Showing posts with label cây cỏ. Show all posts
Showing posts with label cây cỏ. Show all posts

Wednesday 10 July 2013

Ai đem măng cụt vào đất này?




Người biết tiếng Pháp thường nghĩ rằng măng cụt là từ gốc Pháp (Phạm Văn Tình, Nguyễn Đức Tuấn). Người Pháp gọi quả măng cụt là mangouste. Nhưng ngoài sự trùng hợp về âm thanh đó ra, không có bằng cớ cho thấy là người Việt nào đó biết tiếng Pháp đã phiên âm mangouste thành măng cụt.
Trương Vĩnh Ký có thể là người có công lớn trong việc phổ biến trái măng cụt (và từ măng cụt) ở miền Nam, nhưng điều đó không có nghĩa là từ măng cụt được phiên âm từ tiếng Pháp. 

 Từ măng cụt đã được ghi nhận năm 1838 trong Nam Việt Dương Hiệp Tự Vị của Taberd (2004:297), dịch sang tiếng La Tinh là garcinia mangoustana. Như vậy măng cụt phải xuất hiện trong tiếng Việt và người Việt đã phải khá quen thuộc với thứ trái cây này từ trước cả khi Trương Vĩnh Ký chào đời (tháng 12 năm 1837). Theo Eveillard (1887:10), cây măng cụt đó nguyên bỡi bên Phố mới mà ra: đức giám mục d’Adran, đem cây ấy qua bên nầy, trồng tại Lái thiêu gần Sài gòn. Phố mới là Xinh-ga-po / Tân Gia Ba ; giám mục d’Adran (évêque d’Adran) là đức cha Bá Đa Lộc / Pigneau de Béhaine (1741-1799).

Giả sử các nhà truyền giáo là những người giới thiệu măng cụt cho người Việt (từ nhiều năm) trước 1838, khó có thể tin rằng họ dựa vào từ mangouste của tiếng Pháp để đặt tên Việt cho thứ trái cây này:
Từ mangouste xuất hiện trên sách vở tiếng Pháp lần đầu năm 1798 (Macartney, 1798, Voy. dans l'intér. de la Chine et de la Tartarie, t. 1, p. 362 ds König, p. 139) và được định nghĩa là fruit du mangoustan, tức là quả của cây mangoustan. Từ mangoustan có tiền thân trong tiếng Pháp là mangostan. Từ mangostan này có khi chỉ cây măng cụt (trong Lodewijcksz, 1598, Premier livre de l'histoire de la navigation aux Indes orientales par les Hollandois, fo38 rods Arv., p. 315), có khi chỉ quả măng cụt (trong Lodewijcksz, 1598, Premier livre de l'histoire de la navigation aux Indes orientales par les Hollandois, fo38 rods Arv., p. 314). Các nhà từ nguyên học Pháp đã xác định được rằng gốc của mangoustanmangostae của tiếng Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16 và người Bồ Đào Nha mượn của tiếng Mã Lai (manggoestan).

Từ điển của Viện Hàn Lâm xuất bản năm 1835 không có từ mangouste. Đối với người Pháp thời đó mà nói, mangouste vẫn còn mang âm hưởng xa lạ, chưa được coi là là một từ tiếng Pháp chân chính, thực thụ. Thương nhân và nhà truyền giáo người Pháp lang thang ở Đông Nam Á có thể biết từ mangouste nhưng người Pháp bình thường không biết từ này, không biết đó là thứ gì. Như vậy các giáo sĩ, nếu quả thật họ là những người đầu tiên chỉ cho người Việt biết trái măng cụt là gì, không thể ý thức rằng họ đang dùng một từ tiếng Pháp hay tiếng Bồ để gọi tên thứ trái đó. Cùng lắm họ chỉ có thể biết rằng họ đang dùng một từ mà nhiều người trong vùng Đông Nam Á  (Mã Lai, Pháp, Bồ...) dùng chung, trừ người An Nam (!) vì phải đợi đến khi có mặt các giáo sĩ người phương Tây, người An Nam mới đi lại, buôn bán với Mã Lai (!).

Mặt khác, hơn hai nghìn trường hợp từ Việt có âm đầu [k] mượn tiếng Pháp cũng có âm đầu là [k]: ca <  cas, ca dèn < caserne, côn < cône, < coup, cốt lết < côtelette...). Nói chung người Việt không có vấn đề gì khi bắt chước âm [g] của tiếng Pháp vì vậy âm đầu [g] tiếng Pháp sẽ được  bảo lưu khi chuyển qua tiếng Việt: gare > ga, garde > gác, gomme > gôm.  Chỉ có một vài trường hợp âm [g] tiếng Pháp chuyển thành âm [k] tiếng Việt và đều song song tồn tại với dạng bắt đầu bằng âm [g]: cà mèn / gà mèn < gamelle), bánh ca-tô / ga-tô (gâteau). Người Việt nếu mượn từ mangouste của tiếng Pháp hầu như chắc chắn sẽ gọi đó là trái măng gút hay măng gụt chứ khó có thể gọi là măng cụt.

Âm [k] này khiến ta phải nghĩ đến sự tiếp xúc giữa người Việt và những người gặp khó khăn nhất định với âm [g] như người Trung Hoa chẳng hạn. Măng cụt  trong tiếng Hán có nhiều tên gọi. Một trong những cái tên đó là mãng cát thị (莽吉柿). Lê Văn Đức (1970b:893) cũng ghi nhận một cái tên Hán Việt khác là mã cật
Tiếng Mã Lai hiện nay gọi măng cụt là manggis / manggistan. Một quyển từ điển xuất bản đầu thế kỷ 20 của Wilkinson (1901-1903:647 và 651) chú manggista là từ ngữ văn học cổ điển, manggis là từ địa phương Riau và Johore, masta (phương ngữ Kedah), mesta (phương ngữ bắc). Tuy nhiên, vài năm sau đó, trong bản giản yếu của quyển từ điển này, Wilkinson (1908:506) ghi cả manggis, manggista, manggustan và không chú thích gì, xem như cả ba dạng tương đương nhau. De Clercg (1909:1592) ghi nhận manggis (tiếng Mã Lai, Java và Bali), manggistan (tiếng Mã Lai), manggus (Lampung), manggusta (tiếng Mã Lai, Bali, Bima), manggustan (tiếng Mã Lai Melaka). Waruno Mahdi (2007:142-143) cho rằng dạng manggustan này là tiếng Mã Lai Melaka vay mượn ngược từ tiếng Bồ. Trương Vĩnh Ký ắt phải biết từ này khi du học ở Mã Lai. Các thương nhân người Hoa đi đi lại lại giữa các nước trong vùng Đông Nam Á cũng phải biết. So với các nhà truyền giáo phương Tây thì thương nhân người Trung Hoa hẳn phải có vai trò năng động hơn trong việc làm cầu nối giữa miền Nam nước ta với miệt dưới. Do đó có nhiều khả năng từ măng cụt vào nước ta bằng cách theo chân thương nhân người Hoa hơn là qua miệng các ông giáo sĩ.

Có thể còn một con đường nữa để măng cụt vào nước ta. Từ điển Huình Tịnh Paulus Của (1896b:17) giảng măng cụtbứa xiêm. Tiếng Thái Lan gọi thứ trái này là mạngkhud (มังคุด). Người bán hàng ngoài đường bây giờ có thể bán đủ thứ nho Mỹ, bắp Ấn Độ, dứa Thái Lan... mà ta không thể biết thật sự nguồn gốc từ đâu. Nhưng hơn trăm năm trước bứa xiêm có lẽ là bứa Thái Lan thật.

