Saturday 24 November 2012

DẤU ẤN PHẬT GIÁO TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ VỚI CHAMPA CỦA HAI VỊ VUA – PHẬT: TRẦN NHÂN TÔNG VÀ NGUYỄN PHÚC CHU (Nguyễn Thị Mỹ Hạnh)

DẤU ẤN PHẬT GIÁO TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ VỚI CHAMPA CỦA HAI VỊ VUA – PHẬT: TRẦN NHÂN TÔNG VÀ NGUYỄN PHÚC CHU
            Trong lịch sử phong kiến dân tộc, mối quan hệ giữa vương quyền và Phật giáo đã trở thành một mối quan hệ vô cùng đặc biệt. Chính từ mối quan hệ ấy mà trong nhiều giai đoạn khác nhau của diễn trình lịch sử Việt Nam, chúng ta đã không ít lần bắt gặp mô hình nhà nước quân chủ khác với Trung Quốc, gần với các quốc gia Đông Nam Á mà phần nào đó phảng phất Phật giáo Tây Tạng – đó chính là mô hình Vua – Phật. Đỉnh cao của mô hình này là hình tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông và tiếp đó là hình tượng Minh vương – đạo sĩ Nguyễn Phúc Chu. Hai bậc chân chúa tuy ở hai thời kỳ lịch sử khác nhau nhưng cả hai vừa là nhà vua hiền tài, có nhãn quan chiến lược sáng suốt trong công cuộc dựng nước, giữ nước và mở nước, vừa là những nhà sư tinh thông Nho giáo và hiểu sâu yếu chí Thiền học. Chính sự quyện hòa giữa chất Vua và chất Phật trong con người Trần Nhân Tông và Nguyễn Phúc Chu như thế đã khiến cho cuộc đời và sự nghiệp của hai ông bứt phá khỏi cái bình thường để vươn lên thành cái phi thường, được nhân gian đời đời ngưỡng vọng, tôn thờ. Đi tìm hiểu dấu ấn Phật giáo trong cách hành xử với vùng đất Champa ở phía Nam dưới thời vua Trần Nhân Tông và chúa Nguyễn Phúc Chu sẽ phần nào giúp chúng ta sáng rõ hơn tính đặc biệt, sự phi thường trong những con người vĩ đại ấy!

            1. Từ tư tưởng sùng bái Phật giáo đến phong cách chính trị - ngoại giao của Trần Nhân Tông và Nguyễn Phúc Chu

            * Trần Nhân Tông sinh năm 1258 và mất năm 1308, tên thật là Trần Khâm, con trưởng của vua Trần Thánh Tông và thân mẫu là Nguyên Thánh Thiên Cảm hoàng thái hậu. Ngay từ thửa bé, ông đã có dáng mạo khôi ngô, khí phách hiên ngang khác thường. Điều đặc biệt là từ khi còn nhỏ, ông vừa theo học đạo Nho, vừa được hấp thụ tinh thần đạo Phật của những bậc tiền bối. Bởi vậy mà ông không chỉ am hiểu Nho học, tinh thông chữ Hán mà còn được hiểu rộng kinh điển Phật giáo, hiểu sâu yếu chí Thiền học. Chính điều này sẽ góp phần làm nên một sự kết hợp rất đặc biệt giữa sự thâm thúy của một nhà nho trác việt và sự ung dung, tĩnh tại của một bậc thiền sư trong phong cách Trần Nhân Tông.

