Wednesday, 15 August 2012

Huệ Thiên (An Chi) - Mười điều nhận xét về quyểnTừ điển thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh

 Là người sinh ra tại Sài Gòn cách đây gần 70 năm, chúng tôi rất vui mừng đón nhận quyển Từ điển thành phố Sài Gòn - Hồ Chí Minh (TĐTPSGHCM) do Thạch Phương - Lê Trung Hoa chủ biên và do Nhà xuất bản Trẻ ấn hành năm 2001. Đây là một quyển sách cần thiết và bổ ích mà một vài tờ báo đã giới thiệu. Tuy thế chúng tôi vẫn muốn nêu lên một số điểm mà chúng tôi cho là còn sai sót hoặc chưa hợp lý để các nhà chủ biên và những người dùng sách thẩm định thêm.
 Điểm đầu tiên là ở cái tên của quyển sách. Thông thường, khi một vùng, một nước hoặc một thành phố, v.v... , được đổi tên thì người ta chỉ còn gọi nó bằng cái tên mới chứ không ai ghép với tên cũ để gọi, thí dụ: (tỉnh) Tiền Giang thay cho Mỹ Tho chứ không phải (tỉnh) «Mỹ Tho - Tiền Giang», (nước) Myanmar thay cho Miến Điện chứ không phải (nước) «Miến Điện - Myanmar», Volgograd thay cho Stalingrad chứ không phải «Stalingrad - Volgograd», v.v... Dĩ nhiên là người ta có thể ghép tên cũ với tên mới để chỉ mốc thời gian, chẳng hạn «300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh» (1698-1998) «1000 năm Thăng Long - Hà Nội (1010-2010), v.v... Nhưng để gọi tên, mà lại là gọi đích danh về mặt khoa học và/hoặc hành chính vào một thời điểm cụ thể thì nhất định không ai ghép như thế. Chính vì không thể ghép như thế cho nên, mặc dù được biên soạn để kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng bộ sách do Trần Văn Giàu, Trần Bạch Đằng, Nguyễn Công Bình chủ biên vẫn chỉ mang tên «Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh» chứ không phải «Địa chí văn hóa Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh».
Đặt các tên sách như hai nhà chủ biên đã có sáng kiến thì chỉ làm cho nó rườm rà một cách vô ích mà thôi, đồng thời cũng là tỏ ra không tôn trọng một sự thay đổi chính thức về mặt hành chính thực sự có hiệu lực đã hơn một phần tư thế kỷ.
Điểm thứ hai là các nhà chủ biên không nêu rõ tiêu chuẩn lựa chọn mục từ nên người đọc dễ có cái cảm giác là hoặc họ đã lựa chọn một cách tùy tiện hoặc họ chỉ đưa vào quyển từ điển những tư liệu có sẵn trong tay họ mà thôi.
Người ta không biết tại sao phần «Nhân vật» có tên của tướng Ely mà lại không có tên của tướng De Lattre de Tassigny trong khi dân Sài Gòn còn «quen» với tướng sau hơn cả tướng trước.
Người ta cũng không biết tại sao các nhà chủ biên ghi nhận tên của Đinh Xuân Nguyên (Thanh Lãng) mà lại không ghi nhận tên của Trần Kim Bảng (Thiên Giang), Phạm Văn Hạnh (Thê Húc) và Lê Nguyên Tiệp (Tam Ích). Thiên Giang, Thê Húc và Tam Ích là ba cây bút trụ cột của nhóm «Chân trời mới» mà các tác phẩm (do Nam Việt xuất bản) hồi đầu thập kỷ 1950 đã đem đến cho người đọc những tư tưởng và quan niệm tiến bộ về văn nghệ (riêng Thiên Giang thì năm 1968 đã ra vùng giải phóng rồi ra nước ngoài để tuyên truyền cho chính phủ CMLTCHMNVN).
Người ta cũng có thể thắc mắc tại sao phần «Địa danh» có rất nhiều «Cây» mà Cây Quéo và Cây Thị thì lại không trong khi nó đang tồn tại với tư cách là những tên vùng: Cây Quéo thuộc các phường 5, 6, 7 còn Cây Thị thì thuộc phường 11, cả hai đều thuộc quận Bình Thạnh.
Tất nhiên là người đọc còn có thể thắc mắc về rất nhiều thứ không được nói đến nữa chỉ vì các nhà chủ biên đã không nêu rõ những tiêu chuẩn cụ thể và tạm đủ để cho họ có thể tự mình giải đáp mà loại trừ dần dần từng thắc mắc.
Điểm thứ ba là đối với (những) biệt danh của những nhân vật nổi tiếng thì các nhà chủ biên đều nhất loạt chuyển chú về tên thật của họ cả.
Việc này hoàn toàn không phải lẽ. Thông thường, đối với những nhân vật đó, người ta chỉ chính thức ghi nhận vào từ điển cái tên được toàn thể xã hội biết đến mà thôi. Thí dụ như người ta ghi nhận «Maxime Gorki» làm mục từ chính thức thay vì «Alexei Maximovitch Pechkov» mặc dù đây mới là tên thật của nhà văn Xô viết này. Người ta chỉ ghi nhận «Molière» thay vì «Jean-Baptiste Poquelin» mặc dù đây mới là tên thật của nhà soạn kịch nổi tiếng của Pháp ở thế kỷ XVII, v.v... Còn trong TĐTPSGHCM thì tất cả các danh tính quen thuộc với toàn xã hội đều được chuyển chú về từng tên thật tương ứng, chẳng hạn: «Dương Tử Giang (X. Nguyễn Tấn Sĩ)» - «Đông Hồ (X. Lâm Tấn Phác)» - «Nam Quốc Cang (X. Nguyễn Văn Sinh)», v.v... Có lẽ nào các nhà chủ biên lại không biết rằng đây là chuyện xã hội chứ không phải chuyện gia đình, cũng không phải là chuyện khai lý lịch cho cán bộ tổ chức. Người đọc biết đến tác giả của tập truyện ngắn «Một vũ trụ sụp đổ» và tiểu thuyết «Tranh đấu» qua cái tên Dương Tử Giang chứ không phải Nguyễn Tấn Sĩ nên cái người mà họ muốn biết tiểu sử là nhà văn Dương Tử Giang chứ tuyệt đối không phải là anh cán bộ hay anh công dân Nguyễn Tấn Sĩ, càng không phải là ông anh, ông chú hay ông bác Nguyễn Tấn Sĩ trong gia đình họ Nguyễn.
Cũng tương tự như vậy đối với những trường hợp khác. Việc các nhà chủ biên chuyển chú các biệt danh được xã hội biết đến về từng tên thật tương ứng là một sự áp đặt đối với người đọc. Chẳng những thế, đó còn là một sự xúc phạm đối với những người có biệt danh hữu quan nữa vì chính họ đã muốn xã hội biết đến mình qua (những) biệt danh mà họ đã đặt ra chứ không phải là tên «cha sinh mẹ đẻ».
Điểm thứ tư là trong phần «Địa danh» các nhà chủ biên đã cung cấp cho người đọc một định nghĩa không dùng được về chính khái niệm «địa danh». Họ đã viết như sau: «Địa danh là những từ hoặc ngữ cố định, được dùng làm tên riêng của các địa hình tự nhiên, các đơn vị hành chính, các vùng lãnh thổ và các công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều (như cầu, đường, công viên). Còn tên các công trình xây dựng thiên về không gian ba chiều (đình, chùa, nhà ở, cơ quan) không thuộc phạm trù của địa danh» (trang 289).
Với định nghĩa độc đáo trên đây, hai nhà chủ biên đã mặc nhiên xem các địa hình là những hiện tượng «thiên về không gian hai chiều» và đã ngang nhiên biến chúng thành mặt phẳng trừu tượng không hề tồn tại trong thực tế. Chỉ cần nhắc đến đỉnh cao nhất thế giới là Chomolungma (Everest), 8.848m và vực sâu nhất là Mariannes, -11.034m thì cũng đủ thấy cái thao tác «trừu tượng hóa» đó của các nhà chủ biên là hoàn toàn vô lý. Các vùng lãnh thổ cũng không phải là những mặt phẳng «thẳng băng» vì nói chung đó là những vùng có địa hình đa dạng: đồng bằng, cao nguyên, đồi núi, v.v... Đến như những cây cầu mà các nhà chủ biên cũng cho là những «công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều» thì thật oan uổng cho những thứ đó. Xin mời các vị chủ biên đọc mục «cầu Mỹ Thuận» ở trang 561 của chính các vị:
«Tổng chiều dài: 1,535m,
Chiều rộng mặt cầu: 24m,
Chiều cao trụ tháp: 116,5m,
Độ cao thông thuyền: 37,5m.»
Dài dằng dặc, rộng thênh thênh và cao vòi vọi đến như thế thì «thiên về không gian hai chiều» thế nào được! Cũng may mà quý vị còn chưa nói rằng đó là công trình «thiên về không gian một chiều» vì thấy nó nằm vắt ngang một cách thẳng băng từ bên này sang bên kia sông!
Vậy tên của đình chùa, nhà ở, cơ quan có phải là địa danh hay không là vì lý do hoàn toàn khác chứ không phải vì đó là những «công trình xây dựng thiên về không gian ba chiều» cũng như không phải vì cầu, đường công viên là những «công trình xây dựng thiên về không gian hai chiều» mà tên của chúng được thừa nhận là địa danh.
Điểm thứ năm là các nhà biên soạn đã cung cấp cho người đọc nhiều chi tiết mâu thuẫn nhau và đây là một điều kiêng kỵ đối với một quyển từ điển. Sau đây là mấy dẫn chứng.
Cũng là tên của vị thống suất đã đặt nền hành chính chính thức ở Gia Định năm 1698 mà phần «Sự kiện» thì chính thức ghi «Nguyễn Hữu Kính (cũng đọc là Nguyễn Hữu Cảnh)» (trang 17) nhưng phần «Nhân vật» thì lại chính thức ghi Nguyễn Hữu Cảnh (cũng đọc là Kính)» (trang 192).
Trang 51 ghi «tháng 12-1920, năm trăm học sinh trường Chasseloup-Laubat bãi khóa» nhưng trang 53 thì lại ghi «ngày 17-8-1928 toàn quyền Đông Dương ra nghị định thành lập Lycée Chasseloup-Laubat ở Sài Gòn». Vậy năm 1920 trường này đã có hay chưa?
Trang 106 ghi: «(...) người ta nghe thấy 5 tiếng nổ, Hai nhân viên CIA đã bắn vào ngực Nguyễn Thái Bình». Còn trang 203 thì lại ghi «(...) tên phi công Gene Waughn đè chặt anh xuống sàn máy bay để cho tên tình báo William Heary Mills bắn bốn phát đạn vào ngực».
Trang 85 ghi «tháng 8 năm 1954 (...) phái đoàn chính phủ VNDCCH do Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Ngoại giao Phạm Văn Đồng làm trưởng đoàn» nhưng trang 232 thì ghi là đến 20-9-1955 ông Phạm Văn Đồng mới làm Thủ tướng.
V.v... và v.v...
Điểm thứ sáu là các nhà chủ biên đã cung cấp cho người đọc rất nhiều chi tiết sai mà sau đây chỉ là vài dẫn chứng ít ỏi:
«Lê Bá Cang. Trường cấp II hoạt động ở Sài Gòn trong thời gian 1954-1975. Trường ở góc Lý Tự Trọng - Thủ Khoa Huân.» (trang 748).
Thực ra thì từ giữa thập kỷ 1950, trường Lê Bá Cang đã dời về đường Audouit (nay là Cao Thắng) chứ không còn ở đường Lagrandière (Lý Tự Trọng) nữa.
«Vĩnh Bảo (Nxb). Năm thành lập: 1970. ĐC: 66 Lê Lợi, SG» (trang 885).
