên vào đội quân lê-dương của Pháp.
   Tháng 4-1946, anh bị đưa sang chiến trường Đông Dương và đã từng đóng quân ở nhiều nơi: Sài Gòn, Thủ Đức, Sa Đéc, Vĩnh Long, Bến Tre. Sống trong đội quân xâm lược, từng chứng kiến hằng ngày những hành động cướp bóc, đốt phá, hãm hiếp dã man của đám lính Âu Phi, anh đã dần dần hiểu ra tính chất phi nghĩa của cuộc chiến tranh do bọn Pháp tiến hành, mà anh chỉ là một con "tốt" đánh thuê không hơn, không kém. Bản thân anh cũng đã từng nếm trải những nỗi nhục nhằn, cay đắng trong các trại tù binh của phát xít Đức, cho nên khi có điều kiện, anh thường tìm mọi cách để giúp đỡ những người Việt Nam bị địch bắt, bị tra tấn, giam cầm.
   Cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta nhằm giải phóng đất nước đã có tác động khơi dậy ý thức của người lính Xô-viết năm xưa trong con người Platon Alekxandrovich và giúp anh thấy rõ con đường phải chọn là nhanh chóng thoát khỏi kiếp lính đánh thuê, đứng về phía hàng ngũ của những ngừoi kháng chiến trên một chiến trường nhiệt đới còn xa lạ đối với anh lúc bấy giờ.
   Khi ở Vĩnh Long, anh đã bắt liên lạc với cơ sở hoạt động bí mật ở thị xã, nhưng rủi thay, chưa kịp hành động thì cơ sở này bị vỡ, nhiều người bị địch bắt, bị tra tấn rất dã man. Thế là anh đứt mất liên lạc. Sau đó, anh được điều sang chiến trường Bến Tre. Tại đây, anh đã tìm cách liên lạc được với cơ sở cách mạng và ngày 17-8-1947, anh mang vũ khí ra vùng tự do. Tại đây, anh được phân công về công tác ở đội công tác 1, đơn vị hoạt động ở thị xã Bến Tre và vùng ven, cũng tại đây, anh mang cái tên Việt Nam là Nguyễn Văn Thành, hay như đồng đội và đồng bào quen gọi anh là "Thành Nga" hay Hai Thành. Anh đã tham gia chiến đấu hàng chục trận lớn, nhỏ.
   Vốn điềm đạm, cần cù, tận tụy trong công tác, nên "Thành Nga" không những được đồng đội tin cậy mà còn được dân thương yêu, quý mến. Một người con gái ở Mỹ Thạnh An – nay thuộc thị xã Bến Tre – tên là Colette Mai đã đem lòng yêu anh, và hai người được sự giúp đỡ của toàn thể đơn vị và đoàn thể địa phương, trở thành vợ chồng. Lễ cưới được tổ chức tại xã Nhơn Thạnh. Trong ngôi nhà cột cây, vách lá do đồng bào góp công, góp sức xây dựng nên trong hoàn cảnh chiến tranh, họ sống với nhau khá hạnh phúc. Và cũng tại nơi đây, tháng 8-1949, cô con gái đầu lòng Janie ra đời. Bến Tre lúc này bị địch tăng cường càn quét, ruồng bố liên miên, đồn bót mọc lên chi chít khắp nơi. Hoạt động và đi lại của bộ đội và cán bộ ta ngày một khó khăn. Để đảm bảo sự an toàn cho hai mẹ con, buộc lòng tổ chức phải tìm cách đưa vợ con anh về sống hợp pháp ở thị xã, còn Hai Thành cũng chuyển công tác về một đơn vị trợ chiến thuộc trung đoàn Cửu Long, hoạt động ở vùng Trà Vinh.
   Đến đầu năm 1953, anh tình nguyện xin về tiểu đoàn 307, được phân công làm khẩu đội trưởng súng cối 60 mm và tham gia chiến đấu ở đơn vị này cho đến ngày đình chiến (7-1954).
   Trong thời gian chuyển quân tập kết, anh được phân công làm công tác phiên dịch trên tàu Xtarôpôn của Liên Xô ra Bắc vào Nam nhiều chuyến, sau đó trở về công tác tại đơn vị cũ lúc bấy giờ đóng tại Thanh Hóa. Cháu Janie cũng được đưa ra thủ đô Hà Nội, được chăm sóc chu đáo. Bản thân anh Hai Thành, sau đó cũng đã sống cùng với con gái một thời gian trong một ngôi nhà bên bờ Hồ Tây (Hà Nội).
   Ngày 10-5-1955, theo sự thỏa thuận của hai chính phủ Việt Nam và Liên Xô, Nguyễn Văn Thành được về lại quê hương của mình cùng với cô con gái mang hai dòng máu Việt – Xô: Janie. Sau khi về nước, anh nhận công tác ở Ban tiếng Việt của Đài phát thanh Matxcơva cho đến khi về hưu. Anh cũng là người dịch và giới thiệu quyển Vượt Côn Đảo của Phùng Quán với độc giả Liên Xô.
   Cô con gái của anh, sau khi tốt nghiệp ở Trường Đại học Tổng hợp Matxcơva, cũng đã nối tiếp theo con đường của bố, xin về làm ở Ban tiếng Việt, Đài phát thanh Matxcơva. Trong dịp Tết Quý Mão (1988), Janie (lúc này đã 38 tuổi) đã có dịp sang Việt Nam, về thăm lại quê ngoại Bến Tre, viếng mộ mẹ và bà ngoại, gặp lại những người thân đã từng chăm sóc, nuôi nấng bé Janie từ những năm gian khổ chiến tranh. Chuyến đi này đã để lại ở Janie nhiều xúc động sâu sắc về những tình cảm thương yêu quý mến của những người ruột thịt, những người đồng hương và cả những người đồng chí Việt Nam đã từng chiến đấu với cha mình trong đơn vị tiểu đoàn 307 nổi tiếng một thời của những năm chống Pháp ở chiến trường Nam Bộ.
   Cuộc đời của Platon Alekxandrovich đầy những gian truân, nhưng cũng trải qua không ít may mắn kỳ lạ, giống như một huyền thoại. Một phần cuộc đời của anh gắn bó chặt chẽ với cuộc chiến đấu anh hùng của nhân dân Việt Nam với cái tên Hai Thành hay "Thành Nga", và nó đã trở thành một sự kiện đáng ghi nhớ, một bông hoa đẹp làm thắm tươi thêm tình cảm hữu nghị của hai dân tộc Việt – Xô.