Sunday 7 July 2013

Cái Mơn khởi nguyên của nông nghiệp kỹ thuật cao (Công Khanh & Như Thuần - Sài Gòn Tiếp Thị)



SGTT.VN - Ở nơi áp dụng khoa học nông nghiệp đầu tiên trong cả nước, nông dân ra nước ngoài học kỹ thuật nông nghiệp, giờ đại công xưởng cây giống này đã có lịch sử lâu đời hàng trăm năm gắn bó sâu sắc giữa người trí thức cả Tây cả Việt và những nông dân khao khát tự do.
cha Gernot Quí, người có công lớn với họ đạo Cái Mơn, coi xứ này suốt 48 năm (1864 – 1912).
Năm 1702, ba gia đình ông Nguyễn Văn Tấn, ông Phan Văn đại và Lê quang Lê bỏ quê nhà ở miền Trung (Phú Yên, Bình định) vượt biên xuôi Nam, vào vùng đất của vua Thuỷ chân Lạp, mang theo sự cần cù và một ước mơ: tự do tín ngưỡng. Đó là những người mở trang lịch sử của cái Mơn.
Vào những năm 40 của thế kỷ trước, xứ đạo Cái Mơn đã được cả nước biết tới bởi nghề chơi cây kiểng và trồng cây ăn trái. Nhưng thế hệ những người nổi tiếng và tiên phong trong lĩnh vực trồng cây kiểng cổ Cái Mơn giờ đây chỉ còn lại ít người như ông Tám Sông – Nguyễn Văn Sông, trên 80 tuổi ở ấp Đông Nam, xã Vĩnh Thành. Trong ký ức ông bây giờ chỉ còn lại mỗi sự oanh liệt: cặp mai kiểng có hoành gốc 2,5m của ông từng bán vào nửa cuối những năm bảy mươi trị giá 60 cây vàng.
Gặp chúng tôi vào một ngày cuối năm, ông Sông tâm sự: “Chỉ sợ nghề làm kiểng cổ rồi đây sẽ mai một vì giờ không còn mấy ai theo nữa”. Những thế hệ sau ông nhờ áp dụng các kỹ thuật chiết cành, ươm giống, đã cho ra hàng loạt cây giống theo phương thức bán công nghiệp, bán đi khắp nước và cả xuất khẩu đi nước ngoài như ông Năm Công, Ba Tài… thu lợi mỗi năm hàng trăm triệu. Ông Ba Tài còn nhớ vào thời kỳ thiếu đói cuối thập niên 70, rất nhiều nghệ nhân hoa kiểng Cái Mơn đã nản chí phá bỏ vườn cây, vườn kiểng để chuyển sang trồng lúa, khoai lang cứu đói. Có nơi chủ vườn đứt ruột đốn bỏ hàng loạt gốc cây ăn trái lâu năm. Mãi đến cuối thập niên 80, nghề vườn Cái Mơn mới bắt đầu trở mình hồi sinh nhờ cơ chế thị trường.
Cái Mơn giờ được biết đến là một trong những địa phương đầu tiên của đất Nam bộ đưa nông dân ra nước ngoài tham quan, học tập mô hình canh tác, sản xuất và nhân giống, rồi quay lại xuất khẩu sản phẩm cùng dịch vụ chăm sóc. Nhưng ít ai nghĩ mô hình kết hợp kỹ thuật ghép, sàng lọc những giống cây ăn trái của nước ngoài, lai tạo với những giống cây trồng có sẵn tại địa phương để tạo nên một giống cây mới cho quả ngọt trái lành đã có mặt tại đây hàng trăm năm trước.
Phải chăng sự gắn kết của cộng đồng giáo dân chiếm 85% dân số hình thành từ 300 năm qua trên dãy đất cù lao này đã tạo nên một sức mạnh tiềm tàng để Cái Mơn vực dậy một làng nghề?
Lịch sử một làng nghề
Nhà thờ Cái Mơn
Tàng thư ghi nhận từ đầu thế kỷ 18, những nhóm dân người Việt đã đặt chân đến vùng đất Bến Tre do cuộc bắt đạo Thiên Chúa dưới thời Chúa Nguyễn Phúc Chu trên quy mô khắp nước từ ngày 13.3.1700 (1). Lúc đầu ba gia đình đầu tiên đến Ba Giồng, sau sang Cái Mơn định cư khởi nghiệp. Người đi trước trở thành nguồn thông tin đáng tin cậy để người đi sau từ miền Trung tìm vào. Sự cần cù của họ trên vùng đất mới phì nhiêu – như cá gặp nước: lúc bấy giờ “chợ Ba Vát ở thôn Phước Hạnh, lỵ sở của huyện Tân Minh, phố xá đông vui, thuyền bè tấp nập…” theo ghi nhận của Đại nam nhất thống chí.
Phải đến những năm 60 thế kỷ 19, linh mục người Pháp Gernot mới bắt đầu mở rộng hoạt động Công giáo tại Cái Mơn. Nhiều ghi chép trong họ đạo Cái Mơn còn lại cho biết, địa danh này do các cha thừa sai người Pháp đặt ra. Cái Mơn, đọc gần giống âm tiếng Pháp của Caïman – con sấu mõm dài, ám chỉ là xứ có nhiều cá sấu. Sử liệu ở giáo xứ này khẳng định chính các ông cha thừa sai là người đem các giống cây như càphê, cacao, măng cụt, v.v. và nhiều giống cây nhiệt đới về nhân giống phát triển tại đây, mở ra một truyền thống cho những trí thức ở xứ này tiếp nối.
Nhiều nguồn sử liệu đề quyết ông Trương Vĩnh Ký và ông Nguyễn Duy Lưu về sau nối tiếp nhau chọn lọc và du nhập các giống cây như bòn bon, sapôchê, măng cụt, chôm chôm, sầu riêng, v.v. từ Malaysia, Thái Lan về.
Những cựu học sinh ngôi trường mang tên Trương Vĩnh Ký còn ưu ái khẳng định chính ông là người đem nghề chiết cành gây giống, lai giống, ghép cây về phổ biến ở quê nhà. Nhưng sử liệu rõ ràng hơn lại ghi chính xác vào năm 1937, người Cái Mơn mới biết ghép cây, từ xưa phiên âm từ tiếng Pháp greffer thành “rép”. Lúc đó cha sở giáo xứ Phan Thiết đã đưa hai anh em ông Phạm Văn Trí và Phạm Văn Trị và hai anh em ông Mai Văn Tư và Mai Văn Khánh vào trường canh nông Nha Rây học ghép cây, cốt là để biết ghép cây cao su và theo nghề này. Học xong, không chịu nổi sự cay cực của nghề cao su đồn điền, các ông về lại quê nhà, thử ghép các loại cây khác. Sản phẩm nổi tiếng còn truyền tụng của các ông là ghép chôm chôm địa phương với chôm chôm Java.