Chỉ mười mấy chữ thôi mà đã có đến năm chỗ sai. Thứ nhất là ông Đào Văn Tập trước sau vẫn gọi cơ sở xuất bản của mình là «Nhà sách Vĩnh Bảo» chứ không gọi là nhà xuất bản (Nxb). Thứ hai là về thời điểm thành lập («1970»), hai nhà chủ biên đã đi trễ đến 20 năm. Dẫn chứng: Năm 1949, nhà sách Vĩnh Bảo đã ấn hành Tiền vàng và tiền giấy của Vũ Văn Hiền và Việt-nam văn-học-sử trích-yếu, t.1 của Nghiêm Toản. Thứ ba, «66 Lê Lợi» là một địa chỉ sai: thực ra là 66 ter, Bonard (bấy giờ chưa đổi thành Lê Lợi) tức là tại địa chỉ trung tâm Kim hoàn Sài Gòn hiện nay (nằm giữa hai con đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa và Nguyễn Trung Trực, chứ số 66 thì còn nằm phía bên này đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa, tính từ đường Pasteur đi tới). Thứ tư, 66 ter Bonard (Lê Lợi) cũng là một địa chỉ muộn màng vì khi mới thành lập thì nhà sách Vĩnh Bảo đặt tại số 46 Lagrandière - 156 Pellerin (nay là góc Lý Tự Trọng - Pasteur). Thứ năm, số 66 ter Bonard ban đầu là nhà in Vĩnh Bảo về sau mới sửa lại làm nhà sách, chứ không phải là nhà sách ngay từ đầu.
«Yểm Yểm thư quán, (Nxb). Nhà sách kiêm xuất bản. Năm thành lập: 1970. ĐC: 72 Trần Văn Thạch, SG». (trang 886).
Ở đây có 4 chỗ sai. Thứ nhất, tên của hiệu sách này là «Yiễm Yiễm thư quán» (viết «Yiễm Yiễm», đọc «Diễm Diễm», theo lời giải thích của chủ nhân) chứ không phải là «Yểm Yểm». Thứ hai, đây không phải nhà xuất bản mà chỉ là một chi nhánh của Yiễm Yiễm thư trang, số 113-115, đường Kitchener (nay là Nguyễn Thái Học, Quận 1), do ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết chủ trương. Thứ ba, ngay cả Yiễm Yiễm thư trang cũng không phải là nhà xuất bản mà chỉ là nơi phát hành của nhà xuất bản Bốn phương, cũng do ông Đông Hồ và bà Mộng Tuyết làm chủ. Thứ tư, về thời điểm thành lập, các nhà chủ biên cũng đi trễ gần hai thập kỷ vì Yiễm Yiễm thư quán thành lập hồi thập kỷ 1950 chứ không phải năm 1970.
Những chỗ sai như trên có quá nhiều nên trong phạm vi một bài báo chúng tôi không làm sao nêu ra cho hết được.
Điểm thứ bảy là các nhà chủ biên đã bỏ quên nhiều thứ quan trọng từng góp phần tạo nên bộ mặt một thời của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định. Sau đây là một vài dẫn chứng.
Phần «Đường phố» dày 123 trang (trang 393-516) với khoảng 800 mục từ ghi tên đường phố nhưng không hề có tên đường Cây Mai là một con đường thuộc loại xưa nhất của thành phố mà Trương Vĩnh Ký đã nhắc đến trong quyển Souvenirs historiques sur Saigon et ses environs (1885). Con đường này liên quan đến gò Cây Mai, chùa Cây Mai, Bạch Mai thi xã, rồi cả đồn Cây Mai về sau nữa. Thật là oan uổng nếu nó không được nhắc đến.
Phần «Giáo dục - Khoa học» (trang 721-787) ghi nhận hơn 1000 tên của các trường tiểu học, THCS, THPT, cao đẳng, đại học và các trung tâm dạy nghề nhưng lại không có tên của trường Marc Ferrando, một ngôi trường nổi tiếng khắp vùng Bà Chiểu - Gia Định hồi nửa đầu thế kỷ XX. Dĩ nhiên là các nhà chủ biên không thể trả lời rằng vì họ không biết đến nó nên nó không quan trọng và không xứng đáng được ghi nhận.
Phần «Báo chí» (trang 823-872) đã nêu tên của hơn 580 cơ quan báo viết, báo nói, báo hình mà không có tên của: Revue Indochinoise Economique et Juridique (R.I.E.J); Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises (B.S.E.I.), một tạp chí nghiên cứu ra đời tại Sài Gòn từ cuối thế kỷ XIX;Đài phát thanh Pháp-Á (Radio France-Asie); v.v...
– Ở phần «Xuất bản» (trang 873-890), trong khi nâng Yiễm Yiễm thư quán từ chi nhánh của một hiệu sách lên thành nhà xuất bản thì các nhà chủ biên đã quên mất (hay không biết đến?) một cơ quan xuất bản rất quan trọng của Việt kiều (yêu nước hẳn hoi) tại Pháp do KS Nguyễn Ngọc Bích làm giám đốc: Nxb Minh Tân, ban đầu ở số 6, rue Albert Sorel, Paris XIV, sau dời về số 7, rue Guénégaud, Paris VI, mà «đại diện thẩm quyền» tại Việt Nam là Bích Vân thư xã 105 Galliéni (nay là Trần Hưng Đạo, Quận 1), Sài Gòn.
Dĩ nhiên là họ còn quên nhiều thứ quan trọng khác nữa mà vì khuôn khổ bài báo nên chúng tôi không thể nêu ra cho hết được.
Điểm thứ tám là vì quá tham lam về số lượng các mục từ của nhiều phần, đặc biệt là các phần «Kinh tế», «Văn hóa - Xã hội», v.v..., nên các nhà chủ biên đã tạo cho người đọc cái cảm giác là họ muốn biến quyển từ điển của mình thành một thứ niên giám hoặc danh bạ. Nói một cách khác, hình như họ muốn thay thế tính trí tuệ của nó bằng những sự liệt kê liên miên, không cần có trọng điểm. Về thực chất, nội dung của những sự liệt kê kiểu đó rất thích hợp với loại sách danh bạ hoặc niên giám. Một quyển niên giám như The Time Almanac 2000 do Borgna Brunner biên tập, dày 1040 trang, chỉ cần dành ra 22 trang rưỡi (pp.886-908) là đã đủ để liệt kê hơn 1.500 trường đại học và cao đẳng công và tư ở 50 bang của toàn nước Mỹ, với các chi tiết tối cần thiết.
Điểm thứ chín là các nhà chủ biên đã trình bày nhiều mục hoặc nhiều phần trong quyển từ điển của mình một cách rất thiếu khoa học. Trước nhất, họ đã gộp làm một nhiều cơ sở khác nhau vì hoàn toàn không mang tính chất kế thừa (của cơ sở sau đối với cơ sở trước). Sau đây là một số dẫn chứng:
«Pháp-Hoa Đông Dương. Trường trung học do người Hoa và người Pháp thành lập trong thời gian 1907-1911. Về sau đổi tên thành trường Bác Ái. Nay là Trường Cao đẳng Sư phạm TPHCM» (trang 761).
Cứ như mục từ này thì về mặt tổ chức và nội dung chương trình, Trường Cao đẳng Sư phạm TPHCM kế thừa trường Bác Ái còn trường Bác Ái thì kế thừa trường Trung học Pháp Hoa. Thực ra, đó là ba trường hoàn toàn riêng biệt thay thế nhau để sử dụng một cơ sở «nhà đất». Xin nói thêm rằng cái mà các nhà chủ biên gọi là trường «Pháp Hoa Đông Dương» thì tên tiếng Pháp là «Lycée Franco-Chinois» còn tên tiếng Hoa thì lại là «Trung Pháp trung học» (chứ cũng không phải là «Pháp Hoa»).
Kế đến, ở nhiều chỗ, thứ tự của bảng chữ cái đã không được tuân thủ nên việc sắp xếp các mục từ trở nên lộn xộn. Chẳng hạn, đáng lẽ phải xếp theo thứ tự: Lê Sĩ Quý - Lê Thành Kinh - Lê Thị Nam - Lê Thị Phỉ - Lê Thị Riêng - Lê Thọ Xuân thì tại các trang 170-171, các nhà chủ biên lại xếp: Lê Thọ Xuân - Lê Sĩ Quý - Lê Thành Kim - Lê Thị Nam - Lê Thị Phỉ - Lê Thị Riêng. Hoặc đáng lẽ phải xếp theo thứ tự: Nguyễn Thị Lan - Nguyễn Thị Lựu - Nguyễn Thị Minh Khai - Nguyễn Thị Một - Nguyễn Thị Nga thì tại các trang 207-208, họ lại xếp Nguyễn Thị Lựu -Nguyễn Thị Minh Khai - Nguyễn Thị Một - Nguyễn Thị Nga - Nguyễn Thị Lan v.v... Đã gọi là từ điển thì thứ tự «a, b, c» phải chính xác tuyệt đối.
Ở «Bảng đối chiếu tên đường trước năm 1954 và hiện nay (trang 510-514), các nhà chủ biên cũng gộp làm một nhiều con đường khác nhau nhưng lại cùng tên làm cho người đọc không khỏi ngỡ ngàng vì khó hiểu. Thí dụ:
«Trước năm 1954: Abattoir - Hiện nay: Cao Bá Nhạ, Huỳnh Đình Hai, Hưng Phú, Nguyễn Thái Học». (trang 510).
Người ta không hiểu tại làm sao chỉ có một con đường «Abattoir» trước năm 1954 mà hiện nay lại đồng thời có đến 4 con đường «Abattoir».
– «Abattoir de Cầu Kho» nay là Cao Bá Nhạ (Quận I).
– «Abattoir» (Bà Chiểu) nay là Huỳnh Đình Hai (Bình Thạnh);
– «Abattoir» (Quận 8) nay là Hưng Phú;
– «Boulevard de l’Abattoir» (gần chợ Cầu Ông Lãnh) nay là Nguyễn Thái Học (Quận I)
Cần phải nói thêm rằng mấy tiếng «trước 1954» của hai nhà chủ biên cũng không chính xác vì trước 1954 thì đường Nguyễn Thái Học mang tên Kitchener còn đường Cao Bá Nhạ thì mang tên Général Leman (chứ không phải «Abattoir»).
V.v... và v.v...
Cuối cùngđiểm thứ mười, là các nhà chủ biên đã hào phóng cống hiến cho người đọc một bảng mục lục hoàn toàn thừa thãi.
Hoàn toàn thừa thãi vì họ đã dành ra đến 70 trang để sao y toàn bộ các mục từ trong phần chính văn theo đúng thứ tự «a, b, c» mà chính họ đã sắp xếp. Bảng mục lục này là một thứ kiểu mẫu «không tiền» (vì chưa ai làm) đã đành mà cũng chắc chắn là «khoáng hậu» (vì sẽ không ai làm theo). Thay vì 70 trang – để cho người tiêu dùng phải tốn thêm tiền một cách oan uổng – các nhà chủ biên chỉ cần làm đúng một trang mục lục (nêu rõ các phần) là đủ. Trên thế giới này, đối với loại từ điển viết bằng chữ cái La Tinh, ai lại làm mục lục cho phần chính văn bao giờ?
Trở lên là mười điều nhận xét về quyển TĐTPSGHCM mà chúng tôi mạo muội nêu lên để các nhà chủ biên và độc giả thẩm định. Chúng tôi cho rằng một quyển từ điển về Thành phố Hồ Chí Minh chỉ cần những mục từ chọn lọc theo những tiêu chuẩn thật chặt chẽ (chứ không cần nhiều đến như đã thấy) để phác họa cho người đọc thấy được sự ra đời của Sài Gòn xưa (tức vùng trung tâm của Chợ Lớn) và sự phát triển toàn diện của nó để trở thành Thành phố Hồ Chí Minh hôm nay qua các giai đoạn: - thời Nguyễn - thời Pháp - thời Mỹ - thời sau Giải phóng (30-4-1975). Trong quyển từ điển mà chúng tôi hình dung thì nhiều phần trong TĐTPSGHCM sẽ trở thành những bảng phụ lục hữu ích chứ từng mục từ của mỗi phần đó không thể – vì không xứng đáng – trở thành những mục từ chính thức. Quyển từ điển đó sẽ có một (hoặc vài) bảng sách dẫn (index) thật chi tiết và thông minh chứ không phải một bảng mục lục dài dằng dặc như đã thấy.
Đối với quyển TĐTPSGHCM, chúng tôi rất nhất trí với «Lời nhà xuất bản» rằng đây chỉ là một «tập tài liệu tra cứu» chứ chưa phải là một «công trình từ điển».●
(Tháng 4-2001)
* Đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 1-2003 (Xuân Quý Mùi).
* In lại trong NHỮNG TIẾNG TRỐNG QUA CỬA CÁC NHÀ SẤM, Nxb TRẺ, 2004, trang 501-514.

