Thursday, 5 July 2012
Thuẫn là cái gì?
Thuẫn (盾 ) là cái mộc che đỡ cho người chiến binh. Mâu (矛) là thứ binh khí cán dài, mũi nhọn. Một thứ để đâm, một thứ để đỡ. Vì vậy mà có từ ghép mâu thuẫn chỉ sự trái nghịch nhau. Người miền Nam, nếu không biết thuẫn là cái gì, khi phải viết từ này không có cách nào khác là bỏ dấu cầu may.
Wednesday, 4 July 2012
Tư duy tới hạn là cái quái thai gì?
Từ critical bên tiếng Anh và critique của tiếng Pháp ứng với nhiều từ khác nhau của tiếng Việt. Khi liên quan đến một ngưỡng (giới hạn) giữa hai trạng thái (vật lý), critical được dịch là tới hạn như điểm tới hạn, khối lượng tới hạn, áp suất tới hạn, nhiệt độ tới hạn... mà không là điểm phê phán, khối lượng phê bình, áp suất phản biện... Trong khi đó với các hoạt động trí óc có tính cách phê phán, suy xét thì critical không thể dịch thành tới hạn vì chẳng liên quan đến cái ngưỡng nào cả. Người có đầu óc lành mạnh bình thường chỉ có thể có tư duy phản biện hay tư duy phê phán, tư duy phê bình... Không ai có tư duy tới hạn.
Tuesday, 3 July 2012
Dịch tên Biển Đông sang tiếng Pháp như thế nào?
Biển Đông đương nhiên phải là Mer de l’Est trong tiếng Pháp. Nhưng trong tiếng Pháp, Mer de l’Est có thể là một trong năm biển sau: Mer Morte (Biển Chết), Mer de Chine Orientale (Đông Hải của Trung Quốc), Mer du Japon (Biển Nhật Bản), Mer Baltique (Biển Ban Tích) và Mer de Chine Méridionale (Biển Nam Trung Hoa). Trong ngữ cảnh liên quan đến Việt Nam, Biển Đông chính là Mer de Chine Méridionale. Người Pháp dùng cái tên này do tiếng Trung Quốc là 南中国海 (Nam Trung Quốc Hải), còn gọi là 南海 (Nam Hải). Người Việt ta ngày trước toàn phải học cái tên Nam Hải trong sách địa lý, mãi sau này mới đổi gọi là Biển Đông. Nhưng các anh Tây vẫn cứ lấy Trung Quốc làm chuẩn để ngắm biển, không có lý do gì để ngắm biển từ phía Việt Nam. Một phiên dịch/biên dịch người Tây, nếu không làm việc với các văn kiện hay tình huống liên quan đến nhà nước Việt Nam, có lẽ sẽ dịch Biển Đông thành Mer de Chine Méridionale hay Mer de Chine du Sud. Nhưng ta mà cũng dịch như thế trong hoàn cảnh nào cũng là mất thớ quá.
Monday, 2 July 2012
Tiếng Quảng Đông ơi là tiếng Quảng Đông (An Chi Huệ Thiên)
by An Chi on Friday, June 15, 2012 at 11:01am ·
Bạn đọc : Trong bài “Từ Việt Hán và từ Hoa Hán” (tunguyenhoc.blogspot.com, 28-5- 2012), tác giả Cao Tự Thanh có viết: “Những biến động lịch sử ở Việt Nam còn làm hình thành trong mảng từ Việt Hán những biệt sắc địa phương khác nhau, chẳng hạn người miền Bắc đọc chữ Hán theo Đường âm thế kỷ IX, X thì nói là Hoàng, Phúc, Vũ, Diến Điện còn người miền Nam từ Quảng Nam trở vào chịu ảnh hưởng Minh âm, Thanh âm theo chân các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam qua Đàng Trong tỵ nạn chính trị thế kỷ XVII, XVIII thì nói là Huỳnh, Phước, Võ, Miến Điện.” Xin cho hỏi: Đường âm, Minh âm, Thanh âm ở đây là gì?
(Nguyễn Tác Lạc, TP Vũng Tàu).
An Chi : Về vấn đề mà bạn dẫn ra để hỏi, tác giả Cao Tự Thanh đã chính thức nêu lên cách đây trên 10 năm trong bài “Những yếu tố Hoa trong phương ngữ Nam Bộ” (Tạp chí Hán Nôm số 2(43) năm 2000). Bài trên tunguyenhoc.blogspot.com có lẽ cũng là một bài được “nghiền ngẫm” trong nhiều năm vì ở cuối thấy ghi “1999 – 2007”. Ngoài ra, còn phải nhắc đến bài “Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… với vấn đề «kiêng húy»”, cũng của Cao Tự Thanh, trong đó tác giả đã hùng hồn phê phán những người khác nhưng phần cứ liệu đưa ra để chứng minh cho luận điểm của riêng mình thì hầu như … không có gì.