             Trước Trần Nhân Tông đến hơn 300 năm, thiền sư Đỗ Pháp Thuận (915-990) đã từng khuyên vua Lê Đại Hành rằng: “Vô vi trên điện gác/ Chốn chốn tắt đao binh”. Ở đây, vô vi trong nghĩa nguyên của thuật ngữ không phải là không làm gì mà trái lại, làm bất cứ việc gì thuận theo quy luật tự nhiên, hay đúng như vua Lý Nhân Tông đã từng khuyên Thiền sư Mãn Giác (1052-1096) rằng: “Không việc gì không làm, chẳng những đắc lực về Thiền định mà cũng có công giúp đõ nhà nước[1]”. Tiếp nối những thế hệ đi trước, Trần Nhân Tông đã đề xuất phương châm “cư trần lạc đạo[2]”, tức là sống giữa cõi trần hãy tùy duyên mà vui với đạo. Đây cũng là sự cụ thể hóa khái niệm vô vi trong bối cảnh lịch sử đầy phức tạp buổi thịnh Trần. Hai phần ba cuộc đời của Trần Nhân Tông trong trọng trách “vỗ yên dân chúng” chính là thuận theo lẽ sống “cư trần lạc đạo” ấy. Và khi ông rời triều đình lên núi Yên Tử, chuyển nhượng trọng trách thế sự cho hoàng tử Anh Tông kế nhiệm thì con người nhập thế trong ông vẫn không vì thế mà mất đi. Với ông, điều quan trọng của tu thiền không phải ở chỗ phải sống trong rừng núi hay thành thị, phải dứt bỏ mọi phiền lụy của cuộc đời hay cứ dấn thân vào thế tục, mà thiết yếu là làm sao giác ngộ được chân lý. Và nếu giác ngộ chân lý mà thực hiện được ngay giữa cuộc đời, gắn liền sự ngộ đạo với việc thực hiện nghĩa vụ thiêng liêng của quốc gia, dân tộc thì đối với ông đó là điều quý giá nhất:

            Mình ngồi thành thị;

            Nết dùng sơn lâm.

            Tịnh độ là lòng trong sạch, chớ còn ngờ hỏi đến Tây phương;

            Di Đà là tính sáng soi, mựa phải nhọc tìm về Cực lạc.

            Trần tục mà nên, phúc ấy càng yêu hết tấc;

            Sơn lâm chẳng cốc, họa kia thực cả đồ (uổng) công.[3]

            Nếu như Phật giáo Ấn Độ nêu lên vấn đề cứu độ chúng sinh thoát khỏi mọi nỗi khổ đau trần thế, nhưng khi đề ra giải pháp thì lại thiên về tư duy siêu hình, thoát ly thực tế, tách biệt khỏi cuộc đời, thì với Trần Nhân Tông và Thiền Phái Trúc lâm do Người sáng lập, tuy khuyến khích mọi người tu thiền “săn hỷ xả, nhuyễn từ bi”, “tích nhân nghì, tu đạo đức”, “cầm giới hạnh, đoạn ghen tham” nhưng lại không hề chấp nhận “trì giới và nhẫn nhục”, nhất là không chấp nhận giữ giới (nhất là giới sát) và nhẫn nhục cúi đầu làm nô lệ cho kẻ thù ngoại bang tàn bạo.

            * Cũng như Trần Nhân Tông, chúa Nguyễn Phúc Chu[4] sinh ra là để làm vua và được chuẩn bị đầy đủ hành trạng để trở thành một ông vua của triều đại phong kiến chuyên chế. Lên nối ngôi từ năm 1691 đến năm 1725, Nguyễn Phúc Chu cầm quyền trong một giai đoạn lịch sử đầy những biến động dữ dội. Tuy không chịu ách xâm lược của phong kiến phương Bắc như thời Phật hoàng Trần Nhân Tông nhưng trong suốt những tháng năm lãnh đạo công việc triều chính, Nguyễn Phúc Chu luôn phải canh cánh trong lòng mối đe dọa thường trực từ họ Trịnh ở phía Bắc và sự dòm ngó, xâm lược của các nước phía Nam. Do vậy, ngay từ đầu, hơn ai hết Minh vương Nguyễn Phúc Chu đã nhận thức rất rõ tầm quan trọng của việc an dân. Làm sao cho dân lưu tán ở xứ Đàng Trong yên tâm với cuộc sống ở vùng đất mới luôn là một mối trăn trở trong lòng Người. Trên thực tế, dù thuộc nhiều thành phần khác nhau, nhưng những lưu dân Việt khi đến Nam Bộ bấy giờ chủ yếu vẫn là những người nghèo khổ, phiêu tán. Họ cần có chùa, có thầy cầu an, giúp đỡ khi hoạn nạn, đau ốm ở xứ lạ hoặc cầu siêu khi mất…Hiểu được nhu cầu bức bách và chính đáng đó của người dân, Nguyễn Phúc Chu đã ra sức chấn hưng Phật giáo và đưa Phật giáo đến gần với mỗi người dân Việt nơi đây bằng chính tư tưởng từ bi của một bậc chân chúa.