Saturday, 11 August 2012

Suôn sẻ hay suông sẻ?

Suôn nghĩa là thẳng liền một đường (Nguyễn Kim Thản 2005:1421).. Nói suônnói trôi chảy, không vấp váp, khác với nói suôngnói mà không làm. Người Bắc phân biệt hai từ suônsuông rất dễ dàng. Người Nam phát âm hai từ như một và khi không biết mình muốn nói gì thì viết tuốt là suông mặc dù từ điển chỉ có suôn sẻ, không có suông sẻ.

LỐI XƯA XE NGỰA …HỒN QUÊ CŨ ! (Tôn Thất Thọ)

( Bài đã gởi đăng trên tạp chí SG Xưa&NAY, số 1/2008)
Một hình ảnh đẹp ở các tỉnh Nam Bộ đã đi vào quá khứ: hình ảnh của những chiếc xe thổ mộ rong ruổi ngược xuôi trên các néo đường quê .
Đã từ lâu, chiếc xe thổ mộ đã gắn liền với những phiên chợ sáng chiều của người dân quê Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một...Nó không những là phương tiện đi lạithuận tiện, mà với dáng vẻ độc đáo ,chiếc xe đã tạo cho khung cảnh đồng quê Nam Bộ trở nên duyên dáng và có” hồn “hơn !
Xe thổ mộ là loại xe ngựa chở khách ,có hai càng bằng gỗ, do một con ngựa kéo. Tại sao nó có tên là thổ mộ ? .Có người giải thích vì xe có mui cong nhỏ, trông giống cái gò mã nên được gọi là “ thổ mộ”. Lại có người cho rằng, nó bắt đầu từ tên xe là “ thảo mã”. Lâu ngày đọc trại ra thành “ thổ mộ” ( theo Paulus Của ). Lại có ý kiến giải thích nó có nguồn gốc từ chữ “Tombreau” của Pháp đọc trại thành thổ mộ; điều này, cụ Vương Hòng Sển trong cuốn “Tự Vị Tiếng Việt miền Nam” đã bác bỏ và cho biết rằng , người Pháp họ không bao giờ gọi xe thổ mộ làtombreau cả mà gọi là Boite d’allumettes ( hộp quẹt ), có lẽ vì cái hình dáng nhỏ nhắn của nó như cái hộp quẹt chăng ?
Có thể ban đầu, khi người Pháp mới sang, họ dùng xe ngựa để kéo pháo. Giống ngựa họ đem từ châu Âu, châu Phi sang. Ngựa giống này cao to, có khả năng kéo nặng được. Lần lần, có nhiều con không thể kéo pháo được nữa, chúng bị dạt ra để kéo đồ vật lặt vặt, kể cả kéo cỏ cho những con kéo pháo ăn. Chính vì thế mà có tên xe là “ thảo mã’ ( xe ngựa kéo cỏ ), lâu ngày đọc thành thổ mộ ?
Cho dù nó có nguồn gốc thế nào, thì cái tên thổ mộ đẫ được người dân Nam Bộ gọi đã khá lâu, ít nhất là vào thời điểm sau khi quân Pháp đến chiếm đóng Nam Kỳ .
Người đánh xe ngựa được gọi là” xà ích “, theo nhà văn Bình Nguyên Lộc trong cuốn “ Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam” thì “xà ích” là tiếng có nguồn gốc từ Phi- líp- pin.
Những người đánh xe ngựa ( xà ích ) vốn là những nông dân chất phác, phóng khoáng cởi mở. Họ nhanh chóng tiếp thu một phương tiện giao thông mới, cải tiến nó thành một loại xe chở khách có vóc dáng nhỏ, gọn,phù hợp với đường sá của nông thôn miền Nam. Hình thức xe cũng khá thẩm mỹ. Tuy giản dị với mái vòm cong cong, nhỏ nhắn nhưng khi di chuyển trên đường làng thì trông rất hài hòa với những ụ rơm, lũy tre làng của phong cảnh đồng quê.
Để hành nghề xe ngựa, việc quan trọng nhất là phải biết chọn ngựa. Lựa chọn ngựa bắt đầu từ màu lông, xái ngựa,tuổi ( xem răng ),mõm ( mõm nhọn kén ăn hơn mõm bằng ). Sau đó là huấn luyện .Việc huấn luyện ngựa do những vị cao tuổi học tập và truyền lại từ sách” Mã Kinh” của Tàu . Có người kỹ lưỡng hơn thìlại coi thêm mạng theo ngũ hành: mạng của người cần phải hợp với mạng của ngựa ! Ví dụ : người mạng Thổ chọn ngựa ô; mạng Thủy chọn ngựa Kim ( hoặc khứu) lông nâu nhạt ; mạng Mộc chọn ngựa Kim than ( ngựa trắng điểm đen); mạng Hỏa chọn ngựa Vang ( lông đỏ ).
Thời trước ,xe thổ mộ cũng hoạt động theo luật định. Ai muốn hành nghề xà ích đều phải qua một cuộc thi khảo hạch để nhà chức trách cấp bằng chứng nhận. Người lái xe phải đủ 18 tuổi, có đủ sức khỏe, trước khi thi phải thuộc 36 ký hiệu giao thông trên đường y như thi lái xe bây giờ vậy. Bởi vì lúc đó, xe thổ mộ chẳng những chở khách xuôi ngược ở các vùng nông thôn ngoại thành, mà nó còn chở hàng hóa và khách vào tận các chợ Bến Thành, Cầu Muối...Vì thế, người xà ích phải hiểu biết luật giao thông đường bộ và có tay nghề cao để đảm bảo an toàn giao thông. Trên xe phải có chuông, nút ấn chuông được đặt bên cạnh chỗ ngồi của người xà ích. Xe chạy khi trời tối phải có đèn lái ở hai bên, hai cái đèn có hình dáng là hai cánh tay người cầm hai chân đèn. Quy định này do người Pháp đặt ra. Đèn được đốt cháy bằng khí đá, nó chẳng soi sáng được bao nhiêu, cốt để cho người đi đường thấy có xe ngựa mà tránh ! Dưới gầm xe phải có bao đựng phân ngựa, không để ngựa phóng uế bừa bãi ra công lộ, Xe ngựa nào không thực hiện đủ những quy định trên sẽ bị “ phú lít” xử phạt ngay. Xem thế ta thấy xe ngựa ngày xưa cũng khá văn minh !
Có người nói rằng,lúc trước xe ngựa khi chạy trong thành thị thì xà ích che đi một phần cặp mắt của ngựa ,chỉ cho nó nhìn thấy phía trước từ 2 đến 3 mét ; mục đích là để cho ngựa khỏi bị phân tâm mà chạy “lạc hướng” dễ gây tai nạn . Mỗi xe thổ mộ được trang bị một “ bộ nhíp” giảm xóc. Tất cả các loại xe như xe bò, xe ngựa kéo, xe lừa...của ta từ trước đó chưa hề biết đến cái nhíp giảm xóc bao giờ.Cùng với sự tồn tại của chiếc xe ngựa là những nghề phụ thuộc theo nó như : nghề xén tóc và xén lông cho ngựa, nghề đóng móng sắt ngựa, nghề đóng thùng xe... Nghề đóng móng sắt do người châu Âu du nhập vào. Ngựa xứ ta trước đó chưa hề đóng móng sắt.
Thời gian khoảng nửa đầu thế kỷ 20, ở vùng Hóc Môn, Củ Chi, Thủ Dầu Một cóhơn 1000 chiếc xe thổ mộ. Có lẽ nó là phương tiện di chuyển công cộng trên bộ đầu tiên ở nước ta, sau đó mới đến các loại phương tiện khác. Cũng như nhiều nghề khác, nghề xà ích cũng có tính cha truyền con nối . Ở khu Tân Định xưa ,có con đường nhỏ mang tên Mã Lộ, đó là đường xe thổ mộ chạy. Xe thổ mộ cũng có bến như xe buýt hiện nay . Ngoài ra, ở khu vực kênh Nhiêu Lộc ( khu vực gần chùa Vĩnh Nghiêm hiện nay) có một khu vực gọi ’Bến tắm ngựa” , đây là nơi xà ích thường cho ngựa xuống tắm mát nghỉ ngơi sau thời gian dài rong ruổi mệt nhọc trên các ngã đường. Đối với người dân Sài Gòn- Gia Định và các vùng lân cận,những chiếc xe mui vòm khum cong như những nấm mộ xuôi ngược trên những con đường đất đỏ,( sau được rải đá rồi tráng nhựa);với hình ảnh những chú ngựa nhỏ con, gõ móng lốp cốp trên mặt đường nhựa, cùng với nhạc cổ leng keng ngày trước là một phương tiện chuyên chở rất gần gủi và thân thiện ,nhất là đối với bạn hàng các chợ và người bình dân đi lại từ nơi này sang nơi khác. Trong những ngày giáp Tết ,xe thổ mộ càng đẹp và rực rỡ hơn vì rực vàng hoa vạn thọ, hoa huệ, cúc ...từ các vùng Gò Vấp, Bà Điểm đổ vào bán ở các chợ nộithành.
Mỗi cổ xe thổ mộ đang chạy như là một bản hợp tấu giàu âm điệu. Âm điệu nền là tiếng vó ngựa lộc cộc giòn giã nện xuống đường.Tiếng khua lốc cốc của cây ví ( thanh thép nằm giữa trục bánh xe). Tiếng lục lạc leng keng ngân vang trên cổ ngựa. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng “cốc keng” ngân vang mà rời rạc từ cái chuông xe . Và cuối cùng là lâu lâu lại trỗi lên tiếng hý dài của con tuấn mã sung mãn đầysinh lực ! Tất cả như một bức họa mỹ thuật toát lên nhiều âm thanh của một bản hòa tấu sinh động, và bức họa đó đã thực sự đi vào dĩ vãng , đi vào lịch sử một vùng quê xưa...
Tôn Thất Thọ
( T/c X&N)