Chuyên gia họ Cao tỏ ra rất tâm đắc với các khái niệm “Đường âm”, “Minh âm”, “Thanh âm”, nhất là về hai khái niệm sau nhưng có vẻ như cách hiểu của ông thì lại mơ hồ. Trước nhất, xin nhấn mạnh rằng “Đường âm”, “Minh âm”, “Thanh âm” là những cấu trúc gốc Hán “nguyên xi” (đặt theo cú pháp “ngược” của tiếng Hán) chứ nếu theo đúng cú pháp tiếng Việt thì phải là âm (đời) Đường, âm (đời) Minh, âm (đời) Thanh. Trong tiếng Hán thì danh ngữ Đường âm 唐音 có hai nghĩa : 1.- tiếng Hán đời Đường, như trong câu thơ “ Đường âm Phạn âm tương tạp thời” 唐音梵音相雜时 của Tề Kỷ (863 – 937), là một nhà sư sống vào chính đời Đường ; 2.- thơ (đời) Đường. Trong tiếng Nhật, thì Đường âm là cái mà người Nhật gọi là Tō on, tức âm của những chữ Hán mà các nhà sư và nhà buôn người Nhật đem từ Tàu về Nhật vào đời nhà Tống, để phân biệt với Kan on (Hán âm) và Go on (Ngô âm), cũng là hai cách đọc khác nữa của người Nhật đối với chữ Hán vào những thời kỳ khác. Còn cái mà chính chuyên gia họ Cao muốn chỉ bằng hai tiếng “Đường âm” ở đây thì chẳng qua chỉ đơn giản là âm Hán Việt của chữ Hán, mà Nguyễn Tài Cẩn đã minh định như sau:
“ Cách đọc Hán-Việt là một cách đọc vốn bắt nguồn từ hệ thông ngữ âm tiếng Hán đời Đường, mà cụ thể là Đường âm dạy ở Giao Châu vào giai đoạn bao gồm hai thế kỷ VIII, IX.” (Nguồn gốc và quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, tái bản, có sửa chữa và bổ sung, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2000, tr.19).
Hai tiếng “Đường âm” mà Nguyễn Tài Cẩn dùng ở đây dĩ nhiên là để chỉ âm tiếng Hán đời nhà Đường. Trở lại với mấy tiếng “Minh âm”, “Thanh âm” của chuyên gia Cao Tự Thanh, xin nói rằng đây là hai danh ngữ dùng để chỉ hai giai đoạn của tiếng Quan thoại trong quá trình phát triển của nó. Minh âm là hệ thống ngữ âm của tiếng Quan thoại đời Minh, mà người ta cho rằng dáng dấp vẫn còn được bảo lưu trong trên 90% những từ Triều Tiên gốc Hán hiện nay. Còn Thanh âm thì trên đại thể là hệ thống ngữ âm của tiếng Quan thoại đời nhà Thanh, đã chịu ảnh hưởng sâu đậm của ngữ âm tiếng Mãn Châu, ngôn ngữ của những kẻ thống trị, mà Khang Hy là một hoàng đế nổi tiếng về văn hoá. Xem ra, “Minh âm” và “Thanh âm” của chuyên gia họ Cao chẳng trực tiếp có dây mơ rễ má gì với ngôn ngữ của “các di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam qua Đàng Trong tỵ nạn” cả.
Đi vào cụ thể, ta sẽ giật mình thấy rằng ông họ Cao thực sự không biết những chữ mà ông đã nêu thì mấy anh “di thần phản Thanh phục Minh” kia phát âm như thế nào. Âm của mấy anh ba Tàu đó chủ yếu là âm Quảng Đông, rồi đến âm Tiều Châu. Chữ huỳnh 黃 thì mấy chú chệch, thím xẩm người Quảng Đông đọc là woòng, còn người Tiều lại đọc thành en5 thì làm sao cho ra cái âm huỳnh được? Chữ phước 福 thì dân Quảng Đông đọc là phúc (họ bắt chước Đàng Ngoài chăng?) còn dân Tiều Châu lại đọc thành hóc thì làm sao sinh phước cho được? Đến như chữ võ武 thì dân Quảng Đông đọc thành mộu còn dân Tiều thì đọc thành bhu2; cái tai của dân Miền Nam nghe thế nào mà phát âm thành võ?
Tác giả Tầm Hoan cũng có một “phong cách” y hệt như ông Cao Tự Thanh nên nhân tiện cũng xin đem ra nói luôn. Chuyên gia này đã nói liều về tiếng Quảng Đông như sau:
“ Hên xui tức hạnh tai đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông. Hạnh là may, tai là rủi (…) Ké(trong ăn ké, ngủ ké, v.v. – AC) tức ký đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông (…) Xập xí xập ngầu tức thập tứ thập ngũ đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông (…) Xúi tức thôi đọc theo âm Hoa Hán, giọng Quảng Đông (…) Xỉu (trong ngất xỉu – AC) tức hưu đọc theo âm Hoa Hán, có lẽ theo giọng Hoa Nam (…).” (“Một số từ gốc Hoa trong phương ngữ Nam bộ”, Nam bộ xưa & nay, Nxb TPHCM – Tạp chí Xưa & Nay, 1999, tr.344).
