Đặng Thai Mai - Hiệu trưởng đầu tiên của ĐH Sư phạm Hà Nội
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Giáo sư Đặng Thai Mai đã trải qua nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng công việc ông làm lâu hơn cả là giáo dục.
Tượng chân dung GS Đặng Thai Mai tại trường Đại học Sư phạm Hà Nội.
Giáo sư Đặng Thai Mai sinh ngày 24/12/1902 tại làng Lương Điền (nay thuộc xã Thanh Xuân), huyện Thanh Chương, tỉnh Nghệ An. Xuất thân từ một gia đình yêu nước, Đặng Thai Mai đã sớm trải qua thử thách khắc nghiệt của số phận: mới lên 6 tuổi đã phải theo bà nội và mẹ xuống trại giam Hà Tĩnh thăm bố; cái trại giam tồi tàn này không cách xa bao nhiêu dinh Đốc học quen thuộc mà trước đó không lâu cậu đã sống với bố là Phó bảng Đặng Nguyên Cẩn, quyền Đốc học Hà Tĩnh. Nhân việc đàn áp phong trào chống thuế ở Trung Kỳ (1908), chính quyền thực dân Pháp bắt Đặng Nguyên Cẩn (lúc đó đang làm Đốc học tỉnh Bình Thuận) giải ra Hà Tĩnh, kết án tù chung thân về tội “mưu phản bằng cách truyền bá tân học”.
Năm Đặng Thai Mai 12 tuổi thì ông nội đã 75 tuổi, vì tội ủng hộ Việt Nam Quang phục hội, phải đi tù 3 năm, trở về nhà được 10 ngày thì mất. Đó là cử nhân Đặng Thai Giai, khi đang làm Tri huyện Yên Định thì các quan tỉnh Thanh Hóa mở cửa thành quy hàng quân Pháp, ông liền bỏ quan về quê.
Trong cảnh chia ly nhà tan nước mất đó, may còn có bà nội, một người phụ nữ kiên cường, ra sức chèo chống. Đối với Đặng Thai Mai, bà nội vừa là mẹ vừa là thầy học. Bà đã tổ chức lớp học tại nhà, tìm thầy dạy cho cháu học theo chương trình giáo dục duy tân của Đông Kinh nghĩa thục, đặc biệt, bà luôn giáo dục cháu phải can đảm, cứng cỏi trong cuộc sống. Chính bà đã nêu gương cho cháu việc điềm tĩnh “đấu lý” với “các vị khách không mời mà đến” như các hào lý, bang biện, Tây đồn… thường đến nhà tra vấn, hoạnh họe, dọa dẫm.
Chủ tịch Viện Khoa học Trung Quốc Quách Mạt Nhược tiếp GS Đặng Thai Mai tại Đại lễ đường Nhân dân, Bắc Kinh, ngày 24/6/1963.
Hoàn cảnh đặc biệt đó của gia đình, cộng với truyền thống hiếu học của quê hương Nghệ - Tĩnh, lại có tư chất thông minh và trí nhớ phi thường, Đặng Thai Mai ngay từ tuổi thiếu niên đã tỏ ra xuất sắc trong học tập. Sau khi đã đọc hết các sách quốc ngữ của thư viện gia đình khá phong phú mà ông nội đặt tên là “Tam thai sơn phòng tàng thư”, Đặng Thai Mai mon men đến tủ sách chữ Hán và ngạc nhiên tự nhận thấy sau 5 năm dùi mài Luận ngữ, Mạnh Tử… đã có thể đọc trót lọt các truyện Trung Quốc như Tam quốc, Thủy hử, Thuyết Đường… rồi lân la đọc đến tân thư của các tên tuổi mới lạ rất nổi tiếng ở nước ta thời đó như Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu…
Từ năm 1915 đến năm 1928, Đặng Thai Mai từ giã lớp học tại gia ở quê nhà hẻo lánh để lần lượt vào học các trường công: Tiểu học Vinh, Cao đẳng Tiểu học Vinh, Cao đẳng Sư phạm Đông Dương Hà Nội. Một chân trời mới dần dần mở rộng trước mắt Đặng Thai Mai: chân trời mới về kiến thức văn hóa và về kinh nghiệm trường đời. May mắn là ông đã gặp được những thầy giáo uyên bác, mô phạm như Lê Thước, Lê Ấm, Lâm Quang Thọ, Bùi Kỷ…, truyền thụ cho ông lòng yêu quý văn chương dân tộc và say mê văn học phương Tây, trước hết là văn học Pháp.