Gốc sầu riêng cái mơn?
Những người được trao giống cây mới này đầu tiên ở Cái Mơn là hai anh em của ông Nguyễn Văn Hiếu (hội đồng Hiếu sinh năm 1883) và Nguyễn Văn Thuận (tức cai Thuận sinh 1887 – 1975). Truyền nhân của những người này đến nay còn sở hữu gốc cây giống sầu riêng cơm vàng hạt lép nổi tiếng như ông Ba Ký ở Vĩnh Thành. Có hai luồng ý kiến. Một luồng cho rằng chính Trương Vĩnh Ký là người du nhập các giống cây từ Malaysia và Indonesia như bòn bon, chôm chôm, măng cụt, sầu riêng, sakê, v.v. trong suốt thời gian sáu năm ông du học ở chủng viện Penang, Malaysia, và trở về nước vào lúc Pháp vừa chiếm Việt Nam năm 1858. Nhưng trong tự điển Pháp Việt của Trương Vĩnh Ký (1884) không có từ durian hay sầu riêng.
Một luồng ý kiến khác – từ con cháu – cho rằng chính ông Nguyễn Duy Lưu – khi ông Ký về nước ông này mới được một tuổi – là người sưu tập các giống sầu riêng ngon của Campuchia trong thời gian ông làm thái phó (thầy dạy học) cho con vua xứ này, đem về trồng trong vườn nhà bên bờ sông Cái Mơn, cách nhà thờ Cái Mơn hơn 100m. Vườn ông Lưu, nằm sát nhà ông Trương Vĩnh Ký, trồng một cách có khoa học gồm toàn các loại cây ăn trái đặc sản: sầu riêng, bòn bon, măng cụt và dừa. Những người cao tuổi kể rằng, những gốc sầu riêng ở nhà ông trước năm 1975 to đến hai người ôm. Có người còn đồ rằng một trong những cây sầu riêng giống đầu tiên mang về từ Campuchia của ông phó Lưu, có một cây rất đặc biệt được ông đặt tên là “sầu riêng sữa bò” chính là cụ kỵ của giống sầu riêng cơm vàng hạt lép sau này.
Sách Monographie de la province de Ben Tre ghi Cái Mơn lúc bấy giờ thuộc tổng Minh Lý.
Cũng có luồng ý kiến thứ ba cho rằng trái cây này do Hoa kiều thời Trương Vĩnh Ký buôn từ Malaysia về và đọc trại tên durian địa phương thành sầu riêng.
Sách Monographie de la province de Ben Tre (Bến Tre chí) xuất bản năm 1903, không ghi một dòng sản lượng nào về sầu riêng Cái Mơn. Như vậy giống cây này khó có thể do Trương Vĩnh Ký du nhập nửa cuối thế kỷ 19.
Theo đà này, Cái Mơn trở thành một trong những địa phương tiên phong đưa nông dân đi học kỹ thuật nông nghiệp và về sau đưa ra nước ngoài học nghề. Những cái tên nông dân nổi tiếng hiện nay như Chín Hoá – người tạo nên thương hiệu sầu riêng Chín Hoá, Ba Tài – người nông dân lập website hoa kiểng Cái Mơn, Sáu Ri – cây giống Sáu Ri…
Có thể nói Cái Mơn là một trong những nơi áp dụng khoa học nông nghiệp đầu tiên của Nam bộ. Nhờ có sự định hướng của những ông Tây từ đầu thế kỷ 19, Cái Mơn biết phát huy lợi thế của đất và người, họ giàu nhanh và chú trọng đầu tư cho giáo dục, để nắm bắt kỹ thuật cao.
Đại công xưởng cây kiểng
Nghề ghép cây học từ người Pháp hồi đầu thế kỷ được truyền theo trực hệ trước hết là con cháu trong gia đình, sau đó đến hàng xóm, rồi lan ra khắp vùng Chợ Lách, hình thành nên một ngành sản xuất cây giống nhiều triển vọng.
Có thể xâu chuỗi tiến trình phát triển về kỹ thuật cao trong nông nghiệp ở Cái Mơn như sau: nhập giống mới, nhân giống, chiết cành để rút ngắn thời gian cho trái, ghép cành, nghiêng về cung cấp giống (kỹ thuật cao) so với cung cấp trái cây, chuyên cung cấp các loại cây mới, chuyển đổi sang phát triển hàng cao cấp – cây kiểng. Đến những năm đầu thập niên 90, người nông dân Chợ Lách chỉ mới biết kỹ thuật ghép bo da, chiết cành thì ngày nay đã hoàn chỉnh kỹ thuật ghép xương, ghép mắt, ghép đọt, ghép cành… Đặc biệt, kỹ thuật ghép cành cho tỷ lệ cây sống rất cao, đã được ứng dụng vào sản xuất cây kiểng góp phần đưa Chợ Lách trở nên một vùng chuyên canh cây kiểng hàng đầu Việt Nam ngày nay.
Hiện nay, toàn huyện Chợ Lách có khoảng 5.000 hộ chuyên sản xuất cây giống, hoa kiểng. Nhiều gia đình theo nghề này tới 3 – 4 thế hệ. Theo tài liệu của tỉnh Bến Tre, trong vòng mười năm qua, huyện Chợ Lách đã có sự chuyển dịch mạnh về cơ cấu kinh tế, từ kinh tế vườn chủ yếu chuyên canh chuyển sang phát triển thâm canh có lựa chọn, đẩy mạnh việc sản xuất cây giống và cây hoa kiểng. Giờ đây, khi mà lợi nhuận một mẫu kiểng gấp mười lần một mẫu vườn cây ăn quả thì Cái Mơn hầu như trở thành đại công xưởng cây kiểng. Cơn bão số 5 cách đây năm năm dường như đặt dấu chấm hết cho những cây ăn quả cổ thụ khi đi qua xứ này và quật ngã những gốc măng cụt hai người ôm của bà Huỳnh Thị Kỷ.
Ông Phan Văn Hiếu, phó bí thư xã Vĩnh Thành, cũng là một nông dân thứ thiệt cho biết, hiện nay xã Vĩnh Thành đã hình thành được mười làng nghề chuyên sản xuất cây giống và cây kiểng. Từ đây, chính quyền xã sẽ kiến nghị lên huyện, tỉnh hỗ trợ người nông dân các kiến thức khoa học kỹ thuật tiên tiến, tiến tới thành lập hợp tác xã bậc cao phối hợp với xây dựng thương hiệu và mô hình du lịch sinh thái để làng nghề phát triển bền vững.
CÔNG KHANH - NHƯ THUẦN