Thực ra dân Quảng Đông không phát âm ký 寄 thành ké mà thành kei. Xập xí xập ngầu là âm Triều Châu của thập tứ thập ngũ chứ âm Quảng Đông của bốn tiếng này thì lại là xập xi xập ựng(chính xác là [ŋ] với thanh thượng thấp [đê thượng]). Âm Quảng Đông của chữ thôi 推 là thoei, thanh bình cao (cao bình) chứ không phải “xúi”. Âm Quảng Đông của chữ hưu 休 là yấu (như cách đọc chữ dấu ở Nam Bộ), rất xa với âm “xỉu” của Tầm Hoan; còn âm Triều Châu của nó là hiu. Cuối cùng, âm và nghĩa của hai chữ hạnh tai 幸災 như thế nào thì chúng tôi đã nói rõ trong bài “Từ nguyên của hênh trong hênh xui” (Năng Lượng Mới số 119, ngày 11-5-2012) nên bất tất phải nói lại ở đây.
Tóm lại, cái phong cách nghiên cứu từ nguyên của hai (?) chuyên gia Cao Tự Thanh và Tầm Hoan rất đơn giản: không cần biết âm Quảng Đông của một chữ Hán là gì, chỉ cần vận dụng óc tưởng tượng cũng có thể tìm ra nó. Có người còn tuyên bố rằng hễ muốn tìm từ nguyên của hai tiếngngầu pín thì cứ đi ăn ngầu pín rồi kêu anh chủ tiệm người Tàu viết cho hai chữ “ngầu pín” là xong! Đơn giản thay!
(*) en5 và bhu2 ghi theo Triều Châu âm tự điển của Đạt Phủ và Trương Liên Hàng (Quảng Châu Lữ du xuất bản xã, 1996).
Lại “kiêng húy”! (Cao Tự Thanh)
Lại “kiêng húy”!
Tiên sinh cho em hỏi là chữ Châu – Chu ở tiếng Hán là hai chữ khác nhau mà sao tiếng Việt dùng khi thì Chu khi thì Châu lộn tùng phèo. Em biết là ngày xưa kỵ húy nên đọc trại đi. Riết rồi người ta quen nên thành phương ngữ luôn, giống như Huỳnh – Hoàng, Võ – Vũ, Nghĩa – Ngãi… Nhưng chữ Châu – Chu lại không phải như vậy?
Mới ra Sài Gòn về thì thấy cái này chỗ quick comment, vừa bực mình vừa buồn cười nhưng vì đã hơi say nên chưa tiện trả lời. Trước hết cứ coppy lại cái entry a02 để người hỏi xem đã, rồi sẽ nói rõ vụ Châu – Chu.
_____
Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… với vấn đề “kiêng húy”
Trước nay, không ít người vẫn coi hiện tượng các từ Việt Hán có hai âm đọc song vẫn không thay đổi ý nghĩa từ vựng và chức năng ngữ pháp như Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… là kết quả của việc kiêng húy các vua chúa phong kiến. Đáng tiếc là đến nay quan niệm sai lầm ấy vẫn được nhiều trí thức trong đó có cả một số nhà ngôn ngữ học chính thức thừa nhận và công khai phổ biến. Cho nên cần phải có một sự đính chính trước khi người ta kéo nhau đi tìm tên vợ con và bà con nội ngoại của các vua chúa để giải thích bằng được và bằng hết những Cương – Cang, Cảnh – Kiểng, Chính – Chánh hay Uy – Oai, Tiến – Tấn, Tùng – Tòng…
_____
Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… với vấn đề “kiêng húy”
Trước nay, không ít người vẫn coi hiện tượng các từ Việt Hán có hai âm đọc song vẫn không thay đổi ý nghĩa từ vựng và chức năng ngữ pháp như Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… là kết quả của việc kiêng húy các vua chúa phong kiến. Đáng tiếc là đến nay quan niệm sai lầm ấy vẫn được nhiều trí thức trong đó có cả một số nhà ngôn ngữ học chính thức thừa nhận và công khai phổ biến. Cho nên cần phải có một sự đính chính trước khi người ta kéo nhau đi tìm tên vợ con và bà con nội ngoại của các vua chúa để giải thích bằng được và bằng hết những Cương – Cang, Cảnh – Kiểng, Chính – Chánh hay Uy – Oai, Tiến – Tấn, Tùng – Tòng…
Nếu thống kê chi tiết toàn bộ những An – Yên, Bách – Bá, Càn – Kiền, Chân – Chơn, Dũng – Dõng, Đương – Đang, Giới – Giái, Hợp – Hiệp, Khỉ – Khởi, Lã – Lữ, Mệnh – Mạng, Nhật – Nhựt, Trường – Tràng, Thịnh – Thạnh, Súy – Soái, Vũ – Võ…, thì con số các từ Việt Hán bị đọc chệch âm nói trên sẽ vượt xa tất cả đồng thời chẳng có gì ăn khớp với những cái tên vua chúa Việt Nam (chẳng hạn gần đây có người cho rằng vì kiêng húy các chúa Trịnh Tùng, Trịnh Cương nên dân Việt ở miền Bắc đọc Tùng, Cương ra Tòng, Cang như tam tòng, tam cang (1), song người ta không hiểu vì sao hai ông chúa ấy lại cứ để yên cho thiên hạ lếu láo đọc tên Trịnh Kiểm là Kiểm không có chút gì là kiêng húy…). Thứ nữa, quan sát địa bàn phân