Wednesday, 13 June 2012

Những từ thời thượng (Nguyễn Đức Dân)


Những từ thời thượng


GS TS Nguyễn Đức Dân

Xã hội luôn luôn vận động, xuất hiện những khái niệm mới, nổi lên những vấn đề mới là trung tâm chú ý của dư luận. Do vậy hàng loạt từ mới xuất hiện. Có những từ mang hơi thở của thời cuộc.
Tâm lý chuộng lạ và khuynh hướng làm sang trí tuệ
Trong giao tiếp, lời nói có vai trò quan trọng, mỗi người đều có nhu cầu ‘học ăn học nói’… Ngôn ngữ là một phương tiện thể hiện phẩm chất trí tuệ con người. Muốn khẳng định mình qua ngôn từ không ít người thích dùng những từ mới lạ để ít nhất cũng không thua kém người khác. Bởi vậy không tránh khỏi những khuynh hướng lạm dụng từ ngữ mới. Bắt đầu có từ được dùng theo cách rất lạ. Người khác thấy hay, thấy ngồ ngộ, mới lạ bèn đua nhau dùng theo, đua nhau “trưng diện” từ này trong lời nói và bài viết.  Họ sử dụng chúng như là những “mốt” nói mới nhằm tô điểm cho trí tuệ.
Cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước, ở Liên Xô (cũ) trên các phương tiện truyền thông đầy rẫy và ra rả từ perestrojka (sự cải tổ). Tiếp đó danh từ “pljuralism” (chủ nghĩa đa nguyên), một danh từ mới nhập từ tiếng Anh (pluralism), tiếng Pháp (pluralisme) thời cải tổ, xuất Cuối thập kỷ 80 thế kỷ trước, ở Liên Xô (cũ) trên các phương tiện truyền thông đầy rẫy và ra rả từ perestrojka (sự cải tổ). Tiếp đó danh từ “pljuralism” (chủ nghĩa đa nguyên), một danh từ mới nhập từ tiếng Anh (pluralism), tiếng Pháp (pluralisme) thời cải tổ, xuất hiện rất nhiều. Chứng cứ cho điều này là trong quyển Từ điển tiếng nga nổi tiếng, bản in năm 1982, của S.I. Ozhegov hoặc trong Từ điển cấu tạo từ tiếng Nga, xuất bản năm 1978 của A.N. Tikhonov đều còn chưa có danh từ pljuralism.
Sau Đại hội IV của Đảng cộng sản Việt Nam, xuất hiện cụm từ “làm chủ tập thể”. Từng có lúc , trên các trang báo nhan nhản những “làm chủ tập thể”. Sau Đại hội VI, “làm chủ tập thể” được dùng ít dần đi; thay vào đó là “đổi mới tư duy” và ‘những việc cần làm ngay’. Ở thập kỷ 70 nếu trong bài viết hoặc đăng đàn diễn giảng ai không nói làm chủ tập thể là “trình độ lý luận còn thấp”. Nửa cuối thập kỷ 80, ở đâu cũng “đổi mới tư duy”. Không nhắc tới cụm từ này là người ta chưa yên tâm, chưa chứng tỏ mình nhạy bén và có năng lực. Bàn về những điều đã thành chuẩn mực cũng cứ cần có chữ đổi mới tư duy.
Nhiều kết hợp lạ là những đặc sản xã hội, gây bất ngờ trong nhận thức và nhanh chóng thành cụm từ mới lạ. Chẳng hạn, từ “khiêm tốn” biểu thị thái độ con người. Có ai đó dùng nó để biểu thị thuộc tính. NQT viết trên báo PN “Tôi là một người có chiều cao hơi khiêm tốn”. Thấy một kết hợp lạ hay hay. Ấy thế là thành ra cái mốt “khiêm tốn”: “đồng lương khiêm tốn”, “bộ quần áo khiêm tốn”, “ngôi nhà khiêm tốn”; số con cháu tôi cũng ‘khiêm tốn”, chỉ 20 đứa…Trong chuyện thường ngày trên TT, ngày 24.9.98 Bút Bi viết: Nhớ hồi quận 3 bắt đầu dọn dẹp bia ôm, con đường kề bên uỷ ban quận này chỉ có một “nhà hàng đặc sản”. Bây giờ con đường này có vô số nhà hàng đặc sản karaoke máy lạnh, tha hồ cho các đấng mày râu đến dự thi … “bàn tay vàng”. Đọc đến đoạn này, sinh viên trường V cười nghiêng ngả. Tôi nghĩ đó là ngày sinh chính thức trên báo chí của “bàn tay vàng”. (Ai biết nó sinh sớm hơn xin chỉ giùm!). Lập tức sau đó trên các trang báo thành phố rộ lên cụm từ châm biếm “bàn tay vàng”.

