Người biết tiếng
Pháp thường nghĩ rằng măng cụt là từ
gốc Pháp (Phạm Văn Tình, Nguyễn Đức Tuấn). Người Pháp gọi quả măng cụt là mangouste.
Nhưng ngoài sự trùng hợp về âm thanh đó ra, không có bằng cớ cho thấy là người
Việt nào đó biết tiếng Pháp đã phiên âm mangouste
thành măng cụt.
Trương Vĩnh Ký có thể là người có công lớn trong việc phổ biến trái măng cụt (và từ măng cụt) ở miền Nam, nhưng điều đó không có nghĩa là từ măng cụt được phiên âm từ tiếng Pháp.
Từ măng
cụt đã được ghi nhận năm 1838 trong Nam
Việt Dương Hiệp Tự Vị của Taberd (2004:297), dịch sang tiếng La Tinh là garcinia mangoustana. Như vậy măng cụt phải xuất hiện trong tiếng Việt
và người Việt đã phải khá quen thuộc với thứ trái cây này từ trước cả khi Trương
Vĩnh Ký chào đời (tháng 12 năm 1837). Theo Eveillard (1887:10), cây măng cụt đó nguyên bỡi bên Phố mới mà ra: đức giám mục d’Adran, đem
cây ấy qua bên nầy, trồng tại Lái thiêu gần Sài gòn. Phố mới là Xinh-ga-po
/ Tân Gia Ba ; giám mục d’Adran (évêque d’Adran)
là đức cha Bá Đa Lộc / Pigneau de Béhaine (1741-1799).
Giả sử các nhà truyền giáo là những người giới thiệu
măng cụt cho người Việt (từ nhiều năm) trước 1838, khó có thể tin rằng họ dựa
vào từ mangouste của tiếng Pháp để đặt
tên Việt cho thứ trái cây này:
Từ mangouste
xuất hiện trên sách vở tiếng Pháp lần đầu năm 1798 (Macartney, 1798, Voy. dans l'intér. de la Chine et de
la Tartarie, t. 1, p. 362 ds König, p. 139) và được định nghĩa là fruit du mangoustan, tức là quả của cây mangoustan. Từ mangoustan có tiền thân trong tiếng
Pháp là mangostan. Từ mangostan này có khi chỉ cây măng cụt (trong Lodewijcksz, 1598,
Premier livre de l'histoire de la navigation
aux Indes orientales par les Hollandois, fo38 rods Arv., p. 315), có
khi chỉ quả măng cụt (trong Lodewijcksz, 1598,
Premier livre de l'histoire de la
navigation aux Indes orientales par les Hollandois, fo38 rods Arv., p.
314). Các nhà từ nguyên học Pháp đã xác định được rằng gốc của mangoustan là mangostae của tiếng Bồ Đào Nha vào thế kỷ 16 và người Bồ Đào Nha mượn
của tiếng Mã Lai (manggoestan).
Từ điển của Viện Hàn Lâm xuất bản năm 1835 không có
từ mangouste. Đối với người Pháp thời
đó mà nói, mangouste vẫn còn mang âm
hưởng xa lạ, chưa được coi là là một từ tiếng Pháp chân chính, thực thụ. Thương
nhân và nhà truyền giáo người Pháp lang thang ở Đông Nam Á có thể biết từ mangouste nhưng người Pháp bình thường không
biết từ này, không biết đó là thứ gì. Như vậy các giáo sĩ, nếu quả thật họ là
những người đầu tiên chỉ cho người Việt biết trái măng cụt là gì, không thể ý
thức rằng họ đang dùng một từ tiếng Pháp hay tiếng Bồ để gọi tên thứ trái đó.
Cùng lắm họ chỉ có thể biết rằng họ đang dùng một từ mà nhiều người trong vùng
Đông Nam Á (Mã Lai, Pháp, Bồ...) dùng
chung, trừ người An Nam (!) vì phải đợi đến khi có mặt các giáo sĩ người phương
Tây, người An Nam mới đi lại, buôn bán với Mã Lai (!).