Về sau, khi đã trưởng thành, ông thường phê phán nhà trường Pháp - Việt chỉ nhằm đào tạo những kẻ thừa hành thụ động nhưng ông vẫn biểu lộ sự hàm ơn sâu sắc đối với một số giáo sư người Pháp ở trường Cao đẳng Sư phạm Hà Nội như Giáo sư Milon, Giáo sư Houlié đã dạy cho ông phương pháp phân tích một tác phẩm văn học và khơi gợi cho ông những hướng tìm tòi, nghiên cứu mới. Ông cũng gặp được nhiều bạn bè tốt như Nguyễn Sĩ Sách, Trần Phú, Trần Mộng Bạch, Tôn Quang Phiệt, Hồ Tùng Mậu, Đào Duy Anh, Phạm Thiều, Ca Văn Thỉnh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… Ông cũng được tiếp xúc với một vài nhà cách mạng tiền bối thuộc hàng cha chú như Ngô Đức Kế, Lê Văn Huân.
Những năm ông theo học Cao đẳng Sư phạm (1925-1928) thì Hà Nội đang sôi nổi các phong trào đấu tranh đòi ân xá Phan Bội Châu, để tang Phan Chu Trinh. Ông đã tham gia thành lập hội Phục Việt, sau đổi là Tân Việt cách mạng. Tân Việt tan vỡ, ông bị kết án một năm tù treo.
Một học sinh, sau này là GS Trần Đình Gián, kể lại: “Thầy Mai mãi mãi để lại trong tôi một kỷ niệm sâu sắc. Một buổi sáng ở trường Quốc học Huế, thầy giảng bài thì mật thám ập đến bắt. Thầy chỉ gật đầu chào chúng tôi, rồi vẫn với phong thái nghiêm nghị thường ngày, thầy bước lên xe của mật thám”.
Từ phải qua: Đặng Thai Mai, Hoài Thanh, Cao Xuân Huy.
Một học sinh khác, Vũ Thuần Nho, sau này trở thành Thứ trưởng Bộ Giáo dục, nhớ lại: “Năm học 1930-1931, tôi học môn Việt văn với thầy Mai của trường Quốc học Huế. Suốt đời tôi không bao giờ quên bài luận của thầy. Đề tài về câu ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn”.
Anh em chúng tôi trong lớp, những người đã vào Hội học sinh đỏ, đều thấu hiểu thầy muốn gợi lên cho mình suy nghĩ về đồng bào, lòng yêu nước. Nhưng bài luận ấy đã không được thầy chấm và trả lại. Vì chúng tôi bị bắt.
Bỗng một buổi sáng, đứng sau song sắt phòng giam nhà tù Phủ Doãn (Huế), nhìn ra sân, tôi thấy thầy đang đứng ở đó. Thầy cũng bị bắt sau chúng tôi một tuần lễ. Chúng tôi thương thầy bị đày, qua một số thường phạm, chúng tôi nhờ chuyển lời hỏi thăm sức khoẻ của thầy và bày tỏ nguyện vọng sẽ được tiếp tục học với thầy. Chỉ khoảng 15-20 ngày sau, chúng tôi nhận được một gói tài liệu buộc thật chặt: một tập thơ Victor Hugo của Nhà xuất bản Hachette. Chúng tôi đọc thuộc và học thuộc lòng bài này đến bài khác. Nhớ và đọc mãi câu: “Ceux qui vivent ce sont ceux qui luttent”. (Tạm dịch: Những người sống là những người đấu tranh)
Năm 1928, Đặng Thai Mai tốt nghiệp Cao đẳng Sư phạm Hà Nội, được bổ dụng làm giáo sư một trường trung học có tiếng hồi đó: trường Quốc học Huế.
Nhưng rồi ở quê hương, phong trào Xô Viết Nghệ Tĩnh bùng nổ, thực dân Pháp khủng bố trắng trợn, ném bom xuống cả các đoàn biểu tình của nông dân. Ở Huế, Đặng Thai Mai phụ trách công tác Cứu tế đỏ, liền bị bắt.
Đặng Thai Mai phải ngồi tù một năm và bị cách chức giáo sư. Năm 1932, ông ra Hà Nội dạy học ở trường tư thục Gia Long. Năm 1935, ông cùng Phan Thanh, Hoàng Minh Giám thành lập trường Thăng Long. Trường tư thục nổi tiếng này đã là cái nôi nhen nhóm lòng yêu nước trong học sinh và chuẩn bị cán bộ tương lai cho đất nước Việt Nam độc lập.
Năm 1937, sau khi Mặt trận Bình dân thắng lợi ở Pháp thì ở Việt Nam Mặt trận Dân chủ Đông Dương thành lập. Nhiều cán bộ lãnh đạo của Đảng thoát khỏi nhà tù đế quốc ra hoạt động công khai.