bố của các cặp âm bị đọc chệch ấy qua chứng cứ lịch sử là các địa danh Việt Nam, có thể thấy rằng phần lớn những Phúc Yên, Vĩnh Phúc, Thái Lai, Nghĩa Xá là ở miền Bắc còn Phước An, Bình Phước, Tân Thới, Quảng Ngãi là ở miền Nam, điều này cho thấy đây là sản phẩm của một tiến trình lịch sử. Sau cùng, sự chệch âm ở nhiều cặp vần loại Chính – Chánh, Đỉnh – Đảnh, Lĩnh – Lãnh, Sinh – Sanh (Anh = Inh), Du – Do, Phù – Phò, Vũ – Võ (O = U) hay Uy – Oai, Súy – Soái, Thụy – Thoại (Oai = Uy)… lại mang tính hệ thống khác hẳn việc kiêng húy vài ba cái tên vua chúa lẻ tẻ, tình hình này chỉ có thể là kết quả của các quy luật ngữ âm. Tóm lại, hiện tượng đọc chệch hay nói chính xác là chuyển âm nói trên không thuộc về phạm trù sở thích tự trọng lố lăng của các vua chúa ngày trước và nhiệt tình tôn quân lạc lõng của các nhà Kiêng Húy học hiện đại, mà là một vấn đề ngôn ngữ học trên hai phương diện phương ngữ và ngữ âm.
Thời Bắc thuộc, dân Việt học chữ Hán như một sinh ngữ, nghĩa là phải đọc đúng theo cách phát âm (âm chuẩn) đương đại ở Trung Hoa. Nhưng từ khi nước ta giành được độc lập thế kỷ X trở đi, cách đọc ấy đã bị tách rời với những thay đổi ngữ âm ở Trung Quốc. Cái ranh giới Việt Hán – Hoa Hán trên lãnh vực này dần dần xuất hiện và định hình: về cơ bản người Việt vẫn bảo lưu cách đọc thời Đường (Đường âm) trong khi qua các thời Tống Nguyên Minh Thanh người Trung Quốc đã lần lượt trải qua nhiều cách đọc khác. Chẳng hạn vào khoảng cuối Minh đầu Thanh, ngôn ngữ Trung Quốc đã bắt đầu mất phụ âm đầu D khiến Dân (nhân dân), Diểu (xa) chuyển thành Mín, Miểu hay hiện nay thì nó đã hoàn toàn mất phụ âm đầu Đ để Đả (đánh), Đông (phía đông) trở thành Tả, Tung đẩy một bộ phận lớn những Tiểu (nhỏ), Tịch (chiều tối) qua dãy phụ âm đầu X như Xẻo, Xi song người Việt vẫn đọc là Dân, Diểu, Đả, Đông, Tiểu, Tịch… như thường. Cố nhiên sự thay đổi nói trên không diễn ra một cách đồng bộ và thống nhất ở Trung Quốc, chẳng hạn khi tiếng Bắc Kinh – Quan thoại hiện nay đã mất hẳn phụ âm cuối -m để Điểm tâm (Ăn sáng) chuyển thành Tẻn xin, thì người Quảng Đông vẫn nói là Tỉm xắm, hay họ nói Tài xỉu (Đại tiểu = lớn nhỏ) chứ không phải là Ta xẻo, tóm lại có thể tìm thấy vô số khác biệt tương tự giữa tiếng Bắc Kinh – Quan thoại với các phương ngữ ở Hải Nam, Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu mà ở đây tạm gọi là nhóm phương ngữ Hoa Nam. Và nếu nhớ lại tình hình chia cắt đất nước thế kỷ XVII-XVIII đã làm tiếng Việt ở Đàng Trong – Đàng Ngoài phát triển khác nhau một cách đáng kể, nếu nhớ lại thực tế đa dân tộc ở thương cảng Hội An đã làm hình thành ở đây một thứ ngôn ngữ lai pha trộn cả tiếng Việt lẫn các phương ngữ Hoa Nam (2), nếu nhớ lại sự kiện nhóm di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam do Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch cầm đầu tới tỵ nạn chính trị được cho vào khai phá Biên Hòa, Mỹ Tho cuối thế kỷ XVII, nếu nhớ lại việc Tao đàn Chiêu Anh Các ở Hà Tiên thu hút nhiều văn nhân Hoa Nam tới ngâm vịnh xướng họa đầu thế kỷ XVIII…, người ta sẽ thấy ở đây một đợt tiếp xúc ngôn ngữ Việt Hoa có quy mô và phạm vi rộng lớn, có thể nói là quan trọng bậc nhất sau khi người Việt giành được độc lập thế kỷ X. Đây mới thực sự là lý do làm phát sinh hệ thống những Huỳnh, Phước, Võ… trong cách đọc Việt Hán ở Đàng Trong mà đặc biệt là trên địa bàn từ Quảng Nam tới Nam Bộ, cách đọc chịu ảnh hưởng Minh âm, Thanh âm qua trung gian là nhóm phương ngữ Hoa Nam. Quá trình tiếp thu, cải biến, chấp nhận… những cách đọc mới này của người Việt nhìn chung rất phức tạp, vì từ thế kỷ XIX trở đi thì việc đất nước được thống nhất trở lại đã xóa bỏ đi phần nào những khác biệt ngôn ngữ trước đó, mặt khác ngay trong nhóm phương ngữ Hoa Nam cũng có những khác biệt dẫn tới sự đấu tranh với nhau đ