Đơn vị nào đóng trong trại Xê-da-ri (Thái Nguyên) khi Đội Cấn làm binh biến?



Trong quyển tiểu thuyết viết về cuộc khởi nghĩa Thái Nguyên, Hà Ân (1977:66) viết:
Xê-da-ri do trung đoàn Mác-xoanh (Marsouins) thuộc bán lữ đoàn lê dương thuộc địa thứ 9 đóng giữ.
Bán lữ đoàn (demi-brigade) cũng là trung đoàn (régiment). Bởi vậy không thể có chuyện trung đoàn nằm trong thành phần của bán lữ đoàn.

Ngoài ra, không có đơn vị nào mang danh lê dương thuộc địa cả. Lê dương là lê dương. Thuộc địa là thuộc địa. Hai loại lính đó thuộc quyền quản trị của những cơ quan khác nhau.

Các me tây còn phân biệt được:
Các me đã chia chồng Tây ra làm ba hạng: Xi-vin, ca-lô-nhần và lê dương.
Vũ Trọng Phụng (2006k:17)
Vì sao nhà văn chuyên viết tiểu thuyết lịch sử lại có thể bất cẩn như thế?

Mác-xoanh (marsouin) là bộ binh hải quân, tức thủy quân lục chiến, là quân thuộc địa (armée coloniale), không phải là quân lê dương (légion étrangère).
Nhưng Hà Ân (1977:66) nhất dịnh cho đó là lính lê dương:
Đây là một điểm hiểm hóc trong kế hoạch khởi nghĩa của binh lính trại khố xanh Bô-dông. Hai loại lính khác nhau hoàn toàn về sung ống, về khả năng tác chiến và cả về uy thế nữa. Giá thầm hổ thẹn thú nhận rằng lính khố xanh sợ lính lê dương hơn sợ cọp.

Thursday, 20 February 2014

Dân mạng thương tiếc sự ra đi của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ (Chương Tương - Đời Sống & Pháp Luật)


Dân mạng thương tiếc sự ra đi của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ


(ĐSPL) – Sự ra đi của Thượng tướng Phạm Quý Ngọ đã để lại trong lòng cư dân mạng sự thương tiếc vô hạn, nhiều người không khỏi rơi nước mắt khi biết được tâm nguyện cuối đời của ông.
Ngay khi thông tin Thượng tướng Phạm Quý Ngọ qua đời được đăng tải, nhiều cư dân mạng không khỏi bàng hoàng và thương tiếc. Ai cũng ngỡ rằng, mới hôm qua thôi họ còn nhìn thấy ông, nhưng hôm nay Thượng tướng đã về nơi vĩnh hằng. Dẫu biết rằng sinh tử là quy luật của tự nhiên nhưng sao vẫn đau lòng đến vậy.
Một bạn trẻ nick name Vân Hà chia sẻ trên FB của mình: "Mới hôm qua thôi cháu vẫn còn nhìn thấy Thượng tướng nói tên ti vi, thế mà giờ đây người đã về nơi vĩnh hằng, về với quê cha đất tổ. Cháu thật không tin vào mắt mình nữa. Cháu chúc Thượng tướng có giấc ngủ an lành trong lòng đất Mẹ yêu thương".