Đặng Thai Mai khổ công học tập từ nhỏ nên đã có một căn bản kiến thức vững chắc, nhưng trong thâm tâm sâu kín ông vẫn ấp ủ một tâm nguyện: Nếu chưa có tự do tư tưởng thì chưa viết lách gì! Thế rồi, gần 40 tuổi, ông mới bắt đầu cầm bút; những bài báo đầu tay được viết bằng tiếng Pháp, in trên các báo của Đảng Cộng sản Đông Dương, xuất bản ở Hà Nội, như Lao Động (Le Travail), Tập Hợp (Rassemblement), Tiến Lên (En Avant), Tiếng Nói Chúng Ta (Notre Voix).
Năm 1938, ông tham gia thành lập Hội Truyền bá Quốc ngữ, hoạt động bên cạnh những nhân sĩ nổi tiếng như Vương Kiêm Toàn, học giả Nguyễn Văn Tố, cộng tác viên khoa học của Học viện Viễn Đông bác cổ Pháp và Phó bảng Bùi Kỷ, thầy học của ông ở Cao đẳng Sư phạm Hà Nội.
GS Đặng Thai Mai (phải) và GS Ngữ học Xécđúcsenko (Liên Xô) tại Hà Nội.
Năm 1939, một người bạn thân của ông là Phan Thanh, đại biểu Đảng Cộng sản Đông Dương ứng cử vào Viện Dân biểu Trung Kỳ, chẳng may đột ngột từ trần, Đảng liền giới thiệu Đặng Thai Mai thay thế, mặc dầu ông chưa phải là đảng viên; phải đến tháng 9/1946 ông mới được kết nạp vào Đảng và người giới thiệu là người bạn cùng quê - Hồ Tùng Mậu.
Nhân dịp này, tuần báo Tiếng Nói Chúng Ta của Đảng Cộng sản Đông Dương số 24, ngày 28/7/1939 đã giới thiệu ông như sau: “Đặng Thai Mai thích nhắc lại câu nói của Thomas Mann: Tôi sinh ra để cho sự thanh nhàn hơn là sự tử vì đạo. Không phải ông dám so sánh mình với tác giả cuốn Cảnh báo Châu Âumà sự vĩ đại vượt quá mọi bộ óc lớn nhất của thời đại chúng ta, nhưng có thể, dù đã tính đến sự chênh lệch về tỉ lệ, ông vẫn thấy giữa số phận của Thomas Mann và của mình ít nhiều giống nhau, ông sinh ra là để dành cho việc học tập, cho học trò và con cái nhưng tình thế đất nước đã đẩy ông vào đấu trường chính trị”… “Con người có vẻ ngoài hiền lành, mảnh khảnh đó lại không biết đến sự sợ hãi, ít nhất là đối với ông. Với điều đó, ông thật đúng là người con của xứ Nghệ, nhưng may mắn sao ông lại được điều hòa bởi chủ nghĩa nhân văn phương Tây”.
Những năm 1944-1945, Đặng Thai Mai bị đau nặng, phải nghỉ dạy học và dưỡng bệnh ở Sầm Sơn (Thanh Hóa). Dựa vào tinh thần của Đề cương văn hóa (1943) của Đảng, ông đã viết cuốn Văn học khái luận, xuất bản năm 1944. Đây là cuốn sách lý luận văn học đầu tiên ở nước ta đề cập đến một số vấn đề cơ bản của văn học nghệ thuật theo quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin như quan hệ giữa chính trị và văn học, giữa nội dung và hình thức, điển hình và cá tính, giữa tính dân tộc và tính quốc tế của văn học…
Cũng trong thời gian này, ông đã dịch các tác phẩm của Lỗ Tấn, Tào Ngu và giới thiệu văn học hiện đại của Trung Quốc vào nước ta. Từ nhỏ, Đặng Thai Mai đã làm quen với văn học Trung Quốc nhưng đó là văn học Trung Quốc của Hán phú, Đường thi. Lần đầu tiên nghe đến những tên tuổi mới như Trần Độc Tú, Mao Thuẫn, Quách Mạt Nhược, Lỗ Tấn…
Đặng Thai Mai cảm thấy một lỗ hổng rất lớn trong kiến thức của mình về văn học Trung Quốc. Đặng Thai Mai cũng học chữ Hán của Tứ Thư, Ngũ Kinh; để có thể dịch được những câu văn châm biếm, thâm trầm của Lỗ Tấn, Đặng Thai Mai đã phải học bạch thoại với một nghệ sĩ Trung Quốc “chạy loạn” sang nước ta.
Với chủ trương kháng chiến phải đi đôi với kiến quốc, kiến quốc cần có nhân tài, ngày 10/10/1945, Hồ Chủ tịch ký sắc lệnh số 45 thành lập một Ban Đại học mới, đó là Ban Đại học Văn khoa bên cạnh các ban Y khoa, Khoa học, Chính trị Xã hội và Mỹ thuật. Nhiệm vụ của ban này nhằm đào tạo giáo sư bậc trung học và chuyên viên khảo cứu về khoa học xã hội - nhân văn như Triết lý, Xã hội, Văn chương, Sử ký, Địa dư. Nghị định ngày 7/11/1945 của Bộ Quốc gia Giáo dục đã cử Đặng Thai Mai đang giữ chức Tổng thanh tra học vụ bậc trung học kiêm chức Giám đốc Ban Văn khoa trường đại học(1).