            Lòng sùng mộ Phật giáo ấy dường như đã theo Minh vương Nguyễn Phúc Chu đến suốt cuộc đời. Trong hơn 30 năm trên cương vị của của một quốc chúa, Người đã không ngừng nổ lực truyền bá rộng rãi giáo lý Đạo Phật, trùng tu, kiến tạo chùa chiền[5] kiên cố, vững chắc làm cho tăng ni phật tử yên tâm hành đạo. Đặc biệt, tư tưởng sùng Phật ấy của Người còn được thể hiện sinh động chính qua tấc lòng yêu dân, muốn cứu độ dân chúng thoát khỏi tai ương của cuộc sống. Bởi thế chúng ta không lấy gì làm ngạc nhiên khi suốt 34 năm trị vì của mình, chúa Nguyễn Phúc Chu luôn được nhân dân biết ơn và nể trọng. Từ những quan tâm cụ thể đến người dân ở từng vùng đất như: cho quân quét sạch lũ trộm cướp thường xuyên quấy nhiễu nhân dân ở Hồ Xá, Quảng Trị[6] hay tỉ mẫn cho người nghiên cứu nguyên nhân tạo sóng dữ để tìm cách phá tan nạn sóng thần trên phá Tam Giang, cho nhân dân an tâm đi lại… đến những chủ trương chung dành cho nhân dân trong cả xứ Đàng Trong như: hàng năm mở rộng kho lúa để phát chẩn cho dân nghèo, phàm dân lưu tán mới về thì chia ruộng đất để thiết lập thôn phường hay miễn binh dịch, tô thuế trong ba năm để dân yên nghiệp làm ăn…Tất cả đã góp phần hiện thực hóa tư tưởng từ bi hỉ xả, cứu độ chúng sinh – một tư tưởng cốt lõi tồn tại bao đời nay của Phật giáo. Về điều này, chúng ta thấy sự tương đồng rất rõ nét trong tinh thần nhập thế tích cực, gắn liền “đạo và đời” của 2 vị vua – phật: Nguyễn Phúc Chu và Trần Nhân Tông .

            Có đặt Trần Nhân Tông Nguyễn Phúc Chu trong hệ phái Thiền mang nặng cảm thực nhập thế của Đại Việt lúc bấy giờ như thế, chúng ta mới có thể đi tìm lời giải đáp cho phong cách ngoại giao đĩnh đạc mà ôn hòa, ung dung, tĩnh tại hiếm thấy của hai bậc chân chúa trong những bối cảnh lịch sử đầy cam go, thử thách. Và cũng chính sự kết hợp nhuần nhuyễn này đây giữa chất Vua và chất Phật trong bậc minh quân – đạo sĩ Trần Nhân Tông và chúa Nguyễn Phúc Chu sẽ góp phần giúp chúng ta lí giải được phương châm “nhân quần hòa hợp, chúng sinh an lạc” xuyên suốt trong đường hướng chính trị - ngoại giao với vùng đất Champa ở phía Nam lúc bấy giờ.

            2. Trần Nhân Tông và Nguyễn Phúc Chu trong việc giải quyết mối quan hệ với Champa

            2.1. Trần Nhân Tông

            Sau mối quan hệ với đại đế quốc phong kiến Trung Hoa, có thể nói mối quan hệ với Champa  - một nước phía Nam của Đại Việt lúc bấy giờ cũng được Trần Nhân Tông đặc biệt coi trọng.