Thượng tướng Phạm Quý Ngọ được nhiều người biết đến
Nhiều status với những lời chia buồn cùng gia quyến Thượng tướng được đăng tải. Kèm theo đó là lời tiếc thương trước sự ra đi của ông, ai cũng cho rằng đây là "nỗi mất mát quá lớn".

Tướng Ngọ được nhiều người yêu mến và biết đến
Theo báo chí đưa tin, Thượng tướng đã chống chọi với căn bệnh ung thư gan suốt một thời gian dài và cũng đã trải qua nhiều đợt điều trị, nhưng không thành công. Thời gian gần đây sức khỏe của tướng Ngọ giảm sút đi rất nhiều khi căn bệnh ung thư gan tiếp tục hành hạ. Và ông đã qua đời tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108. Sự ra đi của ông để lại trong lòng người thân, bạn bè và những người đồng nghiệp nỗi đau, để lại trong lòng cư dân mạng sự thương tiếc vô hạn.
Bạn trẻ nick nam Hoài Anh chia sẻ: “Cháu biết rằng, sinh tử là quy luật, nhưng mọi việc quá nhanh, cháu vẫn chưa hết ngỡ ngàng. Xin chia buồn cùng gia đình bác. Cầu mong bác siêu thoát về nơi vĩnh hằng của tổ tiên”.
Bạn trẻ nick name Bình Minh tâm sự: “Cháu rất buồn khi nghe tin bác mất. Kính chúc bác yên nghỉ bên tổ tiên. Cầu mong cho mọi chuyện bình yên suôn sẻ”.
Được biết trước khi qua đời, tướng Ngọ có hai điều mong muốn đó là được đưa về quê an táng và cơ quan chức năng mình oan cho mình. “Anh ấy chẳng nói được gì nhiều. Nhưng anh ấy có hai điều mong muốn: Được đưa về an tang ở quê và cơ quan chức năng minh oan cho anh ấy”. Thương tá Ngữ nghẹn ngào nói trong nước mắt. Khi đọc đến đây, nhiều cư dân mạng không kìm được nước mắt.

Dân mạng "đồng cảm" với tâm nguyện của Tướng Ngọ
Bạn trẻ nick name Minh Minh chia sẻ: “Cái chết luôn là nỗi đau. Nhưng khi ta chết đi ta hướng về quê cha đất tổ mọi nỗi đau sẽ được hóa giải, chúng ta được đất mẹ ôm ấp chở che. Đó là tâm nguyện rất đáng mến, đáng quý”.
Một bạn trẻ còn cho rằng: “Tâm nguyện của Thượng tướng quả là cao đẹp. Chúng ta sinh ra ở đâu, đến lúc nhắm mắt xuôi tay chúng ta để về nơi đó, nơi đã sinh ra chúng ta, đã nuôi chúng ta lớn lên thành người. Chúc bác yên nghỉ”.
Nhiều cư dân mạng cho rằng, dẫu biết còn nhiều điều dang dở, còn nhiều vướng mắc nhưng chúng ta hãy hướng về Thượng tướng với tấm lòng thành kính và yêu thương nhất. Mong cho người siêu thoát và có giấc ngủ ngàn thu bên tổ tiên.
Chương Tương


Bán lữ đoàn là gì?



Năm 1789 Cách Mạng Pháp thành công, tiếp thu quân đội của chế độ cũ. Đội quân này gồm nhiều trung đoàn (régiment) với thành phần chỉ huy gồm toàn các nhà quý tộc bảo hoàng và một đội ngũ binh lính nhà nghề. Năm 1794 Hội Nghị Quốc Ước (Convention) giải thể tất cả trung đoàn đó, thành lập các đơn vị mới, gọi là bán lữ đoàn tác chiến (demi-brigade de bataille). Mỗi bán lữ đoàn có hai tiểu đoàn quân tình nguyện (tức dân tay ngang mới đi theo cách mạng) kèm cặp một tiểu đoàn lính (chế độ) cũ. Năm 1796 do quân số hao hụt, hai bán lữ đoàn tác chiến được gom lại thành một bán lữ đoàn chuẩn (demi-brigade de ligne). Năm 1803 các bán lữ đoàn này lại được gọi là trung đoàn (régiment). Mèo lại hoàn mèo.
Trong quân đội Pháp hiện nay chỉ còn một đơn vị mang danh bán lữ đoàn là bán lữ đoàn lê dương số 13 (13e DBLE).