ể giành ảnh hưởng một cách tự phát trên địa bàn nói trên. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng trong đợt tiếp xúc ngôn ngữ này người Việt hoàn toàn bình đẳng về chính trị và văn hóa với Trung Hoa, nên ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt, toàn bộ sự chuyển âm nói trên chỉ diễn ra trong khuôn khổ ngữ âm vốn có của các từ Việt Hán. Chẳng hạn hệ thống phụ âm đầu Việt Hán vẫn được giữ vững, nó đẩy những Mín, Miểu, Tả, Tung, Xỉu, Xi trở lại mảng từ Hoa Hán du nhập theo con đường khẩu ngữ, và ngay mảng từ ấy cũng phải Việt hóa theo ngữ pháp Việt như nhỏ xíu (Xíu = Tiểu = nhỏ), đồ xịn (Xịn = Tân = mới) mới bước được vào ngôn ngữ Việt Nam ở địa phương.
ể giành ảnh hưởng một cách tự phát trên địa bàn nói trên. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng trong đợt tiếp xúc ngôn ngữ này người Việt hoàn toàn bình đẳng về chính trị và văn hóa với Trung Hoa, nên ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt, toàn bộ sự chuyển âm nói trên chỉ diễn ra trong khuôn khổ ngữ âm vốn có của các từ Việt Hán. Chẳng hạn hệ thống phụ âm đầu Việt Hán vẫn được giữ vững, nó đẩy những Mín, Miểu, Tả, Tung, Xỉu, Xi trở lại mảng từ Hoa Hán du nhập theo con đường khẩu ngữ, và ngay mảng từ ấy cũng phải Việt hóa theo ngữ pháp Việt như nhỏ xíu (Xíu = Tiểu = nhỏ), đồ xịn (Xịn = Tân = mới) mới bước được vào ngôn ngữ Việt Nam ở địa phương.
Điều đáng phàn nàn là nhiều trong các trí thức coi Huỳnh, Phước, Võ… là “kiêng húy” hiện nay đã không biết chữ Hán mà lại không chịu tìm hiểu cả lịch sử việc kiêng húy nên cứ suy diễn rồi phát ngôn không cần địa chỉ nếu không nói là vô trách nhiệm! Thứ nhất, Hán tự có nhiều chữ hoàng, phúc, vũ… và không phải chữ nào cũng chuyển âm thành huỳnh, phước, võ…, chẳng hạn không ai nói kinh hoàng, thần Thành hoàng thành kinh huỳnh, thần Thành huỳnh cả, mà chữ bị đọc chệch âm ra huỳnh (họ Huỳnh) là chữ hoàng (vàng) lại không phải là tên Nguyễn Hoàng – tên ông Thái tổ của nhà Nguyễn này là hoàng (vàng) + chấm thủy. Thứ hai, đã gọi là húy vua chúa thì dân đen có thể vì muốn làm giặc nên không thèm kiêng, chứ quan lại hay đám kẻ sĩ toan làm quan lại thì nhất định phải kiêng cho sáng đạo cương thường, thế nhưng đầu thế kỷ XVIII Đô đốc Hà Tiên Mạc Thiên Tích vẫn hiên ngang đặt tên con trưởng của mình là Mạc Tử Hoàng với chữ hoàng (vàng) + chấm thủy hiện vẫn còn trên bia mộ Mạc Tử Hoàng ở núi Lăng, Hà Tiên: rõ ràng dân Việt Nam ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII chẳng phải kiêng húy tên vua chúa nào cả. Thứ ba, đã gọi là chữ húy thì hoặc là không được dùng, tức không được viết ra (đối với chữ trọng húy) hoặc là phải viết thêm nét bớt nét đổi nét, thế nhưng mấy trăm năm nay dân Việt ở miền Nam vẫn viết Hoàng, Phúc, Vũ… như người miền Bắc hay người Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và viết khắp nơi, vậy việc họ đọc chúng là Huỳnh, Phước, Võ… chỉ là vấn đề ngữ âm. Thứ tư, là triều nào húy nấy, chẳng hạn anh em Thái Đức – Quang Trung không hơi đâu kiêng húy các chúa Nguyễn còn cha con Gia Long – Minh Mạng chẳng ngu gì kiêng húy các vua Lê chúa Trịnh, nếu thần dân nào cứng cổ kiêng húy không hợp thời thì giữ cho còn nguyên được đầu cũng đã khó chứ đừng nói tới chuyện rủ rê quần chúng cùng kiêng. Thứ năm, đã gọi là “quốc húy” thì phải có thông báo bằng văn bản cụ thể theo đúng thủ tục hành chính và có hiệu lực pháp lý hẳn hoi cho dân biết dân làm, không phải chuyện bí mật quốc gia hay hoạt động bí mật để thông báo nội bộ hay rỉ tai nhau trong giới quan lại mà kiêng húy. Và riêng dân Nam Bộ thì đến 1861 có nhận được chỉ dụ cuối cùng của Tự Đức phổ biến về 47 chữ “quốc húy” (từ 1862 – 1867 Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm làm thuộc địa rồi), trong đó có 20 chữ đã được Minh Mạng thông báo trong chỉ dụ kiêng húy vào loại đầu tiên của triều Nguyễn năm 1825. Ai muốn biết rõ về 47 chữ ấy xin cứ tìm bộ Đại Nam Thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn mà đọc, xem có những Hoàng (vàng), Phúc, Vũ, Cảnh, Cương, Chính… và hàng trăm chữ khác mà các nhà Kiêng Húy học trước nay vẫn gán bừa cho tổ tiên ta không.