Cũng trong thời gian này, Đặng Thai Mai được cử vào Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chủ tịch làm Chủ tịch và trong cuộc Tổng tuyển cử ngày 6/1/1946 ông đã trúng cử đại biểu Quốc hội. Tại kỳ họp thứ nhất ngày 2/3/1946 của Quốc hội khóa I (1946-1960), Hồ Chủ tịch đã tiến cử ông giữ chức Bộ trưởng Bộ Giáo dục của Chính phủ liên hiệp kháng chiến với lời giới thiệu như sau: Đặng Thai Mai là “một người đã lâu năm hoạt động trong công cuộc giáo dục quốc dân và là người mà quốc dân có thể tin rằng, nếu đem việc giáo dục giao cho để gánh vác thì người ấy sẽ làm hết nhiệm vụ”(2).
GS Đặng Thai Mai (trái) và GS Trần Văn Giàu.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Đặng Thai Mai được cử làm Chủ tịch Ủy ban kháng chiến tỉnh Thanh Hóa (1947-1948), Giáo sư Đại học Văn khoa Liên khu IV (1950), Giám đốc Sở Giáo dục và Giám đốc trường Dự bị Đại học và Sư phạm Cao cấp Liên khu IV (1952-1953).
Năm 1954, sau khi đi dưỡng bệnh ở Nam Ninh (Trung Quốc) về, Đặng Thai Mai được cử làm Hiệu trưởng Đại học Sư phạm Văn khoa (1954-1956), trụ sở ở phố Lê Thánh Tông, Hà Nội. Năm 1956, với việc thành lập Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm, Đặng Thai Mai được cử làm Chủ nhiệm khoa Văn chung cho cả hai trường Đại học Tổng hợp và Đại học Sư phạm cho đến năm 1959 thì chuyển sang làm Viện trưởng Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam và Chủ tịch Hội liên hiệp Văn học Nghệ thuật Việt Nam.
Trong cuộc đời hoạt động của mình, Đặng Thai Mai đã trải qua nhiều lĩnh vực hoạt động, nhưng công việc ông làm lâu hơn cả là giáo dục. Ông đã dạy từ trường công qua trường tư dưới thời Pháp thuộc, sau Cách mạng tháng Tám 1945, ông chuyên dạy về văn học ở cấp đại học, nhưng ở cương vị nào và dù có thời gian sức khỏe không được tốt, bao giờ ông cũng tận tâm tận lực làm trọn thiên chức một thầy giáo. Trong Điếu văn vĩnh biệt ông, nhà thơ Huy Cận nói: Đặng Thai Mai dạy học với tấm lòng say mê của “một nhà truyền giáo”.
Đặng Thai Mai rất say mê văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học Trung Quốc, văn học Pháp, văn hóa phục hưng, về Shakespear, Don Quichotte, Lỗ Tấn… nhưng có thể nói, tâm huyết của ông vẫn để ở văn học Việt Nam. Ông nói với học sinh: Tôi học văn học nước ngoài để trở về với văn học Việt Nam, để hiểu đúng văn học dân tộc ta.
Ông đã nghiên cứu văn học Lý - Trần, Nguyễn Trãi, Chinh phụ ngâm, Nguyễn Đình Chiểu, Ngục trung nhật ký, thơ Tố Hữu và đặc biệt có thể nói ông đã gửi vào hai công trình nghiên cứu Văn thơ Phan Bội Châu vàVăn thơ Cách mạng Việt Nam đầu thế kỷ XX (1900-1925) không chỉ là trí tuệ mà cả trái tim của mình, không chỉ là những kỷ niệm đau buồn mà cả niềm tin và hy vọng liên quan đến một giai đoạn bi tráng của quê hương, đất nước và cả gia đình ông.
Trong phạm vi nghiên cứu, viết lách, ông cũng rất “khó tính” với bản thân mình, cũng như luôn luôn có yêu cầu cao và nghiêm khắc với học trò. Ông thật xứng đáng với các phần thưởng cao quý mang tên người mà suốt đời ông ngưỡng mộ: Huân chương Hồ Chí Minh và Giải thưởng Hồ Chí Minh về khoa học xã hội - nhân văn.
------------------------
Chú thích:
(1) Việt Nam Dân quốc Công báo số 4, ngày 20/10/1945.
(2) Việt Nam Dân quốc Công báo số 9, ngày 17/11/1945.
Theo Nguyễn Văn Hoàn
Tạp chí Hồn Việt
No comments:
Post a Comment