Friday, 10 August 2012

XE THỔ MỘ LÀ XE MỘT NGỰA (Cao Tự thanh)

XE THỔ MỘ LÀ XE MỘT NGỰA

Mình vốn hiếu kỳ (tò mò nói cho sang vậy mà), lang thang thấy thiên hạ bàn về chuyện nguồn gốc tên gọi “xe thổ mộ”, thấy nói chuyện văn chương mà chửi người khác phát … chướng, bèn nổi cơn … hiếu kỳ, hỏi bác Cao vốn từ lâu kính như huynh trưởng, đã được khai sáng thêm, nay góp thêm cho rộng đường dư luận về chuyện thổ mộ. Còn những chuyện bí mật về ông AC thì ông CTT không nói, nên không biết có gì bí mật trong cái tên An Chi không.
 May N mến,
Chuyện bạn hỏi thì buồn cười nhưng hơi zic zac, đại khái là thế này.
Cái entry ấy tôi viết hồi trước trên blog, lười tra từ điển nên viết qua loa không giải thích rõ ràng như viết báo viết sách. Đúng là độc mã Việt Hán phải thành Tục mã Hoa Hán giọng Quảng Đông chứ không phải T’ủ mỏ như tôi đã viết. AC nắm riết lấy chỗ hở ấy chê tôi không biết tiếng Quảng Đông thì kệ y, những kẻ nghiệp dư rất cần có những cái sai loại ấy để phô trương cái sai mà họ nghĩ là đúng. Bởi vì thổ mộ trong xe thổ mộ mà giải thích là là cái mộ đất như AC nếu không phải ngu dốt cũng là tào lao.
Thứ nhất, không phải bất cứ từ Hoa Hán nào được du nhập vào tiếng Việt cũng còn giống hệt như người Hoa đọc, ví dụ món giải khát mà người Triều Châu nói là xiên xáo (tiên thảo – cỏ tiên) qua tiếng Việt bị nói trại thành sương sáo, món thịt muối nhồi ruột heo mà người Quảng Đông nói là lạp xường qua tiếng Việt bị nói trại thành lạp xưởng vân vân. Thứ hai, không biết cái xe ngựa được gọi là xe thổ mộ ở Nam Kỳ đã xuất hiện từ bao giờ, nhưng chắc chắn là dưới thời Pháp thuộc từ 1862 đến 1945 và cả 1954 nó là một phương tiện kinh doanh vận chuyển phải đóng thuế, do đó phải được ghi nhận bởi người Pháp, tức bị đọc và viết trại qua tiếng Pháp và chữ latin. Bản thân chữ tục trong tục mã đọc theo giọng Quảng Đông cũng không hẳn như người Việt đọc, vì nó mang âm sắc kiểu giọng mũi. Tóm lại ở đây đã xuất hiện quá trình tôộc mã Quảng Đông chuyển thành T’ủ mỏ (hay một cái gì đó tương tự) trong tiếng Pháp rồi mới thành thổ mộ trong tiếng Việt, việc nó trùng âm với thổ mộ (mộ đất) trong từ Việt Hán hoàn toàn là ngẫu nhiên. Không phải bất cứ từ thổ nào trong tiếng Việt hiện nay cũng có ý nghĩa là thổ (đất) hay thổ (nôn mửa) trong từ Việt Hán, gái nhà thổ không thể hiểu là gái nhà đất hay gái nhà nôn mửa được, là ví dụ thế. Xã hội vốn phức tạp hơn ngôn ngữ, không thể truy nguyên từ ngữ đơn thuần theo con đường ngôn ngữ mà còn đầy sự suy diễn chủ quan như ông AC.
Tôi có vài tư liệu về việc thu thuế xe thổ mộ ở Sài Gòn – Chợ Lớn bằng tiếng Pháp trước 1945 trong đó xe thổ mộ được giải thích là xe một ngựa kéo nhưng nhất thời chưa thể tìm lại ngay được, khi nào có dịp viết sách viết báo sẽ đưa ra. Ở đây chỉ tạm đưa ra một chứng cứ mà bạn có thể kiểm tra.
Trong quyển Dictionnaire Vietnamien Chinois Francais, Saigon, 1957 của Eugène Gouin (Hội Truyền giáo Hải ngoại Paris) có vài từ liên quan tới vụ xe thổ mộ này được giải thích như sau:
Thổ mộ: Voiture trainée par un cheval (Saigon).
Xe độc mã: Voiture à cheval.
Xe ngựa: Voiture à cheval.
Xe song mã: Voiture à deux chevaux.
Xe thổ mộ: Coupé (voiture).
Tạm dịch:
Thổ mộ: Xe được kéo bằng một con ngựa (ở Sài Gòn).
Xe độc mã: Xe một ngựa.
Xe ngựa: Xe một ngựa.
Xe song mã: Xe hai ngựa,
Xe thổ mộ: Xe bốn bánh có mui kín (xe bốn bánh).
            Tóm lại đây là một trong những chứng cứ rõ ràng về việc xe thổ mộ là xe một ngựa, tức thổ mộ có liên quan với độc mã. Dĩ nhiên để cẩn thận thì còn phải tìm thêm trong ba phương ngữ Triều Châu, Phúc Kiến, Hải Nam xem họ đọc từ độc mã này ra sao, nhưng tôi vẫn cho rằng nó là giọng Quảng Đông bị lệch đi qua tiếng Pháp và chữ viết latin.
Riêng chuyện ông AC ra sức chửi bới mỉa mai tôi không hề gì, tôi là dân chuyên nghiệp, không thèm hạ mình cãi cọ với đám người học hành không tới nơi tới chốn mà còn làm phách như y, với lại tôi không chơi blog lâu rồi. Hơn mười năm trước y đã hứng thú với chuyện mồ mả thì hiện nay nhiều tuổi hơn có hứng thú hơn cũng không phải lạ, chỉ là vụ xe thổ mộ = xe giống như cái mả đất của y quả là thuộc trường phái từ nguyên học dân gian bá láp, đúng là có tác dụng phi thường trong chuyện làm cho em cháu ngu đi.
CTT.

Bác ngữ học gia Phan Ngọc đã nâng cấp công trình của học giả Đào Duy Anh như thế nào? (Huệ Thiên / An Chi)

Bác ngữ học gia Phan Ngọc đã nâng cấp công trình của học giả Đào Duy Anh như thế nào?