Đi tìm lai lịch cụ thể của từng âm Việt Hán đọc chệch so với Đường âm là một công việc phức tạp, nếu chưa định hướng được thì đừng nên thao tác. Chẳng hạn nhiều người Nam Bộ trước đây vẫn đọc Hớn Cao tổ, Hớn Sở tranh hùng chứ không đọc là Hán Cao tổ, Hán Sở tranh hùng, mà việc chuyển An – Ơn như San – Sơn, Đàn – Đờn thì lại chưa đủ để coi là có hệ thống. Nhưng vì ngữ âm Nam Bộ vẫn nhất hóa cặp phụ âm cuối -n, -t vào với cặp -ng, -c (như ran rát nói là rang rác) – với lối phát âm ấy mà đọc phò Hán, hảo hán thì nghe kỳ quá nên người ta phải chuyển âm để kiêng một sự húy trong đời thường đấy, các học giả thích kiêng húy vua chúa đừng đi tìm ở cái “quốc húy” nào đó trong cung đình cho mất công!
Tháng 11. 1993
(1) Xem Phan Trọng Hiền, Tên húy và việc phạm húy, báo Phụ nữ Thànn phố Hồ Chí Minh số ra ngày 20. 11. 1993. Tuy nhiên đây rõ ràng là một sự suy diễn khiên cưỡng, vô căn cứ và rất tùy tiện. Thứ nhất, hiện tượng đọc chệch Tùng, Cương ra Tòng, Cang kia chủ yếu xảy ra ở miền Nam chứ không phải ở miền Bắc. Thứ hai, chẳng có bằng chứng lịch sử dù là gián tiếp hay nhỏ mọn nào cho phép nghĩ rằng vào thế kỷ XVI – XVIII thần dân của triều Lê trung hưng bị bắt buộc phải kiêng húy các chúa Trịnh: ngay cả các bộ chính sử được biên soạn bởi các sử thần của Lê Trịnh cũng viết thẳng tên các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm trở đi, chứ chẳng hề tỏ ra tôn kính đặc biệt gì các chữ ấy trên văn bản cả. Thứ ba, tác giả của phát hiện độc đáo nói trên dường như không biết cả chữ Hán lẫn quy ước trong gia tộc họ Trịnh, nên đã đánh đồng tên Trịnh Tùng với Tòng trong tam tòng và tên Trịnh Cương vớiCang trong tam cang, chứ thật ra tên hai ông chúa này được viết với bộ mộc. Nếu đọc Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, người ta sẽ thấy ngay tất cả các chúa Trịnh đều có tên viết với bộ mộc và tất cả các chúa Nguyễn đều có tên viết với bộchấm thủy. (2) Xem thêm Hoàng Thị Châu, bài trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr
. 161 – 166
_____
. 161 – 166
_____
朱珠周洲舟
Trong Hán tự có cả chục chữ có âm đọc là chu – châu, ở đây chỉ nói về vài chữ thường đọc là châu nhất ở Việt Nam. Năm chữ nói trên theo thứ tự là chu (màu đỏ) bị đọc chệch như châu bản, chu (ngọc) bị đọc chệch như châu báu, chu (chung quanh) đọc là châu như châu vi, Châu Thành, chu (cù lao, bãi đất) đọc là châu như châu thổ, Á Châu và chu (thuyền) đọc là châu như châu tiếp (thuyền và mái chèo).