Friday 5 July 2013

Thử tìm nguồn gốc tên gọi của vài loại thảo mộc ở Việt Nam (Phạm Đình Lân - Cái Đình)



Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa. Rừng nhiệt đới ở nước ta có nhiều loại thảo mộc khác nhau. Mặc dù vậy, trước khi tiếp xúc với người Pháp, nông dân ta không biết nhiều loại cây thực phẩm, cây ăn trái và cây kỹ nghệ vì không giao tiếp rộng rãi với thế giới bên ngoài và vì dành hầu hết đất đai để trồng lúa, trồng khoai để phòng nạn đói thường xuyên đe dọa nếu có loạn lạc, bão tố, lụt lội và hoàng trùng. Người Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha, Hòa Lan, Anh, Pháp mang nhiều cây thực phẩm, cây thuốc và cây kỹ nghệ sang trồng ở các thuộc địa của họ ở Nam Á, Đông Nam Á và trên các hải đảo Thái Bình Dương.
Trong bài viết nầy tôi tạm ghi nhận hoặc đưa giả thuyết về nguồn gốc tên gọi một số thảo mộc quen thuộc quanh ta và nhờ độc giả góp ý cho bài viết tăng thêm tín lực và sự phong phú.
*
Trái mãng cầu gai (sugar apple) được người Việt Nam ở miền Bắc gọi là trái NA. Trong tiếng Việt NA có nghĩa là ẩm, bồng, mang đi. Nghĩa nầy không dính dáng gì đến tên gọi của một loại cây gốc Mỹ Châu nhiệt đới nầy. Người Tainos gọi mãng cầu ngọt là annon. Người Tây Ban Nha dựa vào cách gọi nầy để cho ra đời tên gọi anona sau khi thám hiểm và chinh phục nhiều quốc gia trên tân lục địa. Người Tây Ban Nha chiếm quần đảo Phi Luật Tân và đem hột giống mãng cầu ngọt sang quần đảo Phi Luật Tân rồi từ đó mãng cầu được du nhập vào Mã Lai, Xiêm La (Thái Lan). Mãng cầu có thể được các nhà truyền giáo Tây Ban Nha dòng Dominican (Đa Minh) đưa vào miền Bắc sớm nhất là vào thập niên 1530. Chữ NA mà người miền Bắc gọi là trái mãng cầu ngọt có phải chăng là âm sau cùng của chữ amona của Tây Ban Nha? Người Mã Lai gọi mãng cầu ngọt là No-Na, Thái: Noi-Na. Tất cả đều có âm của chữ anona.
Cây Bình Bát cũng gốc ở vùng biển Caribbean. Đó là thân thuộc của mãng cầu. Người Tây Ban Nha gọi bình bát là anona corazon.  Người Phi Luật Tân gọi mãng cầu là atis (dựa theo chữ até của người Mễ Tây cơ và ata của người Bồ Đào Nha) trong khi gọi bình bát là anonas (Tagalog). Người Mã Lai và Indonesia gọi làbua nona. Tên gọi bình bát của Việt Nam có phải là âm trại của chữ mean bat của người Khmer dùng để chỉ một loại cây thân thuộc với mãng cầu nhưng ở vùng ẩm ướt? Trái bình bát giống mãng cầu Xiêm nhưng nhỏ, ruột màu vàng sậm, có nhiều hột đen và không có hương vị như mãng cầu ngọt và mãng cầu Xiêm.
Cây mãng cầu Xiêm Annona muricata thực sự gốc ớ Mỹ Châu. Nhưng các nhà trồng tỉa Việt Nam gọi nó là mãng cầu Xiêm vì biết nó qua trung gian Xiêm La tức Thái Lan bây giờ.
Cây sầu riêng xuất phát từ Mã Lai và Indonesia được du nhập vào Thái Lan, Lào, Cambodia trước khi đến Việt Nam qua trung gian các tu sĩ Thiên Chúa Giáo ở chủng viện Penang, Mã Lai. Người Mã Lai gọi sầu riêng là durian tức trái có gai bén nhọn (duri: gai). Người Anh cũng dùng tên gọi nầy. Người Pháp âm trại thànhdurion, Thái: thurian, Lào: thourien, Miến Điện: du lin. Tên gọi sầu riêng của người Việt Nam âm từ thurian. Khi phát âm chữ T dễ lẫn lộn với D và TH để lẫn lộn với S.
Trong tiếng Việt chữ măng cụt hoàn toàn vô nghĩa. Đó là một loại cây ăn trái gốc ở Indonesia và Mã Lai. Chữ "măng" là âm của chữ manggis của Mã Lai. Ở Mã Lai và Miến Điện có nhiều măng cụt mọc hoang gọi là manggishutan (hutan: rừng, Manggishutan: rừng cây măng). Người Thái gọi măng cụt là mangkut, Lào:mangkut, Khmer: mongkut v.v... Như vậy tên gọi măng cụt âm từ mangkut của người Thái vậy.
Sầu riêng, măng cụt được các tu sĩ Thiên Chúa Giáo đưa vào Việt Nam từ Penang và trồng ở Cái Mơn, Bình Nhâm, Nhị Bình vào giữa thế kỷ XIX. Vào thế kỷ XIX Xiêm La là quốc gia trái độn giữa hai ảnh hưởng chánh trị Anh và Pháp. Đó là quốc gia không bị các nước Âu Châu xâm chiếm làm thuộc địa nên được triều đình Huế đặc biệt lưu ý để học hỏi. Khi triều đình Huế ra lịnh cấm và giết đạo Thiên Chúa, một số tín đồ Thiên Chúa Giáo bỏ trốn sang Xiêm La. Khi gặp khó khăn trước sự đe dọa của Pháp, triều đình Huế cử người đi sứ sang Xiêm để tìm hiểu xem do đâu nước nầy tránh khỏi sự xâm chiếm của các nước Âu Châu mặc dù họ phải ký hàng loạt hiệp ước bất bình đẳng. Các sứ đoàn đem một giống chuối về nước trồng. Chuối đó gọi là chuối sứ (vì đem về nước sau khi đi sứ) hay chuối Xiêm (vì đem từ Xiêm về tuy rằng nước nầy không phải là sinh quán của loại chuối đang đề cập). Xiêm La trở thành quốc gia trung gian cung cấp cho Việt Nam nhiều loại cây ăn trái xuất phát từ tân lục địa và được người Tây Ban Nha đưa sang Phi Luật Tân rồi từ quần đảo nầy sang Mã Lai và Indonesia.
Cây sa-bô-chê gốc ở Mễ Tây Cơ được đưa sang Phi Luật Tân rồi Mã Lai trước khi đến Xiêm La, nhưng khi đến Việt Nam nó được gọi là hồng Xiêm. Chữ sa-bô-chê là âm của tiếng Pháp sapotier (cây sa-bô-chê) Sapotilla zapota. Người Indonesia gọi là trái sa-bô-chê (sapot) là sawo manila (trái sa-bô Manila) vì từ Manila đến. Trái sa-bô-chê ngọt và thơm ngon. Hột láng, giẹp, nhọn và cứng. Lá kết hợp với su hào (cải bắp) sắc nước uống hạ huyết áp. Ở Mễ Tây Cơ người ta nghiền hột thành bột để làm thuốc trục sạn thận, sạn bàng quang, gây buồn ngủ và tẩy xổ.
Sầu đâu là tên gọi của một loại cây cao từ 15 - 25m và được biết dưới tên khoa học Azadirachta indica. Tên gọi sầu đâu âm từ tiếng Khmer sdau. Người Việt Nam còn gọi là sầu đông vì rụng lá vào mùa đông hay xoan đào, có thể là tên gọi âm từ chữ sa dao của người Thái. Người Thái, Lào và Khmer ăn trái và lá sầu đâu. Người Việt Nam rất sợ chất đắng của trái và lá của loại thảo mộc nầy và không có nhiều kinh nghiệm về việc dùng sầu đâu để trị bịnh. Trong y học dân gian Ấn Độ sầu đâu được xem nhu là nhà thuốc xã thôn. Vị đắng của sầu đâu trị sốt rét. Người ta bỏ lá sầu đâu khô dưới giường để rệp và kiến bò đi. Lá sầu đâu khô bỏ trong sách thì sách không bị mối mọt ăn.
Cây thốt nốt giống như cây dừa. Đó là cây biểu tượng của người Khmer. Chữ thốt nốt do chữ thnoat của người Khmer mà ra. Người Khmer cất rượu hay làm đường từ cây thốt nốt. Người Việt Nam không dùng đường thốt nốt mà dùng đường mía. Họ trống cau, dừa nhưng không trồng thốt nốt mặc dù cây thốt nốt mang nhiều lợi ích kinh tế và chịu nắng hạn rất tốt.
Cây cao su gốc ở Brazil được người bản địa Brazil gọi là cây cahutchu (cây khóc) và được người Pháp đem trồng thí nghiệm ở Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX ở Nha Trang và Bình Hòa, Gia Định. Chữ cao su của ta âm từ chữ caoutchouc (arbre qui pleure) của tiếng Pháp. Và chữ caoutchouc của Pháp được âm từ chữcahutchu với nghĩa cây khóc vì có nhiều nhựa trắng tuôn vọt ra khi băm sâu vào thân cây. Cây cao su thích hợp với vùng đất đỏ (terre rouge) ở các tỉnh miền Đông Nam Bộ và cao nguyên Nam Trung Bộ. Ở Dầu Tiếng có công ty Michelin. Ở Biên Hòa, Bà Rịa, Xuân Lộc, Long Thành có công ty SIPH (Société Indochinoise des Plantations d'Héveas). Ở Chơn Thành có Viện Nghiên Cứu Cao Su Đông Dương (IRCI: Institut de Recherche du Caoutchouc Indochinois). Đồn điền cao su ở Nam Bộ là sân khấu của những thảm kịch xã hội và đấu tranh đẫm máu từ đầu thập niên 1930. Cây cao su gốc ở Nam Mỹ nhưng sau nầy các nước Đông Nam Á như Indonesia, Mã Lai và Việt Nam trở thành những nước sản xuất nhiều cao su trên thế giới.