by An Chi on Tuesday, July 10, 2012 at 1:26am ·
Huệ Thiên

Để «Khoa học hóa và hiện đại hóa công việc của thế hệ trước mà nâng công trình của Đào Duy Anh lên hàng từ điển ngữ văn theo quan điểm của ngôn ngữ học» (lời của Phan Ngọc), đến tết Bính Dần 1986 thì Phan Ngọc đã sửa chữa xong Từ điển Truyện Kiều theo giấy ủy nhiệm của tác giả Đào Duy Anh ký ngày 10 tháng 11 năm 1985. Chỉ tiếc rằng sách được sửa chữa xong trước khi Đào Duy Anh qua đời (1988) mà ở đầu sách lại không có lấy một lời nào của tác giả cho biết ông có hài lòng hay không, hoặc hài lòng đến mức nào về đứa con tinh thần mà mình đã phó thác cho người khác sửa chữa (còn tờ giấy ủy nhiệm nhưng không phải bút tích in ở đầu sách thì độc giả lại chẳng cần đến). Và cũng chỉ tiếc rằng những chỗ mà Phan Ngọc đã sửa chữa hoặc bổ sung thì lắm chỗ lại sai, đặc biệt là phần bổ sung về mặt từ nguyên. Dưới đây là một số dẫn chứng chọn lọc [1].
1. Phan Ngọc viết: «Áo khăn. Nghĩa đen là cái áo và cái khăn chít trên đầu. Nên nhớ người Trung Quốc đội mũ chứ không chít khăn, người Việt chít khăn. Cái khăn (chữ Hán là cân) là của phụ nữ dùng để quàng trên đầu chứ không phải để chít. Nguyễn Du dùng áo khăn để chỉ y phục nam giới là nhìn với con mắt Việt Nam, nói theo giọng Việt Nam» (BPN, tr. 31).
Trong Bg, Đào Duy Anh đã không giảng hai tiếng áo khăn. Toàn bộ lời giảng trên đây là do Phan Ngọc bổ sung. Chỉ tiếc rằng người sửa chữa đã nói oan cho Nguyễn Du khi khẳng định rằng tác giả Truyện Kiều «dùng áo khăn để chỉ nam giới là nhìn với con mắt Việt Nam, nói theo giọng Việt Nam»: Tàu tất đấy, từ «giọng» cho đến «con mắt». Xin hãy đọc Thanh Tâm Tài Nhân qua bản dịch của Nguyễn Khắc Hanh và Nguyễn Đức Vân, đoạn giới thiệu Sở Khanh: «Thúy Kiều nghe ngâm xong, ló đầu nhòm ra, thì thấy một gã thư sinh khăn lượt áo hoa (chúng tôi nhấn mạnh – HT), đương loanh quanh ngâm ngợi ở dưới chân lầu gần đó».[2] Sau đây cũng là đoạn đó, theo bản dịch của Tô Nam Nguyễn Đình Diệm: «Thúy Kiều nghe đoạn, ngoái cổ trông ra chỉ thấy một chàng thư sinh khăn áo dịu dàng (cũng chúng tôi nhấn mạnh – HT), đứng ở trước lầu bên cạnh, ra vẻ tưởng nhớ bâng khuâng» [3].
Vậy thật là sai lầm nếu cho rằng nam giới Trung Hoa không xài khăn. Nếu lại cho rằng Thanh Tâm Tài Nhân tả sai, thì xin hãy đọc những lời sau đây của các nhà nghiên cứu về văn hóa cổ Trung Hoa, đặc biệt là vào đời Minh: «Đời Minh, quan phục vẫn là khăn đầu (chúng tôi nhấn mạnh – HT) và áo bào cổ tròn. Nhưng bấy giờ khăn đầu sơn đen, ngắn và rộng, gọi là ô sa mạo (mũ lụa đen). Bọn thống trị nhà Minh đặt ra loại khăn «bình định bốn phương» và mũ «nhất thống lục hợp» để tỏ ý nền thống trị được củng cố. Loại khăn và mũ này dùng cho thư sinh (cũng chúng tôi nhấn mạnh – HT), nhà buôn và dân đô thị».[4] Còn sau đây là nói về đời Đường và đời Tống: «Người Tống ăn mặc rập khuôn theo người đời Đường, có thay đổi chút ít. Đời Đường quấn khăn trên đầu, khi buộc khăn, hai đầu múi hướng về phía trước buộc chặt tóc, rồi quấn ra sau đầu thắt một vòng, phần còn lại buông xuống tự nhiên(chúng tôi nhấn mạnh – HT)».[5]
Cũng do cách nhìn lệch trên đây, mà đối với cụm từ ăn mặc nâu sồng ở câu 2039, Phan Ngọc đã giảng như sau: «Nên chú ý lối ăn mặc nâu sồng không phải là lối ăn mặc của sư sãi Trung Quốc mà là lối ăn mặc của sư sãi Việt Nam» (BPN, tr. 32). Nhưng rất tiếc rằng ở đây Nguyễn Du chỉ dùng mấy tiếng «ăn mặc nâu sồng» theo hoán dụ để chỉ người tu hành chứ hoàn toàn không phải để miêu tả y phục cụ thể trên người Kiều khi nàng vừa xuất hiện tại am Chiêu Ẩn của vãi Giác Duyên sau khi trốn khỏi gác Quan Âm trong vườn nhà Hoạn Thư.
Vậy không thể nói Nguyễn Du đã mặc quần áo Việt Nam cho các nhân vật của Thanh Tâm Tài Nhân được.
2. Phan Ngọc viết: «Ban ngày. Gốc ở từ Khơme pêl là lúc, thngay là mặt trời. Ban ngày là lúc có mặt trời» (BPN, tr. 41).
Nhưng pêl lại là một từ Khmer (Khm.) gốc Sanskrit (Skt.), bắt nguồn ở danh từ velā, có nghĩa là giờ, khi, lúc, thời kỳ,... Mối quan hệ Khm. pêl < Skt. velā là một hiện tượng mà các tương ứng ngữ âm đập ngay vào mắt. Thứ nhất, giữa Khmer và Sanskrit, nguyên âm chính ở đây là một. Thứ hai, đã thành quy luật hiện tượng Khm. p < Skt. v:
– Khm. piêt (âm nhạc) < Skt. vādya;
– Khm. pianô (con khỉ) < Skt. vānara;
– Khm. pichây (sự chiến thắng) < Skt. vi-jaya;
– Khm. prưk (cây) < Skt. vŗkşa;
– Khm. pêch (lời nói) < Skt. vacas;...
Thứ ba, cũng là hiện tượng bình thường vì đã thành quy luật việc âm tiết thứ hai của từ Sanskrit đã rụng mất khi đi vào tiếng Khmer nhưng phụ âm đầu của nó thì trở thành âm cuối của âm tiết trước trong tiếng Khmer:
– Khm. chial (cái sọt) < Skt. jāla (lưới, phên);
– Khm. đôl (cái cân) < Skt. tulā;
– Khm. tial (cùn, lụt) < Skt. dalita;
– Khm. nil (xanh) < Skt. nīla;
– Khm. phal (diệp cày) < Skt. phāla; v.v... .
Vậy pêl là một từ Khmer gốc Sanskrit nên tất nhiên nó chẳng có liên quan gì đến từ ban trong ban ngàycủa tiếng Việt vì ban là một từ Việt gốc Hán hiển nhiên bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 班 mà âm Hán Việt hiện đại là... ban, có nghĩa là thứ tự trong không gian hoặc thời gian (Từ hải, nghĩa 3: thứ đệ dã; vị thứ dã).
Phan Ngọc còn khẳng định rằng bây trong bây giờ cũng do pêl của tiếng Khmer mà ra (xem BPN, tr. 46). Nhưng cũng như đối với ban, chính nguồn gốc Sanskrit của pêl đã loại trừ mối quan hệ giữa nó với từ bây của tiếng Việt. Cách đây hơn 45 năm, Phan Khôi đã chứng minh rằng bây là kết quả của một sự nói ríu hai tiếng bằng này, cũng như bấy của bằng ấy và bao của bằng nào [6]. Đây là một cách giải thích rất đáng tin vì có căn cứ vững chắc.
3. Phan Ngọc viết: «Bài bây. Từ gốc Khơme pai là cẩu thả, piây là hư hỏng, bài bây do đó có nghĩa là xấu xa» (BPN, tr. 40).
Chính Đào Duy Anh đã giảng rất đúng rằng bài bây là «trò liều lĩnh, trò vô sỉ» (Bg, tr. 25). Vậy câu «Lão kia có giở bài bây» có nghĩa là nếu lão kia (chỉ Mã giám sinh) có giở trò xằng bậy. Trong cấu trúcgiở bài bây thì bài nhất thiết phải là danh từ vì người ta chỉ có thể nói: giở ngón gian lận, giở trò lưu manh, giở mánh xỏ lá, giở thói đê tiện, ... chứ không thể nói «giở gian lận», «giở lưu manh», «giở xỏ lá» «giở đê tiện», v.v... Khẳng định như Phan Ngọc rằng bài bây ở đây là xấu xa (tính từ) là đã không đếm xỉa gì đến đặc điểm cú pháp của cấu trúc đang xét. Bài bây thực chất là một từ tổ danh từ trong đó bài có nghĩa là trò, là ngón, là thói,... còn bây là tính từ và có nghĩa là xằng bậy. Bây là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 非, có nghĩa là sai, trái, mà âm Hán Việt hiện đại là phi còn âm xưa chính là... bây. Vậy bây cũng không liên quan gì đến tiếng Khmer piai – chứ không phải «piây» – có nghĩa là hư hỏng vì đây lại là một từ Khmer gốc Sanskrit bắt nguồn ở từ vy-aya, có nghĩa là hư hỏng, tàn lụi. Còn về âm lý thì Khm. piai < Skt. vy-aya là hiển nhiên mà riêng mối quan hệ Khm. p < Skt. v thì đã được chứng minh ở mục 2.
4. Phan Ngọc viết: «Bàn bạcBạc là gốc từ Khơme piêc là nói, tức là bàn và nói, không phải từ láy âm» (BPN, tr. 41).
Thực ra, piêk (chữ «c» của Phan Ngọc chính là [k]) là một từ Khmer gốc Sanskrit bắt nguồn ở vakti có nghĩa là lời nói. Xin thuyết minh một chút về mối quan hệ Khm. piêk < Skt. vakti. Thứ nhất, việc âm tiết thứ hai (-ti) của vakti bị bỏ hẳn khỏi tiếng Khmer là hiện tượng có thể thấy một cách «đại trà» nên bất tất phải chứng minh. Thứ hai, âm cuối của piêk và của vak(ti) chỉ là một. Thứ ba, mối quan hệ Khm. p < Skt. v đã được chứng minh. Thứ tư, Khm. iê (ia). < Skt. a có thể thấy được qua hàng loạt thí dụ:
– Khm. piathia (sự hành hạ) < Skt. vadha;
– Khm. piêt (tán bẹp) < Skt. vadh;
– Khm. piês (bịt, bọc, tráng... ) < Skt. vas; .
– Khm. chia (là, «to be», «être») < Skt. ja;
– Khm. riêng (hình dáng) < Skt. ran. ga;...
Vậy piêk của tiếng Khmer chẳng có liên quan gì đến bạc trong bàn bạc, còn bàn bạc thì lại là âm cổ Hán Việt của hai chữ 辯白 mà âm Hán Việt hiện đại là biện bạch và âm Quảng Đông hiện đại là pàn pạk. Phan Ngọc đã đúng ở một điểm duy nhất: bàn bạc không phải là một từ láy âm.
5. Phan Ngọc viết: «Bơ vơVơ nghĩa là không chắc chắn (nói vơ), không có căn cứ, cơ sở (nhận vơ). Về cấu tạo, xem bát ngát» (BPN, tr. 60). Còn ở mục bát ngát, tác giả đã viết: «b- là tiền tố để tạo nên những từ láy có nghĩa tình cảm như bỡ ngỡ, bùi ngùi, bảng lảng» (BPN, tr. 44). Ý Phan Ngọc muốn nói rằng trong bơ vơ thì b- cũng là một tiền tố để tạo nên từ láy có nghĩa tình cảm.
Nhưng thật khó mà biết được bơ vơbát ngát và bảng lảng chỉ những tình cảm nào trừ phi nói liều rằngbát ngát, chẳng hạn, là tình cảm của cánh đồng, còn bảng lảng thì là tình cảm của bầu trời, ... Thật ra chỉ vì quá say mê với hiện tượng hình vị nhỏ hơn âm tiết (ở đây là «tiền tố» b-) nên Phan Ngọc đã quên bẵng đi rằng bơ đích thực là một từ có nghĩa như chính ông đã thừa nhận tại mục «bơ thờ» ngay ở trên. Ông đã viết: « là không có gì hết, như ta vẫn nói tỉnh bơ, bơ đi tức là coi như không (...)» (BPN, tr. 60). Xin nói thêm: đây chính cũng là  trong cầu bất cầu bơ mà nghĩa theo mặt chữ là «hai lần cầu cứu vào chỗ trống không» (cầu bất = cầu bơ = kêu cứu vào chỗ không có gì, không có ai) còn nghĩa thông dụng hiện hành là bơ vơ, không nơi nương tựa. Từ  cũng còn được thấy trong khẩu ngữ của phương ngữ Nam Bộ với các từ tổ bơ miệng, bơ mỏ, nghĩa là mỏ không, miệng trống; chẳng có cái chi mà nhét vào... bụng. Vậy bơ vơ cũng không phải là từ láy âm vì đó đích thực là một tổ hợp đẳng lập.
6. Phan Ngọc viết: «Cả. Chữ cả Mường là lớn, đây có nghĩa là to lớn với sắc thái không gì lớn bằng» (BPN, tr. 68).
Chúng tôi xin phụ chú rằng ở đây, từ cả của cả tiếng Mường lẫn tiếng Việt đều là mượn từ tiếng Hán mà nguyên từ (etymon) là một từ ghi bằng chữ 嘏 có nghĩa là to lớn, cao cả, mà âm Hán Việt chính thống hiện đại là giả (Từ hải: giai ả thiết, âm giả, mã vận) còn âm xưa thì lại đúng là... cả (Quảng vận: cổ nhã thiết, thuộc vận bộ ). Các cuốn từ điển Hán Việt thông dụng đã phiên âm nhầm chữ này thành hổ (Nguyễn Quốc Hùng) hoặc hỗ (Đào Duy Anh, Đỗ Văn Đáp, Thiều Chửu). Nhưng một chữ thuộc thanh mẫu kiến và vận bộ mã thì không thể đọc thành «hổ» hoặc «hỗ» được.