Tất cả những từ (chữ) có thanh bằng trong chữ Hán ở Trung Quốc được chia xếp vào ba mươi bộ vần Bình thanh, 15 bộ Thượng bình thanh, 15 bộ Hạ bình thanh.Chữ chu 1, chu 2 thuộc vần Thất ngu, phải đọc là chu, chu 3 và chu 4, chu 5 thuộc vần Thập nhất vưu, phải đọc là châu/chưu. Cơ chế lẫn lộn ở đây rất phức tạp, nhưng đại thể có thể nói thế này:
1. Nếu lấy độ tròn môi làm tiêu chí, thì khi phát âm những âm như thu, xu, vu chúng ta tròn môi nhiều nhất, kế tới những âm như âu, lâu, ngâu, sau cùng là những âm như lưu, mưu, sưu. Tức là những âm loại âu lâu ngâu nằm giữa, có thể bị lệch về hai phía, và ngược lại, các âm u, ưu đều rất dễ bị đồng hóa thành âu. Nhưng trong phương ngữ Bắc thì cũng chỉ đến thế, chứ gần như không có chuyện ưu thành u hay ngược lại, ví dụ Ngưu lang có thể thành Ngâu lang nhưng không thể thành Ngu lang, Chu bản có thể thành Châu bản chứ không thể thành Chưu bản.
2. Tuy nhiên sự khác biệt trong phát âm theo phương ngữ lại góp phần làm phức tạp thêm sự lẫn lộn nói trên. Ví dụ phương ngữ Bắc có khuynh hướng bảo lưu tiếp hợp chặt nên hay kéo ưu thành iêu như mưu mô thành miêu mô, bảo lưu thành bảo liêu, còn phương ngữ Nam có khuynh hướng giải tiếp hợp chặt thì hay giản hóa thành mu mô, bảo lu (nói rộng ra thì những hiện tượng con hu – hươu, uống rụ – rượu trong phương ngữ Nam cũng chính là sản phẩm của khuynh hướng phát âm này).
3. Một yếu tố khác không thể bỏ qua là thói quen. Ví dụ từ Việt Hán không có vần im, mảng từ thuần Việt mới có vần này, nhưng chúng ta vẫn quen đọc Kim mộc thủy hỏa thổ chứ không đọc là câm mộc… Chính yếu tố xã hội này đã khiến các trí thức biết chữ Hán phải bất lực trước nhiều sai lầm của số đông trong việc phát âm và thậm chí cả sử dụng các từ Việt Hán từ xưa đến nay.
4. Đã nói tới thói quen thì cũng không thể loại trừ yếu tố ngẫu nhiên. Ai họcLuận ngữ cũng biết câu Khổng Tử than thở “Ta chưa thấy ai hiếu đức như hiếu sắc”, chữ hiếu này viết với mã chữ Hán là hảo (đẹp), nhưng khi dùng làm động từ (lấy làm đẹp, ưa thích) thì đọc là hiếu (phương ngữ Nam còn đọc là háo), xưa nay ai học Luận ngữ cũng đọc như thế cả. Tương tự, tiêu dao có khi đọc là tiêu diêu, mà ao và iêu có bộ vị phát âm xa nhau chứ không gần như u – âu – ưu, nên không thể loại trừ khả năng trong từ Việt Hán cũng như thuần Việt vẫn tồn tại những âm đọc cổ xưa ngẫu nhiên còn rơi rớt lại mặc dù tuyệt đại đa số những âm cùng hệ thống đã thay đổi. Các trường hợp như nguyệt (tháng) đọc là ngoạt, thuyết (nói) đọc là thốt, hoàn (viên), hoàn (trở lại) đọc là hườn hay huờn chính thuộc loại này.
5. Tên chúa Nguyễn Phước Châu là chữ châu 3 có thêm bộ chấm thủy, chữ nảy ít thấy trong các từ điển từ thư Trung Quốc, không rõ phiên âm thế nào, nhưng có lẽ âm chính là châu và bị nhà Nguyễn coi là chữ trọng húy nên phải đọc chệch thành chu, vì thế nên làm “liên lụy” tới cả chữ châu 3 có tự hình gần giống.
_____
_____
Nói thêm về bộ vần (vận bộ). Các từ điển Hoa Hán sau 1949 gần như hoàn toàn không đề cập tới vấn đề này, các tác giả từ điển Hán Việt ở Việt Nam từ Đào Duy Anh trở đi cũng thế, nên trong nhiều trường hợp không giúp được người đọc phân biệt chính xác đâu là chính âm và đâu là biến âm của một chữ. Ví dụ chu 1 và chu 2 thuộc vần Thất ngu thì chính âm là chu, đọc châu là biến âm, nhưng ngày xưa đi thi làm thơ nếu đề ra buộc phải làm với bộ vần Thập nhất vưu mà gieo vần bằng những chữ này là lạc vận, thơ có hay cũng bị đánh rớt.
Trước cũng nghĩ tới khả năng chệch âm kiểu thọ – thụ là theo bộ vần, vì thụ (cây) có khi đọc là thọ, nhưng thọ (sống lâu) không bao giờ đọc là thụ, vì hai chữ này thuộc hai bộ vần khác nhau. Có điều khảo sát sâu hơn thì lại không chỉ như thế, vì bảo trong bảo vệ và bảo trong bảo vật cùng vần hạo, nhưng bảo trong bảo vật có khi đọc là bửu, như bửu bối bửu kiếm vân vân, chứ không ai đọc bửu vệ bửu trì cả. Cho nên đành phải tính thêm yếu tố thói quen, mà yếu tố này có khi bắt đầu từ sự ngẫu nhiên…
Đúng là bể học không có bờ!