            Mặc dù trong các vương triều trước đó như Tiền Lê, Lý và ngay dưới thời Trần, nhiều cuộc chiến tranh và xung đột giữa Đại Việt và Champa đã diễn ra, song những năm tháng chiến tranh ấy không thể làm lu mờ được mối quan hệ bang giao hảo thoại mà 2 nước Việt – Chăm đã xây đắp được trong một số giai đoạn lịch sử nhất định. Và trong đó, giai đoạn đất nước Đại Việt dưới sự lãnh đạo của vua – thượng hoàng Trần Nhân Tông được lịch sử đánh giá là một trong số những trang ngoại giao tươi sáng nhất của mối quan hệ 2 nước.

            Lúc bấy giờ, trước kẻ thù chung là đế quốc phong kiến Mông Nguyên, từ vua quan đến dân chúng của cả 2 nước đã kề vai sát cánh chiến đấu vì hòa bình, độc lập dân tộc. Mặc dù vua Nguyên đã nhiều lần sai sứ đến Đại Việt đòi vua Trần Nhân Tông phải cho mượn đường, cấp lương thực, binh lính cho đội quân của y đánh Champa, song trước sau như một, vua Trần đã cự tuyệt yêu sách nham hiểm, ngang ngược ấy. Hơn thế nữa, Trần Nhân Tông còn viện trợ giúp Champa 2 vạn quân và 500 chiếc thuyền chiến[7] để hợp sức diệt giặc.

            Đến khi hòa bình lập lại, đất nước sạch bóng quân thù, Trần Nhân Tông vẫn không quên duy trì và phát triển mối quan hệ tốt đẹp vốn có giữa 2 dân tộc Việt - Chăm. Tháng 3 năm 1301, Trần Nhân Tông mở cuộc vân du Champa trong một thời gian dài suốt 9 tháng. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, có một vị nguyên thủ đã tự thân hành đặt chân sang nước bạn – Champa như đến với người thân của mình, không một chút nghi kỵ. Trong cuộc viếng thăm lịch sử chưa từng có này của Thượng hoàng nước Việt, cả Champa từ vua quan đến dân chúng đều một lòng tôn kính bậc minh quân – đạo sĩ ấy. Về điều này, trong lời đề từ cho bức tranh Trúc Lâm đại sĩ xuất sơn đồ, Trần Chí Thanh đã viết: “có lúc Ngài viễn du hóa độ cho các nước lân bang, phía Nam đến tận Champa, đã từng khất thực ở trong thành. Vua nước Champa biết được điều đó, hết sức kính trọng thỉnh mời, dâng cúng trai lễ, sắp sẵn thuyền bè nghi trượng, thân hành tiễn ngài về nước[8]”. Trong thời gian dài ở lại đất Champa, Trần Nhân Tông đã rất xúc động khi học hỏi được nhiều điều bổ ích từ nền văn minh nơi đây. Với ông, con người đâu đâu cũng vậy. Biên giới chỉ là một hàng rào giả tạo được đặt ra bởi sự không thông hiểu lẫn nhau giữa người với người. Từ đây, với tầm nhìn xa trông rộng của một bậc minh quân, ông muốn thắt chặt hơn nữa mối quan hệ với Champa. Và lời đề nghị của Người về cuộc hôn nhân giữa Huyền Trân (con gái Trần Nhân Tông) và vua Chế Mân trong chuyến đi này là một minh chứng hùng hồn cho mong muốn thiết tha ấy. Vua Chămpa từ lòng kính trọng rất mực đối với một bậc đạo sĩ hiền tài như thế, đã hoan hỹ chấp nhận.

            Đến tháng 2 năm 1305: “Chiêm Thành sai Chế Bồ Đài và Bộ đảng hơn 100 người dâng hiến vàng bạc, hương quý, vật lạ làm lễ vật cầu hôn[9]” và trao cho triều Trần 2 châu Ô và Lý[10] làm lễ vật dẫn cưới. Rõ ràng cuộc hôn nhân giữa Chế Mân và Huyền Trân diễn ra trên tinh thần tự nguyện, từ cả 2 phía, không hề có một sự áp đặt nào.