Tóm lại, cả là một từ Việt gốc Hán thuộc loại «lão làng» vì nó rất xưa và theo chúng tôi thì nó đã được mượn muộn nhất cũng vào đời nhà Hán cai trị nước ta.
7. Phan Ngọc viết: «Coi sóc. Sóc là gốc ở từ Khơme xrăs nghĩa là lấy hàng rào rào lại; do đó coi sóc là trông nom cẩn thận» (BPN, tr. 81. )
Thực ra sóc là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 畜, có nghĩa là chăn nuôi, nuôi dưỡng, vun xới, bồi dưỡng [7], mà âm Hán Việt hiện đại là súc còn âm xưa thì lại là... sóc.
8. Phan Ngọc viết: «Cơn. Gốc ở từ Khơme kal với nghĩa đơn thuần là lúc» (BPN, tr. 91).
Vấn đề không «đơn thuần» như thế. Thứ nhất, kal là một từ Khmer gốc Sanskrit, bắt nguồn ở danh từkalā, có nghĩa là phần, bộ phận, phần thời gian,... Thứ hai, vì từ kal có gốc Sanskrit nên tất nhiên nó chẳng liên quan gì đến cơn trong cơn mưa, cơn gió, cơn giận, cơn buồn, v.v... của tiếng Việt, vốn là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 根 có nghĩa là rễ, là nguồn gốc, mà âm Hán Việt thông dụng hiện đại là căn, âm chính thống hiện đại là cân (âm này chỉ tồn tại trên lý thuyết), còn âm Hán Việt cổ đại thì lại chính là... cơnCơn có nghĩa gốc là rễ, là gốc, rồi mới có nghĩa phái sinh là nguồn gốc (như có thể thấy trong nguồn cơn). Với nghĩa là gốc cây, cơn đã được dùng theo hoán dụ để chỉ khái niệm «cây» trong phương ngữ Bắc Trung Bộ (còn cây trong tiếng Việt phổ thông thì bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 荄, cũng có nghĩa là rễ, mà âm Hán Việt hiện đại là cai). Với nghĩa là nguồn gốc của sự việc, cơn lại được dùng theo hoán dụ để chỉ cái diễn tiến của chính sự việc đó như trong cơn mưa, cơn bão, cơn giận, cơn buồn, v.v... . .
9. Phan Ngọc viết: «Can quaCan là cái gậy để đánh, qua là cái giáo, nghĩa rộng là chiến tranh, ở khía cạnh giao chiến» (BPN, tr. 71).
Có lẽ trong khi sửa chữa Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh, Phan Ngọc đã tơ tưởng đến danh từcanne (= cái gậy) của tiếng Pháp (người thông thạo nhiều thứ tiếng đôi khi vẫn bị «ảo ảnh» như thế) nên mới ra nông nỗi chăng. Còn sự thật thì xưa nay ai cũng hiểu can 干 là cái khiên, cái mộc, cái lá chắn. Chính Đào Duy Anh đã giảng rất đúng: «Can là cái mộc để che, qua là cái mũi qua để đâm. Can qua là binh khí; nghĩa rộng là cuộc đánh nhau, cuộc chiến tranh» (Bg, tr. 50). Có lẽ Phan Ngọc muốn chứng minh rằng mình thực sự có sửa Đào Duy Anh nên mới giảng như thế chăng? Thực ra Hán tự cũng có một chữ can 杆 có nghĩa là cái gậy nhưng chữ này chẳng có liên quan gì đến hai chữ can qua.
10. Về câu «Dễ dò rốn bể, khôn lường đáy sông», Phan Ngọc đã theo «ngữ pháp của sự đối xứng» mà giảng rằng ở đây «khôn là không khôn (... ). Khôn cũng có nghĩa như khéo, ta vẫn nói khôn khéo. Tức là dò rốn bể là chuyện khó và lường đáy sông là chuyện dại» (BPN, tr. 138).
Chỉ có Phan Ngọc mới hiểu tính từ khôn như thế – và hiểu sai – chứ ai cũng hiểu một cách bình thường rằng khôn ở đây nghĩa là khó. Và khôn lường đáy sông chỉ rất đơn giản là khó lường đáy sông đó mà thôi.
11. Về hai tiếng dày dày trong câu «Dày dày sẵn đúc một tòa thiên nhiên», Phan Ngọc đã giảng rằng đó là «mỡ màng», «phốp pháp» (BPN, tr. 128).
Tả thân hình của một người đẹp sắc nước hương trời mà bắt người đọc phải nghĩ đến mấy tiếng «mỡ màng», «phốp pháp» thì nghe... ghê rợn quá. Tòa thiên nhiên Thúy Kiều khoả thân mà toàn những mỡ và thịt như thế thì Thúc Kỳ Tâm chỉ có nước... chạy dài chứ làm sao mà «Sinh càng một tỉnh mười mê» đến nỗi «trăm nghìn đổ một trận cười như không»!
Với mấy tiếng dày dày, Nguyễn Du chẳng qua chỉ muốn nói rằng: Đấy, nó «lồ lộ» ra đấy; nó «nồng nỗng» ra đấy, có nhìn thì nhìn. Thúc Sinh đã nhìn, đã ngắm và đã chấm. Chấm là chấm cái tấm thân «mai cốt cách» kia chứ nếu ưa «phốp pháp», «mỡ màng» thì chẳng thà... ôm đại Tú bà còn hơn. Tóm lại, dày dày và cả câu thơ đang xét chẳng qua chỉ là một hình thức uyển ngữ mà thôi.
12. Phan Ngọc viết: «Dò la. La nghĩa gốc ở chữ las Khơme là rõ ràng, sau này vì không đứng một mình nên mất nghĩa. Do đó nó có nghĩa là tìm tòi cặn kẽ» (BPN, tr. 140).
Thực ra, tiếng Khmer las chẳng có liên quan gì đến từ la trong dò la của tiếng Việt vì đó là một từ Khmer gốc Sanskrit bắt nguồn ở căn tố LAS, có nghĩa là lấp lánh, chói lòa, hiện ra. Còn la thì lại là một từ Việt gốc Hán và chính nó là âm Hán Việt hiện đại của chữ 邏 có nghĩa là đi vòng quanh mà quan sát động tĩnh, nghĩa là đi tuần tra. Còn  là âm xưa của chữ du 遊 và du la 遊邏 là... dò la, nghĩa là hai tiếng này đã nằm trong một cấu trúc tiếng Hán sẵn có. Nhưng  trong dò la (xin ghi là dò1) lại ngẫu nhiên có một từ đồng âm là dò trong thăm dò (xin ghi là dò2), cũng là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ , có nghĩa là rình rập, «dò la», mà âm Hán Việt hiện đại cũng là du. Do không nắm vững từ nguyên mà ngày nay người ta hiểu nghĩa của dò trong dò la bằng nghĩa của dò2 trong khi lẽ ra nó phải là dò1. Vì vậy mà dò la không còn là đi vòng quanh đây đó trong phạm vi trách nhiệm để tuần tra mà lại có nghĩa là dòm ngó, rình rập để thu thập những gì cần biết.
13. Đào Duy Anh đã giảng hai tiếng dùi mài trong câu «Ngẩn ngơ trăm nỗi, dùi mài một thân» là «chỉ cái thân đau khổ như bị dùi bị mài» (Bg, tr. 109). Chúng tôi không cho rằng một lời giảng như thế là đúng nhưng dù sao thì nó cũng chưa «tân kỳ» bằng lời giảng có sửa chữa sau đây của Phan Ngọc: «Chỉ cái thân đau khổ như cái dùi bị mài (chúng tôi nhấn mạnh – HT). Chữ dùi mài ở đây theo nghĩa gốc là cái dùi bị mài để làm thành cái kim. Sau này, khi chuyển thành động từ, nó có nghĩa là làm việc kiên nhẫn, không kể khó khăn, vất vả, còn cái gốc bị quên đi» (BPN, tr. 148).
Thành ngữ Trung Hoa có câu ma chữ thành châm (mài cái chày, cái dùi thành cây kim), đồng nghĩa với câu tiếng Việt có công mài sắt, có ngày nên kim, để nói về tác dụng tích cực của sự kiên nhẫn. Tự cổ chí kim, chẳng có ai hiểu đó là cái chày, cái dùi hoặc cục sắt cảm thấy đau đớn vì bị mài mòn thì làm sao có thể nói như Phan Ngọc rằng đó là cái nghĩa gốc đã bị quên đi? Cái «nghĩa» này chẳng qua là do Phan Ngọc sáng tác ra mà thôi. Do đó mà cũng chẳng có chuyện hai tiếng giùi mài (chúng tôi chủ trương viết giùi với gi-) «trở thành động từ» vì tự chúng đã là động từ ngay trong cái cấu trúc ghép đẳng lập đó rồi. Giùi là biến thể tiền kỳ của giồi trong trau giồi; giùi/giồi là đánh cho bóng, mài là chà cho nhẵn. Hai tiếng giùi mài đi chung với nhau để nói lên sự kiên trì và sự mải mê đến nỗi quên hết mọi sự vật chung quanh nhằm tập trung tinh thần cho công việc. Từ đây mới nảy ra cái ý «trơ trọi», «lẻ loi»... và giùi mài một thân, theo chúng tôi, chỉ là «thui thủi một mình», đúng như Nguyễn Quảng Tuân đã giảng.[8]
14. Chữ đồng trong đồng cốt đã được Đào Duy Anh giảng như sau: «Người đệ tử của thần tiên trong Đạo giáo tự xưng là đồng tử của thần tiên nên ngươi ta thường gọi tắt là ông đồng» (Bg, tr. 136). Phan Ngọc chỉ lược bỏ mấy tiếng mà giữ lại gần như nguyên vẹn lời giảng của Đào Duy Anh (xem BPN, tr. 172), nghĩa là ông đã thừa nhận từ nguyên của từ đồng trong đồng cốt do Đào Duy Anh đưa ra.
Rất tiếc rằng sự thật lại không phải như thế vì đồng trong đồng cốt lại có nghĩa gốc là cái kiếng, cái gương. Thật vậy, A. de Rhodes đã ghi nhận và giảng như sau: «Đồng, cái đồngGương, kiếng.Gương. Cùng một nghĩa. Soi đồng: Nhìn vào gương để làm phù chú. Làm đồng, làm cốt: Bà phù thủy nhìn vào gương để làm phù chú. Thầy đồng: Thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính. Mời đồng: Mời những thầy phù thủy sử dụng gương, chiếu kính».[9] Cứ như trên thì các ông đồng, bà đồng đã được gọi theo hoán dụ bằng tên của chính cái công cụ có tính chất đặc trưng mà họ sử dụng để hành nghề. Đặc điểm của nghề đồng bóng còn được phản ánh trong thành ngữ ngồi đồng chiếu kính mà Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị.
Chẳng qua, do đồng (= gương) đã trở thành một từ cổ và do nhiều người cũng không nắm rõ đặc điểm của nghề đồng bóng nên Đào Duy Anh mới đoán rằng đồng là do «đồng tử của thần tiên» mà ra!
15. Phan Ngọc viết: «Gai góc. Góc không phải là cái góc mà do chữ kok Khơme nghĩa là dày đặc, gai dày đặc; vì góc không đứng một mình với nghĩa này nên mất nghĩa, vả lại do hình thức có vẻ như láy âm cho nên gai góc chuyển nghĩa như chông gai» (BPN, tr. 183).
Cách ghi âm của Phan Ngọc về từ có nghĩa là «dày đặc» trong tiếng Khmer (kok) là không thích đáng vì yếu tố cuối âm tiết ở đây là visarga, thể hiện trong văn tự Khmer bằng hai khuyên tròn nhỏ (:). Đó thực chất là một h vô thanh [h]. Nhưng giả sử cách ghi âm của Phan Ngọc có hợp lý thì cái từ có nghĩa là dày đặc đó của tiếng Khmer cũng chẳng có liên quan gì đến từ góc trong gai góc của tiếng Việt như Phan Ngọc đã gán ghép một cách hoàn toàn võ đoán và phi lý.
Góc là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ , có nghĩa là gai hoặc bụi cây gai, mà âm Hán Việt hiện đại là cức. Từ này còn có một nghĩa rộng nữa là góc cạnh (Từ hải: «lăng liêm») và xét theo nghĩa này, chúng tôi ngờ rằng cức có quan hệ về nguồn gốc với giác (= góc) mà âm Hán Việt xưa là góc nhưng âm chính thống hiện đại phải là các/cốc. Nhưng dù sự thật có như thế nào thì gai tronggai góc cũng chỉ có quan hệ từ nguyên với cức chứ không liên quan gì đến cái từ có nghĩa là «dày đặc» kia của tiếng Khmer.
16. Phan Ngọc viết: «Lăn lóc. Lăn là chạy bằng cách chuyển động tròn thân mình, lóc là chữ láy với hậu tố -óc để chỉ sự kéo dài như trằn trọc» (BPN, tr. 258).