Cây cà phê gốc ở Kaffa, Ethiopia. Từ địa danh Kaffa ra đời chữ cafế. Dưới thời Pháp thuộc người Pháp lập nhiều đồn điền trồng cà phê trên cao nguyên Nam Trung Bộ. Cây cà phê gốc ở Phi Châu và Trung Đông nhưng hiện nay quốc gia nổi tiếng sản xuất cà phê trên thế giới là Colombia. Đến năm 1945 chưa có quán cà phê ở Việt Nam. Cà phê chỉ bán ở tiệm nước do người Trung Hoa làm chủ. Thời bấy giờ người ta pha cà phê bằng vợt ngâm cà phê trong một cái siêu đặt trên lò than nóng khiến cho cà phê đen sậm và đắng như thuốc sắc. Bằng từ ngữ khôi hài người ta gọi đó là cà phê kho.
Ở Việt Nam không có trồng cây ô-liu. Loại thảo mộc nầy gốc ở ven biển Địa Trung Hải. Chỉ có những người sống ở thành phố lớn và có tiếp xúc với người Pháp mới biết trái ô-liu và dầu ô-liu. Chữ ô-liu âm từ chữ olive của Pháp.
Xá lị là trái lê. Ổi xá lị Psidium pomiferum là trái ổi to, ruột trắng, mềm, rất ít hột. Trái ổi giống trái lê về hình dáng, có ruột trắng và mềm như trái lê Pyrus communis. Loại ổi nầy thường được bán tại bến phà Mỹ Thuận để ăn với muối ớt hay mắm ruốc dầm ớt.
Cây lê-ki-ma gốc ở Trung và Nam Mỹ, nơi nó được biết dưới tên thông thường lucuma và tên khoa học Lucuma sapota cùng gia đình với cây sa-bô-chê. Người Việt Nam có vẻ không hưởng ứng hương vị của trái lê-ki-ma khi chín có cơm vàng như tròng đỏ hột gà, ngọt nhưng mau ngán vì có nhiều bột. Ở Nam Mỹ nhiều người bản địa không dám đi gần cây lê-ki-ma ban đêm vì cho rằng đó là nơi có nhiều ma.
Cho đến giữa thế kỷ XX người miền Nam mới biết cây avocado do tổng thống Magsaysay của Phi Luật Tân gởi tặng. Lúc bấy giờ dựa vào chữ avocado người ta gọi đó là cây trạng sư. Khi cây ra trái và ăn có vị béo, người ta lại gọi là trái bơ (beurre).
Cây cau Areca catechu còn có tên gọi khác là bình lang. Đó là âm của tên đảo Penang có nghĩa là cây cau theo tiếng Mã Lai. Trái cau chát không ăn được nhưng lá trầu và trái cau có vai trò đặc biệt trong hôn sự và trong việc xã giao trong cộng đồng các dân tộc Nam Á, Đông Nam Ấ và hải đảo Thái Bình Dương.
Trái cốc xanh mà người Trung Hoa ngâm với cam thảo để ăn với muối ớt được tìm thấy nhiều ở các nước Nam Á, Đông Nam Á và hải đảo Thái Bình Dương, kể cả bắc Úc Đại Lợi. Tôi không biết tại sao nó được gọi là Jewish plum hay trái cốc ngoại trừ chữ CỐC là âm cuối cùng của tên gọi trái cốc của người Thái: makok.
Tên gọi trái cà na âm từ tên khoa học Canarium. Cà na trắng Canarium album gọi là cam lăm âm từ tiếng Trung Hoa ganlan. Người Anh gọi là Chinese olive. Cà na đen mang tên khoa học Canarium nigrum. Người Trung Hoa ngâm trái cà na với cam thảo cho người bịnh ngậm sạch miệng. Trái cà na được dùng để giải rượu. Người ta cho rằng hột cà na to và cứng thán (đốt ra than), tán thành bột có khả năng làm tan xương cá khi bị hóc xương. Xin các thầy thuốc Đông Y, Tây Y góp ý kiến về chuyện nầy.
Từ khi tiếp xúc với người Pháp, người Việt Nam bắt đầu làm quen với rau cải, trái cây và vài loại hoa miền ôn đới.
Hoa lai-ơn âm từ glaieul của Pháp mà ra. Tên khoa học của loại hoa nầy là Gladiolus cardinalis (màu đỏ như áo của Hồng Y) (gladius: cây kiếm).
Hoa ọt-tăng-sia âm từ tên khoa học Hortensia macrophylla (lá to). Ở Nhật người ta dùng hoa Hortensia serrata nấu làm trà ngọt ama-cha. Họ cũng nấu nước bằng hoa hortensia nầy để tắm các tượng Phật.
Hoa ti-gôn âm từ tiếng Pháp liane antigone, được biết dưới tên khoa học Antigonon leptopus. Về sau hoa nầy mang tên hoa hiếu nữ.
Cải xà-lách do chữ salade mà ra. Tên khoa học là Lactura longifolia cùng dòng với cải lettuce nhưng lá dài và mỏng, màu vàng-xanh thật nhạt. Cải xà-lách cólactucin C15 H16 O5 là một chất ma túy như á phiện nhưng nhẹ. Nó nhuận trường và gây buồn ngủ. Người Việt Nam ăn cải xà-lách như rau cải. Các đầu bếp Trung Hoa luôn luôn cho cải xà-lách vào các tô hủ tiếu hay mì.
Xà-lách-son hoàn toàn không có liên hệ gì đến cải xà-lách. Đó là tên gọi âm lệch từ chữ cresson mà ra. Xà-lách-son mọc hoang rất nhiều ở miền ôn đới (Thụy Điển, Ngũ Đại Hồ, v.v...).Tên khoa học là Nasturstium microphyllum (lá nhỏ và xanh sậm). Người ta thường ăn cải xà-lách-son với thịt bò xào. Xà-lách-son được xem như bổ máu và lợi phế. Ở Âu Châu ngày xưa người ta ngâm xà-lách-son trong rượu bia để uống ngừa bịnh scorbut vì thiếu sinh tố C.
Cà tô-mát Lypcopersicon esculentum gốc ở Mỹ Châu. Người Việt Nam gọi là cà chua vì nó có vị chua. Tên gọi tô-mát âm từ chữ tomate của người Pháp, người đã đem giống cà nầy sang Việt Nam. Cà tô-mát được dùng để làm cà xốt để nấu ragout, spaghetti, làm ketchup. Ở Việt Nam cà tô-mát được dùng để nấu canh chua với cá, giá đậu xanh, thơm, cà bắp nêm với rau thơm như rau quế, rau tần dày lá, ngò om hay ngò gai. Cà tô-mát có lycopene C40 H56 có tính kháng oxy hóa và ngừa ung thư tuyến tiền liệt (prostate cancer). Về việc lycopene (carotene) có ngăn ngừa ung thư tuyến tiền liệt được hay không vẫn còn là một đề tài tranh luận. Lycopene không chỉ có trong trái cà tô-mát mà trong củ cải cà-rốt, trái đu đủ chín, dưa hấu, trái strawberry, v.v…
Tên gọi củ cải cà-rốt âm từ chữ carotte của Pháp mà ra. Củ cải cà-rốt mang tên khoa học Daucus carota sativus. Củ cải cà-rốt được dùng để nấu súp. Người Việt Nam Việt hóa củ cải cà-rốt khi biến nó thành đồ chua trong chén nước mắm ăn bì cuốn. Củ cải cà-rốt là một nguồn sinh tố A và carotene quan trọng lợi cho thị giác. Nhưng dùng nhiều cà-rốt sẽ bị vàng da.
Trong rau cải bán ở Việt Nam có trái su và su hào. Thoáng mới thấy tưởng đó là tiếng Việt, nào ngờ cả hai tên gọi trên đều âm từ chữ chouchou và chou rave của Pháp.
Trái su kết quả trên một loại dây mang tên khoa học Sechium edule. Người Pháp gọi trái su là chouchou, Brazil: chuchu, Trung Hoa: Fo Shu gua (Phật thủ quả: trái tay Phật), Tây Ban Nha: chayote (phỏng theo cách gọi của người Da Đỏ ở Mỹ Châu). Trái su giống trái lê màu xanh nhạt, vị ngọt lạt. Người ta thường xào thịt bò với trái su như xào với dưa chuột vậy.
Su hào tức là cải bắp hay cải nồi. Người Pháp gọi là chou rave. Tên khoa học là Brassica oleracea. Người ta ăn sống, hấp chín hay dùng lá cải để nấu súp thịt bò, khoai tây và củ cà-rốt. Người Việt Nam ở thành phố dừng cải bắp, cà-rốt để trộn gỏi gà thay cho bắp chuối hay chuối con. Cải bắp có nhiều sinh tố C, glutamine, amino acid kháng việm. Đó là một nguồn indol-3-carbinol (i 3c) dùng để chữa u bướu trong đường hô hấp.
*
Qua những dữ kiện trên chúng ta thấy cây cỏ cũng có tên tuổi, nguồn gốc, quá trình sống và sự cống hiến của chúng đối với nhân loại. Chúng được các nhà chinh phục và các nhà truyền giáo mang đi quảng bá khắp nơi trên thế giới. Chúng thay đổi địa bàn sống và cách sống tập thể có tổ chức và được chăm sóc từ thức ăn, thức uống đến chất dinh dưỡng thích hợp. Cây cao su, cây cà-phê không phát đạt và vinh hiển ở sinh quán của chúng, lại trở nên quan trọng và được quí mến ở môi trường sống khác sau khi bị các nhà chinh phục và các nhà truyền giáo đưa chúng xuống tàu buộc phải vĩnh viển ly xứ quán. Cây cao su ở Lai Khê, Dầu Tiếng hoàn toàn xa lạ với nguồn gốc Amazon của tổ tiên chúng cũng như cây cà phê Colombia và Java hoàn toàn xa lạ với quê hương Kaffa và Mocha của họ Coffea trong đại gia đình Rubiaceae.