            Và điều thật đáng nói là để thắt chặt mối hòa hợp giữa 2 dân tộc Việt – Chăm thông qua cuộc hôn nhân này, Trần Nhân Tông đã vượt qua được trở lực khó khăn nhất để chiến thắng “cái tự ngã”. Trong hoàn cảnh chỉ có duy nhất một người con gái, việc gả chồng nơi phương xa cho con như Trần Nhân Tông quả thật là một sự hy sinh rất đỗi. Hơn thế nữa, bấy giờ phần lớn các quan trong triều “đều cho là không nên[11]” bởi họ vướng bận sự kỳ thị chủng tộc, thậm chí một số người còn mượn điển vua Hán gả Chiêu Quân cho Hung Nô, làm thơ Nôm để mỉa mai, chê cười: “Tiếc thay cây quế giữa rừng. Để cho thằng Mán, thằng Mường nó leo”. Rồi ngay sử thần Ngô Sĩ Liên cũng cho rằng: “Nhân Tông đem con gái cho chúa Chiêm Thành là nghĩa làm sao? Nói rằng nhân khi đi chơi đã trót hứa gả, sợ thất tín thì sao không đổi lại lệnh đó có được không? Vua giữ ngôi trời mà Thượng hoàng đã xuất gia rồi, vua đổi lại lệnh đó thì có khó gì, mà lại đem gả cho người xa không phải giống nòi để thực hiện lời hứa trước…[12]”. Nhưng vượt lên trên tất cả, hơn ai hết, Trần Nhân Tông với tư cách là người sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm, đã thấm nhuần sâu sắc tinh thần bình đẳng chứa đựng trong tư tưởng đạo Phật “Không có đẳng cấp trong dòng máu cùng đỏ; không có đẳng cấp trong giọt nước mắt cùng mặn”[13] để rồi bứt phá khỏi sự kì thị chủng tộc đang phổ biến trong giới triều thần Đại Việt bấy giờ mà xây đắp nên một cuộc hôn nhân kì thú tuyệt vời trong tinh thần bình đẳng hiếm thấy! Và cũng từ đây, hai châu Ô, Lý vuông ngàn dặm đã được sát nhập vào Đại Việt bằng chính con đường hòa bình, hữu nghị – một con đường phi binh đao thật đỗi hiếm có trong lịch sử mở nước của dân tộc cũng như lịch sử thế giới từ xưa đến nay. Tinh thần bình đẳng, hữu nghị ấy sẽ còn được tiếp nối và phát huy trong những chính sách an dân ở vùng đất mới của vua quan triều Trần trong giai đoạn về sau.

            2.2. Nguyễn Phúc Chu

            Từ Trần Nhân Tông đến Nguyễn Phúc Chu là một sự tiếp nối mô hình Vua – Phật. Sự tiếp nối này không chỉ thể hiện ở cái tâm hướng Phật, ra sức hoằng dương Phật giáo trên đất Đại Việt mà còn được minh chứng sinh động trong cách hành xử những vấn đề chính trị - ngoại giao trọng đại của đất nước lúc bấy giờ. Và phương thức ứng xử, giải quyết vấn đề Champa của chúa Nguyễn Phúc Chu cũng là một trong những điển hình rõ nét nhất cho sự quyện hòa nhuần nhuyễn giữa chất Vua và chất Phật trong một bậc minh quân – đạo sĩ hiền tài.