Có lẽ vì quá say sưa với các «khuôn dẫn xuất» để tạo từ láy mà Phan Ngọc đã quên – hoặc không hề biết – rằng lóc là một từ độc lập, tất nhiên là có nghĩa cụ thể và riêng biệt mà Huình-Tịnh Paulus Của đã ghi nhận trong Đại Nam quấc âm tự vị và giảng như sau: «Lóc. Lần lần đưa mình tới, chuồi tới (...) Lăn lóc. Và lăn và lóc, chịu khó nhọc ghe đàng». Xin nói thêm rằng đây cũng là từ lóc trong khóc lóc, một từ láy giả hiệu rút ngắn từ thành ngữ khóc lăn khóc lóc dùng để miêu tả việc biểu hiện chữ hiếu bằng cách lăn ra trên mặt đường mà khóc trong đám tang ngày xưa.
Vậy lăn lóc – và cả khóc lóc nữa – không phải là từ láy.
17. Phan Ngọc viết: «Hơi. Gốc ở chữ hôi Khơme là bay ra, tức là cái bay ra từ một vật» (BPN, tr. 226). Rõ là khó tin.
Thực ra, hơi là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 氣, có nghĩa là... hơi, mà âm Hán Việt hiện đại là khí.
Về mối quan hệ h - kh, thì hơi khí cũng giống như:
– hang (hốc) ~ khanh 坑 (= hang);
– (hắt) hủi ~ (trừ) khử 去;
– hiếm (hoi) ~ khiếm 欠 (= thiếu);
– (hiểm) hóc ~ khúc 曲 (quanh co);
– (lỗ) hổng khổng 孔 (= lỗ hổng);...
Còn về mối quan hệ ơi i, thì hơi khí cũng giống như:
– dời (nhà) ~ (thiên) di 移;
– lơi (ra) ~ ly 離(= rời);
– (cơ) ngơi ~ nghi 宜;
– gởi (gắm) ~  寄;
- (ca) ngợi - nghị 議; v.v...
Cuối cùng mối quan hệ thanh 1 ~ thanh 5 giữa hơi và khí chẳng phải là điều gì khó chứng minh nên xin miễn nêu dẫn chứng.
18. Phan Ngọc viết: «Lênh đênh. Chỉ việc trôi trên mặt nước, phiêu giạt. Đênh Khơme là đuổi, đánh. Về cấu tạo từ, xem lã chã» (BPN, tr. 264). Phan Ngọc nhắc đến mục «lã chã» để khẳng định rằng tronglênh đênh thì đênh là «chữ chính ở sau» còn lênh là yếu tố láy trong đó l- là tiền tố còn -ênh là hậu tố, điệp vận của chữ sau (của đênh) để đóng vai trò «hình vị nối liền» (Xem BPN, tr. 252).
Từ đênh của tiếng Khmer thực ra chẳng có phận sự gì ở đây cả vì lênh đênh là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ đôi ghi bằng hai chữ 伶仃, có nghĩa là cô đơn, lẻ loi, không nơi nương tựa, mà âm Hán Việt hiện đại là linh đinh. Về mối quan hệ ênh inh, người ta có hàng loạt thí dụ: bềnh bồng bình bồng; bệnh bịnh; kênh rạch kinh rạch; mênh mông minh mông; hoan nghênh hoan nghinh; ...
19. Phan Ngọc viết: «Lượt. Do chữ Khơme lơc là lần» (BPN, tr. 278).
Thực ra, lượt là một từ Việt gốc Hán bắt nguồn ở một từ ghi bằng chữ 列 mà âm Hán Việt hiện đại làliệt, có nghĩa là thứ tự trên dưới, trước sau trong không gian hoặc trong thời gian. Và mối quan hệ -uơ- - -iê-, người ta cũng có hàng loạt thí dụ:
– (ốc) bươu ~ biêu 贆;
– chườm (nước nóng) ~ triêm 沾;
– chượp (cá ướp để làm nước mắm) ~ triếp 鮿;
– tươm (tất) ~ tiêm (tất) 纖 (悉);
– (đi) tướt ~ tiết 泄;
– trườn (tới) ~ triền 躔 ; ...
20. Phan Ngọc viết: «Ngoài là gốc Bahnar ngoaitrong là gốc Khơme khnong, chứ không phải gốc Hán». (BPN, tr. 335).
Thực ra, ngoai là một từ mà tiếng Bahnar đã mượn của tiếng Việt ngoài, còn ngoài của tiếng Việt chỉ đơn giản là âm xưa của chữ 外 mà âm Hán Việt hiện đại là ngoại. Mối quan hệ ngoài ngoại biểu hiện ở tương ứng thanh 2 - thanh 6, trong đó thanh 2 bao giờ cũng xưa hơn, có thể được chứng minh qua nhiều thí dụ:
– (muôn) loài ~ (chủng) loại;
– (lăng) loàn ~ (lăng) loạn;
– (lõa) lồ ~ (lõa) lộ;
– mồ (mả) ~ mộ (chí);
– (nhu) mì ~ (nhu) mị;
– nề (hà) ~ (câu) nệ;
– (nỗi) niềm ~ (kỷ) niệm;
– (khiêm) nhường ~ (khiêm) nhượng;...
Ngoài ngoại là một tương ứng nằm trong một hệ thống tương ứng chặt chẽ và phong phú như thế thì ta nỡ nào rứt cái từ ngoài ra mà gán cho nó cái nguồn gốc Bahnar.
Còn trong thì cũng không thể nào do tiếng Khmer khnong mà ra được, chỉ đơn giản vì nó là âm xưa của chữ 中 mà âm Hán Việt hiện đại là trung. Mối quan hệ trong ~ trung thể hiện bằng tương ứng -ong -ung cũng có thể được chứng minh bằng hàng loạt thí dụ:
– (hình) dong ~ (hình) dung;
– (lính) dõng ~ (hương) dũng;
– tòng (bách) ~ tùng (bách);
– tòng (thư) ~ tùng (thư);
– (tùy) tòng ~ (tùy) tùng (Trên đây là ba chữ tòng/tùng khác nhau)...
Trong điều kiện của cả một hệ thống tương ứng như trên mà cố tình rứt từ trong ra khỏi đó để gán cho nó cái nguồn gốc Khmer kia thì là hoàn toàn võ đoán.
Trở lên là 20 chỗ sai sót của Phan Ngọc mà chúng tôi đã tạm nhặt ra từ Từ điển truyện Kiều của Đào Duy Anh do ông sửa chữa. Sự lựa chọn của chúng tôi có ý nhắm vào những trường hợp có liên quan đến từ nguyên và từ láy âm, là những lĩnh vực mà trước đây Đào Duy Anh đã không chú ý đến. Ngược lại, Phan Ngọc đã đặc biệt quan tâm đến hai lĩnh vực này nhưng chính tại đây ông đã bộc lộ sở đoản của mình một cách sinh động nhất. Về từ nguyên, BPN có những khuyết điểm như sau:
Một là Phan Ngọc đã không hề quan tâm đến những mối tương ứng ngữ âm có quy luật giữa các từ được so sánh. Thao tác của ông rất đơn giản: ông chỉ cần tìm xem hai từ đồng nghĩa hoặc cận nghĩa trong hai ngôn ngữ được xét có đồng âm hoặc cận âm với nhau hay không. Nếu có thì chúng có quan hệ từ nguyên. Thực ra, đó có thể chỉ là một sự trùng hợp hoàn toàn ngẫu nhiên mà trường hợp của tính từ bad trong tiếng Anh và tính từ bad trong tiếng Iran (đều có nghĩa là xấu) đã trở thành một thí dụ điển hình, mặc dù hai ngôn ngữ này cũng có họ hàng với nhau.
Lại có nhiều trường hợp hai từ đồng nghĩa của hai ngôn ngữ lại cận âm, thậm chí đồng âm với nhau nhưng đó chỉ là do ngôn ngữ này đã vay mượn của ngôn ngữ kia mà thôi. Hiện tượng này rất phổ biến tại Đông Dương là khu vực mà sự đan xen văn hóa và ngôn ngữ rất phức tạp. Ngược lại có nhiều trường hợp mà những từ cùng gốc trong hai ngôn ngữ lại có cách phát âm khác hẳn nhau, chẳng hạn tiếng Pháp évêque và tiếng Bồ Đào Nha bispo đều bắt nguồn từ tiếng La Tinh episcopus (giám mục). Vậy nếu không căn cứ vào những luật đối ứng ngữ âm chặt chẽ khi phân tích về từ nguyên thì kết luận sẽ rất ít có giá trị hoặc hoàn toàn không có.
Hai là Phan Ngọc đã không quan tâm đến lịch sử của ngôn ngữ đang xét – trong đó có lịch sử từ vựng – và lịch sử của tộc người nói ngôn ngữ đó khi tiến hành so sánh nên đã luôn luôn phạm lỗi đem râu ông nọ cắm cằm bà kia như chúng tôi đã phân tích cụ thể ở trên: nhiều từ Khmer gốc Sanskrit đã bị ông cho là cùng gốc với những từ Việt gốc Hán. Chính vì không chú ý đến các lĩnh vực trên đây mà có người đã khẳng định một cách ngộ nghĩnh rằng tiếng Khmer kuj (dương vật) là do tiếng Pháp couille (tinh hoàn) mà ra mặc dù trước lúc tiếp xúc với tiếng Pháp thì người Khmer đã có kuj rồi, vì đây là một từ Khmer gốc Sanskrit bắt nguồn ở từ guhya (còn Pāli là guyha) cũng có nghĩa là... cái đó.
Ba là vì quá hồn nhiên mà Phan Ngọc đã thực hiện «đại trà» cái kiểu khẳng định như sau: «Ai gốc ở từ Brâu côai là người» (BPN, tr. 28); «bạc là gốc từ Khơme piêc là nói» (BPN, tr. 44); «bông từ gốc Mã Lai là bunga» (BPN, tr. 59); «mảng là nghe, gốc ở chữ mảng Mường là nghe» (BPN, tr. 284); «ngoài là gốc Bahnar ngoai» (BPN, tr. 335)... Một cách diễn đạt như thế đã buộc người đọc hiểu rằng ai của tiếng Việt là mượn ở tiếng Brâu; bạc, ở tiếng Khmer; bông, ở tiếng Mã Lai; mảng, ở tiếng Mường còn ngoàithì ở tiếng Bahnar! Điều này trái hẳn với dụng ý của Phan Ngọc là muốn người ta hiểu rằng những cặp từ Việt - Brâu, Việt - Khmer, Việt - Mã Lai, Việt - Mường, Việt - Bahnar trên đây là những cặp từ cùng gốc. Cách diễn đạt đang xét là một cách diễn đạt không được phép vì đó là một lỗi sơ đẳng trong cách diễn đạt từ nguyên học.
Bây giờ xin nói qua về lý thuyết từ láy âm của Phan Ngọc.
Đối với toàn bộ các âm tiết được xem là yếu tố láy, Phan Ngọc đã cho rằng chúng đều gồm có một tiền tố và một hậu tố. Trong từ láy phụ âm đầu, bẽ bàng chẳng hạn, thì bẽ là tiếng chính còn bàng là tiếng láy trong đó b- là tiền tố láy lại âm đầu của tiếng chính và -ang là hậu tố diễn đạt ý nghĩa khái quát chung cho cả khuôn dẫn xuất. Trong tứ láy vần, tần mần chẳng hạn, thì mần là tiếng chính còn tần là tiếng láy trong đó t- là tiền tố diễn đạt ý nghĩa khái quát chung cho cả khuôn dẫn xuất và -ân là hậu tố láy lại vần của tiếng chính. Nhưng nếu đúng như thế thì đâu là thân từ của bàng, của tần, và của toàn bộ những tiếng láy khác? Đã không có thân từ thì căn cứ vào đâu mà phân định tiền tố và hậu tố? Cái lý thuyết Phan Ngọc về tiền tố và hậu tố trong từ láy âm xem ra rất bấp bênh vì chính lý thuyết gia cũng không nắm được những khái niệm mà mình vận dụng. Chúng tôi chưa thấy công trình ngữ học nào mà việc phân định tiền tố và hậu tố lại không lấy thân từ làm căn cứ. Hay là ông Phan Ngọc cũng muốn đi con đường của ông Hồ Lê [10] là lật nhào các khái niệm chuyên môn sẵn có để làm một cuộc đổi đời trong ngữ học?
Đó là điểm thứ nhất.
Điểm thứ hai trong lý thuyết Phan Ngọc về từ láy mà chúng tôi muốn nêu lên là sự khái quát hóa ý nghĩa của các lớp hình thái học được tạo ra bằng phương pháp láy cũng tỏ ra không ổn như chúng tôi đã có lưu ý tại mục 5 ở trên. Phan Ngọc đã nói một cách rất tự tin rằng mỗi lớp hình thái học «có trên 100 từ như thế cùng những nét nghĩa như nhau» (BPN, tr. 49) hoặc «trong tiếng Việt có trên 140 từ như thế và đều được giải thích một cách nhất loạt» (BPN, tr. 22), ... Nhưng mới có năm bảy trường hợp mà Phan Ngọc đã cưỡng ép các từ như bát ngát, bảng lảng phải diễn đạt «tình cảm» rồi thì ai còn dám tin rằng «hàng trăm từ như thế mà lại cùng những nét nghĩa như nhau»! Chúng tôi mạo muội cho rằng phải đi con đường khác nếu muốn phát hiện ra bản chất đích thực của «hiện tượng láy» trong tiếng Việt chứ không thể tiến hành các thao tác mổ xẻ theo kiểu của các ông Tây đối với các «thí vật» bản xứ: tiếng Việt, theo chúng tôi, không có kiểu hình vị nhỏ hơn âm tiết. Người Việt không thể nhìn tiếng Việt bằng con mắt của người châu Âu.
Trở lên là mấy nhận xét tóm tắt về những chỗ yếu của Phan Ngọc trong công việc mà ông đã được nhà văn hóa tên tuổi Đào Duy Anh ủy nhiệm (?) cho thực hiện. Và nếu được phép phát biểu ý kiến cuối cùng thì xin nói thẳng: đối với Từ điển Truyện Kiều, chúng tôi vẫn ái mộ văn bản «chửa sửa» (Bg) chứ không phải văn bản đã «sửa chữa» (BPN).●