Tháng 12. 2008
Khắt khe hay khắc khe?
Khắt khe có nghĩa là quá nghiêm khắc, chặt chẽ... (Nguyễn Kim Thản, 2005:832). Một số người Nam Bộ thường viết nhầm thành khắc khe vừa do liên tưởng đến từ nghiêm khắc, vừa do âm /k/ cuối âm tiết thường được thể hiện bằng chữ c. Đây là lỗi chính tả rất phổ biến ở người ít học, không phân biệt được khi nào viết c, khi nào viết t, nhất là khi họ không hiểu được nghĩa của từ (biến sơ lược thành sơ lượt chẳng hạn)
Sunday, 1 July 2012
Phát hiện của ai? (Quách Hiền)
Thursday, June 21, 2012
Phát hiện của ai?
Vì comment của một bác nhắc nhở phía dưới (cảm ơn bác “nặc danh” lần nữa), nên mới nhớ ra cần ghi lại một nỗi băn khoăn. Trong cuốn Nhìn lại sử Việt (từ tiền sử đến tự chủ), Lê Mạnh Hùng có nhắc đến công trình nghiên cứu của Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc (năm 1971) chứng minh “lạc” trong thư tịch Trung Quốc viết về nước ta là một phiên âm “rạc” (rặc) mà theo tiếng cổ và tiếng Mường có nghĩa là “nước”. Bài viết của PGS Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc đã in trong cuốn Hùng Vương dựng nước, (tập 4. NXBKHXH, 1974). Quan điểm này nhiều lần đã được các nhà nghiên cứu ngôn ngữ thế hệ sau trích dẫn lại như trường hợp ông Tạ Đức với bài này; hoặc phát huy mở rộng quan điểm như trường hợp ông Vũ Thế Ngọc ở trong bài này chẳng hạn.
Tuy nhiên, tình cờ đọc bài này, tôi thật băn khoăn quá đỗi, ông Kiều Thu Hoạch viết: “Bài viết của chúng tôi đã ghi cả bốn chữ mà ta đều đọc là lạc: 鵅B 駱, 雒, 貉 (với các bộ thủ: điểu, mã, chuy, trãi). Theo tra cứu của chúng tôi, thì bốn chữ này đều là ghi âm Hán của từ Việt cổ (rác, đrác, đác) còn thấy trong tiếng Mường, chỉ nước.”
Rốt cục “lạc” với nghĩa là "nước" theo tiếng Mường là phát hiện của ai? Của ông Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc (từ năm 1971) (đã được nhiều người công nhận) hay là “theo sự tra cứu của chúng tôi” của ông Kiều Thu Hoạch? “Theo tra cứu của chúng tôi” là một cụm từ rất mơ hồ. Nếu ai chưa từng đọc Nguyễn Kim Thản và Vương Lộc, hoặc chưa đọc bất cứ một bài viết nào liên quan, chỉ đọc bài viết trên của ông Kiều Thu Hoạch sẽ lầm tưởng rằng ông Kiều Thu Hoạch là người đầu tiên phát hiện ra điều đó.
Nhân tiện trong bài viết trên, ông Kiều Thu Hoạch còn có một nhầm lẫn nhỏ. Ông viết “Lạc bộ mã 駱 là ngựa trắng bờm đen. Lạc bộ chuy 雒 là ngựa đen bờm trắng. Hai chữ này đều là chữ Kinh Thi (thiên Lỗ tụng), đều không hề có nghĩa chỉ loài chim, như cụ Đào [Đào Duy Anh] giải thích”. Trường hợp駱 này thì tôi không bình luận, nhưng với trường hợp雒 này, ông Kiều Thu Hoạch nhầm. 雒 đúng là có thể dùng thông với 駱 với nghĩa ngựa đen bờm trắng như ông Kiều Thu Hoạch đã nói. Nhưng 雒 theo Thuyết văn giải tự thì có nghĩa là tên một loài chim: “雒,鵋鶀也。怪鸱” , 鵋鶀 là một loại chim thuộc cú mèo (quái si), còn gọi là miêu đầu ưng (Tham khảo thêm các trích dẫn khác về 雒 với nghĩa là một loại chim trong bài viết của ông Vũ Thế Ngọc đã dẫn link ở trên). Tuy nhiên, điều tôi rất rất rất rất thắc mắc là cụ Đào Duy Anh đã dựa trên cơ sở nào để giải thích 雒 vốn là một loại hậu điểu 候鳥 (một loài chim có đặc tính di cư giống như chim nhạn, chim én) ở Giang Nam? 鸱và 候鳥là khác nhau. Vì thế quan điểm của cụ Đào Duy Anh: “Lạc chính là tên vật tổ, tức loài chim hậu điểu mà chúng ta thấy hình dung trên trống đồng Ngọc Lũ” rõ ràng là thiếu thuyết phục.
Lạc= Rác/dak/nác=nước?
Subscribe to:
Posts (Atom)