Phạm Đình Lân, F.A.B.I.

Thursday 11 April 2013

Một tai hoạ dịch thuật (cây gạo = plant rice) (Nguyễn Văn Tuấn)

Một tai hoạ dịch thuật (cây gạo = plant rice)
InEmail
Thứ tư, 10 Tháng 4 2013 23:44
Một tai hoạ dịch thuật đã xảy ra. Liên hiệp các hội khoa học và kĩ thuật Hà Nội (HUSTA) làm “Lễ công nhận Cây di sản Việt nam Cây Gạo Đền Mõ, Hải Phòng” vào năm 2011. Sẽ không có gì để nói nếu như không xảy ra chuyện dịch cây gạo này thành một thứ tiếng Anh rất khó hiểu. Cây gạo đại thụ được dịch là Plant Rice University Acceptance. Không dừng ở đó, người ta còn dịch chữ Giáp Thân là Body Armor. Không lẽ học thuật ngày nay tệ như thế sao?
Việc dịch từ tiếng Việt sang tiếng Anh có khi rất nan giải và khó khăn. Trước đây cũng xảy ra một tai nạn chuyển ngữ trong vài bài nhạc (có đề cập ở đây). Ấn tượng nhất là câu you inside me after class mà người dịch muốn nói em bên tôi một chiều tan lớp. Tưởng rằng đó chỉ là tai nạn hi hữu, ai ngờ một hiệp hội khoa học kĩ thuật mà cũng mắc phải một lỗi lầm rất ư sơ đẳng về dịch thuật. Tấm bia dưới đây ghi rõ cây gạo đại thụ mà người ta dịch là Plant Rice University Acceptance. Nói cách khác, dịch từng chữ:



Cây = plant (nghĩa thật là cây hay trồng trọt)
Gạo = rice (gạo) 
Đại = university (đại học) 
Thụ = Acceptance (chấp nhận) 
Thoạt đầu, tôi không nghĩ ra tại sao người ta có thể dịch như thế, nhưng một bạn đọc chỉ ra rằng đó là sản phẩm của google translation. Thật vậy, khi tôi truy cập trang http://translate.google.com.au/#vi/en/ và gõ “Cây Gạo Đại Thụ” thì được kết quả “Plants Rice University Acceptance”. Nhưng nếu tôi gõ “cây gạo đại thụ” thì được kết quả “giant rice plants”! Khi tôi gõ “Giáp Thân” thì google translate cho biết đó là “Body Armor”. Như vậy thì đã quá rõ ràng, người dịch chỉ đơn giản dùng google translate. Thật là một tai hoạ!
Một bạn đọc cho biết cây gạo có tên khoa học là Bombax ceiba. Có lẽ nên dùng tên này, chứ không nên dịch là “cây gạo”. Do đó, tôi nghĩ cây gạo đại thụ chắc nên dịch là An Ancient giant Bombax ceiba. Bạn nào am hiểu thực vật có thể đề xuất một cách dịch khác hay hơn.
N.V.T

Phóng sự ảnh: Lễ công nhận Cây di sản Việt nam Cây Gạo Đền Mõ, Hải Phòng

Phóng sự ảnh: Lễ công nhận Cây di sản Việt nam Cây Gạo Đền Mõ, Hải Phòng 

(Nguồn: Diễn Đàn Trí Thức Thủ Đô)
Sáng 16/3/2011, Hội Bảo vệ thiên nhiên và Môi trường Việt nam (VACNE) đã tổ chức Lễ công nhận cây gạo cổ thụ hơn 700 tuổi ở khu vực đền chùa Mõ, thôn Nghi Dương, xã Ngũ Phúc là Cây Di sản Việt Nam.




Văn nghệ chào mừng



Ông Nguyễn Đức Toàn, Chủ tịch UBND xã Ngũ Phúc




Ông Nguyễn Quang Tưởng, Phó Chủ tịch UBND xã Ngũ Phúc, Trưởng ban Quản lý di tích đền chùa Mõ



TS. Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội Bảo vệ TN&MT VIệt Nam đọc Quyết định công nhận Cây di sản



Đại diện Lãnh đạo Đảng uỷ và UBND xã Ngũ Phúc nhận Bằng công nhận Cây Di sản Việt Nam



Mở băng khánh thành Bia công nhận Cây Di sản Việt Nam
Từ trái sang phải: GS.TS. Vũ Hoan, Chủ tịch LHH KH&KT Hà Nội; Ông Vũ Văn Sắt, Bí thư Đảng ủy xã Ngũ Phúc; TS. Nguyễn Ngọc Sinh, Chủ tịch Hội BVTN&MTVN;
Ông Nguyễn Đức Toàn, Chủ tịch UBND xã Ngũ Phúc;   TS. Đào Viết Tác, Chủ tịch Hội BVTN&MT Hải Phòng



Chụp ảnh kỷ niệm






Toàn cảnh Lễ công nhận Cây Di sản Việt Nam








Thi đấu vật















Hậu cung Đền thờ Quỳnh Trân Công chúa

- VACNE

Thursday 27 December 2012

Cỏ cà ri có phải là hồ lô ba không?