Mặt khác, hơn hai nghìn trường hợp từ Việt có âm đầu
[k] mượn tiếng Pháp cũng có âm đầu là [k]: ca
< cas, ca dèn < caserne, côn < cône, cú < coup, cốt lết < côtelette...). Nói chung người Việt
không có vấn đề gì khi bắt chước âm [g] của tiếng Pháp vì vậy âm đầu [g] tiếng
Pháp sẽ được bảo lưu khi chuyển qua tiếng
Việt: gare > ga, garde > gác, gomme > gôm. Chỉ có một vài trường hợp âm [g] tiếng Pháp
chuyển thành âm [k] tiếng Việt và đều song song tồn tại với dạng bắt đầu bằng
âm [g]: cà mèn / gà mèn < gamelle), bánh ca-tô / ga-tô (gâteau). Người Việt nếu mượn từ mangouste của tiếng Pháp hầu như chắc
chắn sẽ gọi đó là trái măng gút hay măng gụt chứ khó có thể gọi là măng cụt.
Âm [k] này khiến ta phải nghĩ đến sự tiếp xúc giữa
người Việt và những người gặp khó khăn nhất định với âm [g] như người Trung Hoa
chẳng hạn. Măng cụt trong tiếng Hán có
nhiều tên gọi. Một trong những cái tên đó là mãng cát thị (莽吉柿). Lê Văn Đức (1970b:893) cũng ghi nhận một cái tên Hán Việt khác là mã cật.
Tiếng Mã Lai hiện nay gọi măng cụt là manggis / manggistan. Một quyển từ điển xuất bản đầu thế kỷ 20 của Wilkinson
(1901-1903:647 và 651) chú manggista
là từ ngữ văn học cổ điển, manggis
là từ địa phương Riau và Johore, masta
(phương ngữ Kedah), mesta (phương ngữ
bắc). Tuy nhiên, vài năm sau đó, trong bản giản yếu của quyển từ điển này, Wilkinson
(1908:506) ghi cả manggis, manggista, manggustan
và không chú thích gì, xem như cả ba dạng tương đương nhau. De Clercg (1909:1592)
ghi nhận manggis (tiếng Mã Lai, Java
và Bali), manggistan (tiếng Mã Lai),
manggus (Lampung), manggusta (tiếng Mã Lai, Bali, Bima), manggustan (tiếng Mã Lai Melaka). Waruno
Mahdi (2007:142-143) cho rằng dạng manggustan
này là tiếng Mã Lai Melaka vay mượn ngược từ tiếng Bồ. Trương Vĩnh Ký ắt phải
biết từ này khi du học ở Mã Lai. Các thương nhân người Hoa đi đi lại lại giữa
các nước trong vùng Đông Nam Á cũng phải biết. So với các nhà truyền giáo
phương Tây thì thương nhân người Trung Hoa hẳn phải có vai trò năng động hơn
trong việc làm cầu nối giữa miền Nam nước ta với miệt dưới. Do đó có nhiều khả
năng từ măng cụt vào nước ta bằng
cách theo chân thương nhân người Hoa hơn là qua miệng các ông giáo sĩ.
Có thể còn một con đường nữa để măng cụt vào nước ta.
Từ điển Huình Tịnh Paulus Của (1896b:17) giảng măng cụt là bứa xiêm. Tiếng
Thái Lan gọi thứ trái này là mạngkhud
(มังคุด). Người bán
hàng ngoài đường bây giờ có thể bán đủ thứ nho Mỹ, bắp Ấn Độ, dứa Thái Lan... mà ta
không thể biết thật sự nguồn gốc từ đâu. Nhưng hơn trăm năm trước bứa xiêm có lẽ
là bứa Thái Lan thật.
xưa quá rồi, nhưng "măng-cụt" là mankhoot của người Thái chớ còn ở đâu ra?
ReplyDelete