Xã hội luôn luôn có khuynh hướng vay mượn từ nước ngoài, mặc dù vẫn có những từ ngữ đồng nghĩa. Vay mượn phần vì khuynh hướng chuộng lạ, có yếu tố kích thích, bắt mắt, nhưng còn vì những từ ngữ vay mượn này phản ánh được những sắc thái mới. Trong tiếng Nga đã có từ korennoj (thuộc về gốc rễ, nền tảng) nhưng tiếng Nga vẫn nhập từ radical của tiếng Anh và Pháp để thành tính từ radical’nyj đồng nghĩa với korennoj. Và radical’nyj còn thêm nghĩa cấp tiến mà korennoj không có.
Người Việt cũng vậy. Báo chí Thành phố HCM thời nay dẫn đầu cả nước khuynh hướng “Anh hóa” nhiều từ vay mượn đã được phiên âm. Chúng ta đã từng phiên âm an-bom ( “-Anh ngồi đây, xem quyển an-bom này mà chờ tôi” (Vũ Trọng Phụng, Số đỏ); chạy sô, sô diễn, sôlô (“Vẫn múa, em tham gia hầu hết các điệu múa và nhiều tiết mục em chọn sôlô hoặc đuy-ô từng đoạn” (NDCN, 04/10/1990)), đăng-xinh, xì-tốp …(“Bỗng Maika la lên: -Xì-tốp! Dừng, mình lại xem trên cây cầu này có chuyện gì mà con người bu đông như con kiến” (TT Cười, 6/1991). Hiện nay người ta thích dùng nguyên ngữ album, solo, show, live show, stop, dancing. Thậm chí “Anh hóa” cả các từ vay mượn đã được Việt hóa: Nói hàng giảm giá, hạ giá… nghe “giảm giá trị” đi. Nói bán xôn, bán xon ( mượn tiếng Pháp solde) cũng xưa rồi. Phải là sale, on sale, sale off mới sang và sành điệu!

Sáo ngữ: những lối mòn
Cái gì quá lạm dụng rồi cũng trở thành bình thường, nhiều quá hóa nhàm, và kết quả là lượng thông tin của từ bị giảm đi, nghĩa bị mòn đi. Những từ mới lạ trở thành sáo ngữ. Khi trung tâm chú ý của xã hội thay đổi thì sáo ngữ cũng nhanh chóng thay đổi. Rồi những từ ngữ mới khác lại xuất hiện.
Cùng thời với “đổi mới tư duy”, trong đường lối hoạch định chính sách rộ lên những từ kinh tế vĩ mô, vi mô; hộp đen, đầu vào, đầu ra, … Không hiểu bản chất của một khái niệm nhưng thấy thiên hạ dùng nhiều thì cũng cố mà dùng cho cỏ vẻ “trình độ”, “thức thời”. “Nói như lời ông Trần Đình Hoan là […] không còn qui hoạch cán bộ theo kiểu “chiếc hộp đen” như trước nữa mà thay bằng “sân chơi bình đẳng”.[…] Ai đá hay thì đoạt quả bóng vàng chứ không chấm trước ai chắc chắn sẽ làm bí thư tỉnh uỷ hay bộ trưởng cả” (TTCN, 01.6.03) GS Hoàng Tuỵ đã phê phán sự lạm dụng từ ngữ này. Từ hộp đen trên báo chí ít hẳn đi, nó được trả lại đúng vị trí trong những bài viết về lí thuyết thông tin.
Lớp từ thời thượng sau Đại hội VII là kinh tế thị trường, kinh tế trang trại , cổ phần hoá… rồi những phần mềm, internet, thị trường chứng khoán, nền kinh tế tri thức … Những từ này nay trở thành bình thường. Mặc dầu từ điện tử đã xuất hiện từ lâu, nhưng từ năm 2002, mới nở rộ lên những “chính phủ điện tử”, “Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn điện tử”, “công dân điện tử” với một “thẻ căn cước thông minh”, “cử tri điện tử” rồi Nghị viện điện tử cho toàn cầu, Quốc hội điện tử...

Mấy từ thời thượng hiện thời
Hiện nay buôn bán phát triển nên “thương hiệu” trở thành mốt. Cái gì cũng “thương hiệu”. Từ này đang bị lạm dụng, đang lan sang nhiều ngành mà ở đó không có chuyện kinh doanh buôn bán gì cả: “Bà đã giúp làm tăng thương hiệu Sarkozy”; ông đã làm nên một ‘thương hiệu Putin”. Những chính khách, những nguyên thủ quốc gia có buôn bán gì đâu (ngoại trừ buôn bán chính trị) mà thương hiệu? Trở thành những con người nổi tiếng, sao không nói “làm tăng tên tuổi Sarkozy”, làm nên ‘tên tuổi Putin”? Trong lĩnh vực giáo dục cũng vậy. Người ta quyết tâm “xây dựng thương hiệu ‘Khoa Báo chí và Truyền thông’, “xây dựng thương hiệu trường chuyên X”... Nhà trường, sao phải xây dựng thương hiệu mà không là xây dựng học hiệu? Không rõ thiên hạ có dùng thương hiệu Havard, Oxford, Cambridge không? Người Việt sao thích thương hiệu quá vậy?
Gần đây nhất là những từ tầm nhìn, tái cơ cấu... Người ta hoạch định những đề án, những công trình, những chiến lược với tầm nhìn 30 năm, 40 năm,…Phải có tầm nhìn 50 năm để làm đường sắt cao tốc. Rồi sách “Việt Nam tầm nhìn 2050”. Tầm nhìn nào cho khu đô thị Trung Yên Hà Nội mới xây hiện đại kiểu Pháp, sau trận mưa lớn (2008) đã biến thành sông hồ? Tầm nhìn nào cho những công trình giao thông vừa bàn giao đã xuất hiện nhiều chục “hố tử thần”?
Chúng ta đang tái cơ cấu Vinashin. Nay mai liệu có ‘tái cơ cấu EVN’ khi Tập đoàn điện lực Việt Nam đang đứng ở “chân tường” (TT, 11.01.2011)? Và còn tái cơ cấu những gì nữa?

No comments:

Post a Comment