Cỏ cà ri chính là hồ lô ba.
Tiếng Anh gọi cỏ cà ri là fenugreek, tiếng Pháp là fenugrec, tiếng Ý là fieno greco... do tiếng La Tinh là faenum graecum, (faenumcỏ khôgraecum, giống trung của graecus nghĩa là Hy Lạp).
Tên của cỏ này trong tiếng Ả Rập là hulba. Người Trung Quốc phiên thành hu2 lu2 ba1 ( 葫蘆巴), chuyển sang âm HánViệt thành hồ lô ba (Đào Duy Anh, 1950:639; Lê Khả Kế, 1978:78; Lê Khả Kế, 1981:90)

Saturday 1 December 2012

Màu hoa hiên là màu gì?

Cây hiên, tức huyên thảo, kim trâm, lê lô, lộc thông, cùng họ với hành tỏi, có tên khoa học là Hemerocallis fulva, là cây thân thảo. Cây ra hoa vào mùa hạ và mùa thu, có mùi thơm, ăn được (xào hoặc nấu canh), có thể dùng làm thuốc hoặc làm màu nhuộm (vì vậy mà có tên màu là màu hoa hiên)
Ngày nay ít người nhìn thấy hoa hiên. Nói màu hoa hiên không dễ hình dung bằng màu cà rốt.

Monday 1 October 2012

Do đâu có tên cây xa mu?


Cây xa mu (tên khoa học của cây là Cunninghamia lanceolata) còn được gọi  là sa mu, sa mộc, sà mu, sa múc, thông mụ, co may (Dao), long len, thông Tàu. Tên tiếng Pháp là sapin de Chine (dịch nghĩa là lãnh sam Trung Hoa) và samou hoặc cha-mou (rõ ràng là phiên âm của杉木, sam mộc). Có lẽ cũng như trường hợp từ pơ mu, người Việt mượn từ xa mu qua tiếng Pháp hay qua tiếp xúc với tiếng Hán ở miền Nam Trung Hoa. Chưa rõ thứ tự xuất hiện các tên gọi khác nhau của cây nên chưa thể xác định chắc chắn lai lịch của từng tên một.

Saturday 29 September 2012

Do đâu có tên cây pơ mu?


Trong tiếng Việt cây này còn có các tên như đinh hương, bách dầutô hạp hương, mạy vạc (người thiểu số ở Lào Cai), mạy long lanh (người Thái ở miền Tây Bắc và Thanh Hóa), khơ mu (Hà Tĩnh), hòng he (người Ba Na ở Gia Lai và Kon Tum). Nhưng cái tên pơ mu thì không gắn với một ngôn ngữ dân tộc nào cả.
Tên khoa học của cây pơ mu là Fokienia hodginsii (Dunn) A. Henry & H. H. Thomas. Tên này có liên quan đến tỉnh Phúc Kiến bên Trung Hoa (Fokienia) vì đó là nơi người ta (ông Hodgins) thu thập được mẫu vật đầu tiên để đem về châu Âu. Tên cây bằng chữ Hán là 福建柏  (fu jian bai / Phúc Kiến bách). Gỗ bách (bách mộc) tiếng Hán là 柏木, có phát âm (băi mù) rất gần với cách người Pháp gọi tên cây: pé-mou / pemou / peu-mou... Từ pơ mu của tiếng Việt có thể từ một trong hai nguồn này mà ra.

Friday 24 August 2012

Cát lệ có phải là giọt nước mắt tốt lành không?

Người Trung Quốc gọi lan cát lệ là 洋兰 (dương lan). Ai đặt cho hoa cái tên vừa lạ vừa đẹp là lan cát lệ? Cái tên này có liên quan gì đến hình dáng của hoa hay một sự tích nào đó không?
Thật ra tiếng Anh, tiếng Pháp gọi lan cát lệ là là cat(t)leya, do tên khoa học trong tiếng La Tinh là Cattleya. Tên này được đặt theo tên của nhà thực vật học người Anh William Cattley. 

Thursday 23 August 2012

Do đâu có tên cây cọ căng?

Cọ căng là một chi thực vật có hoa thuộc họ Cau, có nhiều loài được đem từ Úc về châu Âu trồng làm cây cảnh trong nhà. Tên của cọ căng trong tiếng La Tinh, tiếng Anh và tiếng Pháp là kentia, theo tên của William Kent, một nhà thực vật học người Anh. Không có bằng chứng xác nhận người Pháp mượn kentia từ tiếng Anh hay tiếng La Tinh. Cách đọc không thống nhất [kεntja], [kε ̃tja], [kε ̃sja]. Năm 1973  Martinet-Walter tiến hành kiểm tra thì thấy đa số người tham gia thí nghiệm đọc là [kɑ ̃sja]. Các nhà thực vật học Việt Nam chắc chắn biết cả tiếng La Tinh và tiếng Pháp nhưng cách đọc là căng cho thấy ảnh hưởng của tiếng Pháp rất rõ.

Saturday 28 July 2012

Lộ biên có phải là từ Hán Việt không?


Cây lộ biên (còn gọi là khử đờm thảo) chứa hơn hai chục chất an-ca-lô-ít, trong đó có chất lô-be-lin được dùng để chữa những trường hợp ngất do hô hấp (điện giật, chết đuối, ngộ độc ô-xít các-bon, viêm phế quản, viêm phổi, họ gà, ngạt thở ở trẻ sơ sinh...) Tên cây nghe như gốc Hán nhưng tên Trung Quốc của nó thật ra là半邊蓮
 (bán biên liên).
Tên tiếng Pháp của lộ biên là lobélie (do Lamark đặt năm 1778). Trước đó là lobélia (1747), do tiếng La Tinh là lobelia. Tên này do Linné đặt để tưởng nhớ nhà thực vật học người Matthias de Lobel (1538-1616).
Không rõ các nhà thực vật học Việt Nam đặt tên lộ biên dựa vào tên khoa học (Lobelia inflata L) hay tên tiếng Pháp (lobélie).

Thursday 15 March 2012

Hoa di nha là hoa gì?


Hoa di nha thuộc họ Cúc (Asteracae). Lá mọc đối, hình trái xoan thuôn dài, mặt lá phủ lông. Hoa có màu trắng, vàng, đỏ, hồng, tím. Tên hoa tiếng La Tinh là zinnia, được đặt theo tên nhà thực vật học người Đức Johann Gottfried Zinn (1727-1759). Từ zinnia này được giữ nguyên dạng trong nhiều ngôn ngữ khác như tiếng Anh, tiếng Pháp, tiếng Ý, tiếng Tây Ban Nha... Tiếng Nga là цинния, phiên âm cũng khá gần. Khó có thể xác định di nha được phiên âm từ thứ tiếng nào trong các ngôn ngữ châu Âu kể trên.
Di nha còn được gọi là hoa bách nhật, do tên hoa tiếng Trung Quốc là 百日草 (âm Hán Việt là bách nhật thảo, nghĩa là cỏ trăm ngày).

Sunday 15 January 2012

Su hào có phải là bắp cải không?


Su hào xưa có tên là củ cải Xiêm (Bon & Dronet, 1889:44)
Nguồn gốc tự nhiên của su hào là cải bắp dại, được đem trồng lấy phần thân mập (mà ta hay gọi là củ) làm rau ăn. Tiếng Pháp gọi thứ rau này là chou-rave (trong từ ghép này có chou, nghĩa là bắp cải), Người Việt nghe thành su hào:
Cải xoong, cải bắp, su hào,
Trong ba cây ấy cây nào anh ưa?
Em hỏi thì anh xin thưa:
Su hào xuất khẩu anh ưa suốt đời. (Ma Văn Kháng, 2009:104)
su hào là từ mượn âm, nhiều người viết không phân biệt su hào / xu hào, thậm chí trên cùng một trang:
* Miếng su hào này chưa được vuông vắn… ừ mà phải cắt mỏng ít nữa. (Nhất Linh, 1935:155)
* Cắt nốt chỗ xu hào này phải tỉa cho hết bát củ cải kia. (Nhất Linh, 1935:155)
Về sau các từ điển chỉ chấp nhận một dạng là su hào (Lê Văn Đức, 1970b:1312; Lê Khả Kế, 1981:54; Nguyễn Như Ý, 1999:1464), nhưng trên thực tế hiện nay vẫn có người viết xu hào:
* Vườn tược gì bé bằng cái bằng cái chiều dọc mà dui vào đến trăm thứ: xu hào, cải cúc, rau thơm, ớt, sả… lại còn hoa hoét nữa chứ. (Nguyễn Kiên, 2004:434)

Sunday 18 December 2011

Vì sao hoa tu líp có nhiều tên thế?