* Đăng lần đầu tiên trên tạp chí Thông tin Khoa học & Công nghệ Thừa Thiên Huế, số 4. 1997.
* In lại trong NHỮNG TIẾNG TRỐNG QUA CỬA CÁC NHÀ SẤM, Nxb TRẺ, 2004, trang 369-390.


[1] Trong dẫn chứng, Bg là ký hiệu chỉ bản gốc Từ điển Truyện Kiều của Đào Duy Anh (KHXH, Hà Nội, 1974) còn BPN là bản do Phan Ngọc sửa chữa (KHXH, Hà Nội, 1989).

[2] Truyện Kim Vân Kiều, Nxb. Hải Phòng, 1994, tr.146.

[3] Dẫn theo Phạm Đan Quế, Truyện Kiều đối chiếu, Nxb. Hà Nội, 1991, tr.192.

[4] Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý (chủ biên), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, bản dịch do Lương Duy Thứ chủ biên, Văn hóa thông tin, 1994, tr.132-133.

[5] Ngô Vinh Chính, Vương Miện Quý (chủ biên), Đại cương lịch sử văn hóa Trung Quốc, bản dịch do Lương Duy Thứ chủ biên, Văn hóa thông tin, 1994, tr.132-133.

[6] Việt ngữ nghiên cứu, Văn nghệ, Hà Nội, 1955, tr.130-135 và 142-143.

[7] Xem các nghĩa 1,2,3 của chữ này trong Hán ngữ đại tự điển, Thành Đô, 1993.

[8] Truyện Kiều, khảo đính và chú giải, KHXH, 1995, tr.168.

[9] Bản dịch của Thanh Lãng, Hoàng Xuân Việt, Đỗ Quang Chính, KHXH, 1991.

[10] Liên quan đến Hồ Lê, có thể tham khảo: Anh Hoàng, «Giáo trình ngôn ngữ học đại cương ở bậc đại học và cao đẳng - nhận xét và kiến nghị», Thông tin KH & CN TT-H, số 2.1997, tr.84-90.
Nguồn Facebook An Chi (Huệ Thiên)