Người Pháp đem hoa tu líp vào Việt Nam. Tên hoa này tiếng Pháp là tulipe.
Hồi đầu thế kỷ 20 từ điển Đào Duy Anh (1950:1835) dịch tên hoa này bằng một từ mượn của tiếng Trung Quốc là uất kim hương (鬱金香). Từ uất kim hương thông dụng ở miền Nam Việt Nam  cho đến năm 1975. Bản dịch quyển La Tulipe Noire của Alexandre Dumas ra mắt bạn đọc Việt Nam dưới nhan đề là Hoa Uất Kim Hương Đen.
Trong khi đó ở miền Bắc, trong một nỗ lực thanh lọc từ Hán Việt khỏi ngôn ngữ và đời sống, Lê Khả Kế (1978:181) dịch tulipehoa vành khăn. Cái tên này rất thích hợp với hình dạng của hoa. Bản thân từ tulipe (xuất hiện năm 1611 trong tiếng Pháp) vốn là hậu thân của từ tulipan (xuất hiện năm 1600) mà từ tulipan này lại có nguồn gốc là một từ Thổ Nhĩ Kỳ tülbend, nghĩa là cái khăn đội đầu.
Một số người biết tiếng Pháp gọi tên hoa là tuy líp. Cái tên này sau một thời gian thử thách cũng vào được từ điển (Alikanôp, 1977:472; Nguyễn Như Ý, 1999:1751; Hoàng Phê, 2006:1066). Một dạng khác là tu líp có thể xem là mượn âm Pháp hay đọc tiếng Anh (tulip) theo kiểu Việt Nam đều được. Dạng này cũng đã vào từ điển (Hoàng Phê, 2006:1063). Gần đây lại xuất hiện tiu líp, chắc chắn là mượn âm tiếng Anh, chưa vào được từ điển nhưng có thế mạnh riêng của nó.
Năm cái tên cho một loài hoa chỉ là hệ quả của những sức mạnh chi phối lịch sử nước nhà trong mấy mươi năm qua.

Tuesday 6 December 2011

Cần sa là gì?

Cần sa vừa là tên cây (ruộng cần sa, trồng cần sa, ) vừa là tên gọi chất ma túy thu được từ cây đó (hút cần sa, mua bán cần sa...).
Cây cần sa còn có tên khác là cây gai dầu, cây lanh mèo, cây lanh mán, cây gai mèo, cây đại ma, cây hỏa ma, cây bồ đà. Tên khoa học (tiếng La Tinh) là Cannabis sativa L. Cần sa là kết quả ghép các âm tiết đầu của hai từ La Tinh. Cần sa theo chân quân Mỹ vào miền Nam trước năm 1975. Từ cần sa được ghi nhận trong từ điển Lê Văn Đức (1970b:186)
Cần sa còn được gọi là tài mà.. Đó chính là âm Quảng Đông của đại ma (大麻). Đại ma là từ ngữ sách vở, xuất hiện trong tiếng Việt đã lâu (Đào Duy Anh, 2005:21). Tài mà chỉ phổ biến ở phía Bắc. Nó là bằng chứng cho thấy một tuyến vận chuyển và một địa bàn tiêu thụ cần sa mới hình thành những năm gần đây.

Saturday 8 October 2011

Hành ba rô có phải là tỏi tây không?

Tỏi tây là một cây thuộc họ hành (Alliaceae); lá và củ ăn được, rất phổ biến trong các thực đơn kiểu Tây.
Tỏi tây, tiếng Pháp là poireau. Từ poireau vào tiếng Việt bằng đường mượn âm dưới các dạng poa rô, boa rô, bo rô và ba rô.

Sunday 25 September 2011

Rau bi na là rau gì?


Bi na là từ gốc Pháp (épinard): rau bi na bờ tường (épinard de muraille), rau bi na dại (épinard sauvage). Rau bi na có tên khoa học là Spinacia oleracea.
Rau bi na được tiếng là giàu chất sắt. Sự thật là năm 1890 cô thư ký của phòng thí nghiệm phân chất rau bi na đã đánh máy sai, nâng hàm lượng sắt trong rau lên gấp mười lần hàm lượng thật. Mãi bốn chục năm sau các nhà khoa học mới phát hiện ra sai lầm này nhưng đã quá muộn. Không còn ai không tin rằng bi na là vô địch rau quả về hàm lượng sắt. («Du fer dans les épinards et autres idées reçues», Jean-François Bouvet, Seuil, 1997)

Monday 12 September 2011

Hoa phăng là hoa gì?


Hoa phăng (tức hoa phlăng) là hoa cẩm chướng tây hay còn gọi là cẩm chướng phăng. Người Pháp đem giống hoa này vào Việt Nam đầu thế kỷ 20. Nguyễn Kim Thản (2005:21261) định nghĩa đúng nhưng quy về gốc Pháp pensée là sai. Tên tiếng Pháp của hoa là œillet de France. Phăng/phlăng là phiên âm của từ France.
Không chịu kém cạnh, các hoa “cẩm-chướng-sim”, “cẩm-chướng-phăng” cũng hòa theo màu xuân, phô hương thi sắc khi đứng trong chiếc bình pha-lê, ang thủy-tinh, lọ đồng hoặc ống sứ...
Hoa-Nam, 1942:26 (Tri Tân Tạp Chí số 34)

Friday 26 August 2011

Hoa cốt mốt là hoa gì?

Từ điển Nguyễn Như Ý (1999:462) giải thích cốt mốt là cúc chuồn chuồnTừ điển của Hoàng Đình Cầu (1976:182), Lê Khả Kế (1978:56) chỉ có cúc chuồn chuồn.
Cốt mốt hay cúc chuồn chuồn, hoa bướm, cúc ngũ sắc, sao nhái, sao nháy, soi nhái cũng đều là một. Từ cốt mốt có tính quốc tế: tiếng Anh và tiếng Pháp là cosmos, tiếng Nga là космос. Tên khoa học bằng tiếng La Tinh là Cosmos sulphureus. Gốc của tất cả các từ này là κόσμος của tiếng Hy Lạp; từ này có nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa là trang hoàng. Quy nguyên cốt mốt về tiếng Pháp hay tiếng La Tinh, tiếng Nga đều hợp lý.
Cây cốt mốt xuất phát từ Mê-hi-cô, là một loại thân thảo mọc thành bụi, cao từ 60 đến 80cm. Nhìn từ xa vườn hoa cốt mốt trông giống như một bầu trời sao lấp lánh. Đây có thể là nguồn gốc của tên gọi sao nháy.
Tên gọi tương đương bên tiếng Pháp là cosmos sulfureux étincelant (étincelant nghĩa là sáng chói). Cốt mốt thuộc bộ cúc (tiếng La Tinh là asterales, tiếng Pháp là ordre des astérales; gốc La Tinh astrum nghĩa là ngôi sao).
Không biết đây có phải là sự trùng hợp ngẫu nhiên hay không nhưng các tên gọi sao nháisoi nhái rất có thể là do sao nháy biến thành.