            Bấy giờ, vào thời điểm Nguyễn Phúc Chu lên ngôi chúa (1691), phạm vi lãnh thổ của Champa[14] chỉ còn là một vùng đất nhỏ bé kéo dài từ sông Phan Rang đến Bình Thuận ngày nay[15] với lực lượng chỉ còn vài ngàn quân lính phòng thủ. Trong thế yếu, Champa từ sau năm 1653 đến thời chúa Nguyễn Phúc Chu đã và đang là một vương quốc phiên thuộc của nhà Nguyễn và hàng năm vẫn tiến hành đều đặn hoạt động triều cống như những nước “chư hầu” khác cho Đại Việt. Trong bối cảnh ấy, chúa Nguyễn Phúc Chu hoàn toàn có thể dùng áp lực quân sự đế tấn công chiếm lấy Champa, sát nhập vùng đất còn lại của nó vào Đại Việt. Nhưng hơn ai hết, với tấc lòng từ bi của một bậc chân chúa, Nguyễn Phúc Chu hiểu rõ rằng: vấn đề mấu chốt không chỉ là thu phục đất mà là làm sao giữ được đất và lôi kéo được lòng dân. Nếu bây giờ chủ động dùng sức mạnh quân sự để thu phục Champa thì chỉ có thể thâu phục được đất nhưng không thuần phục được lòng người nơi đây. Lúc ấy, có thể một cuộc chiến tranh phục quốc của quân dân Champa sẽ diễn ra như một sự tất yếu. Hơn thế, trong khi cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn đang còn tiếp diễn mà nếu đàng Trong phải đương đầu với quân Champa nữa thì có khác nào đặt mình vào tình thế: một lúc chống chọi với nhiều kẻ thù. Bởi vậy, dù Nam tiến là một nhu cầu bức thiết lúc bấy giờ nhưng Người không hề nóng vội mà kiên trì, bền bỉ, tận dụng tối đa đến mức có thể phương cách hòa bình, mềm dẻo để thần phục Champa. Bởi thế mà 2 năm đầu, trong vai trò Chúa Nguyễn, Nguyễn Phúc Chu đã rất mềm dẻo, ôn hòa trong quan hệ với Champa, tôn trọng sự tồn tại của nó và chung sống hòa bình với nó (trong vai trò là một phiên thuộc thần phục Đại Việt). Ở đây, chúng ta dường như thấy thấp thoáng từ Người phong thái ung dung, đĩnh đạc, ôn hòa hiếm thấy của một bậc thiền sư!

            Tuy nhiên, khi Champa bội ước, nổi dậy đấu tranh chống đối nhà Nguyễn thì Nguyễn Phúc Chu kiên quyết đánh trả nhằm giữ gìn, bảo vệ thanh danh cho đất nước. Đó cũng chính là sự nối tiếp đầy sinh động quan niệm tu thiền nhưng không hề chấp nhận “trì giới và nhẫn nhục” của Phật hoàng Trần Nhân Tông trước đó:

            Bấy giờ vào tháng 8 năm 1692, vua Champa là Bà Tranh “họp quân, đắp lũy[16], giết cư dân ở Phủ Diên Ninh (Khánh Hòa ngày nay)”[17]. Trước hành động bội ước ấy của vua Champa, chúa Nguyễn Phúc Chu lúc bấy giờ mới quyết định dùng quân sự để trấn áp quân sự. Kết quả là, với sự thất bại của Champa trong cuộc chiến năm 1692 – 1693, phần đất từ Phan Rang (Ninh Thuận) đến Bình Thuận ngày nay đã bị sát nhập vào lãnh thổ Đàng Trong và được chúa đổi tên là trấn Thuận Thành[18]. Với sự kiện này (cụ thể tháng 3/1693), Champa với tư cách là một vương quốc độc lập đã chính thức không còn nữa mà từ đây trở thành một phần thuộc lãnh thổ Đại Việt ta.

            Tuy nhiên, với tâm thức của một bậc thiền sư yêu chuộng nhân nghĩa, hòa bình, chúa Nguyễn Phúc Chu không xem công cuộc chinh phục Champa đến đây đã hoàn tất mà với người, đó mới chỉ là bước khởi đầu của hành trình “an dân” còn muôn vàn gian nan, thử thách phía trước. Hơn ai hết, Nguyễn Phúc Chu nhận chân rất rõ: chỉ khi nào thu phục được lòng dân, chiếm lĩnh được trái tim và khối óc của mỗi người dân Champa, gieo vào lòng họ niềm yêu mến, đồng cảm, khiến cho họ tin tưởng, tự nguyện hòa nhập mình vào mảnh đất và con người Đại Việt thì mới có thể xem như hoàn tất sự nghiệp chinh phục mảnh đất này.

            Từ lòng yêu và sự quý trọng con người, từ tinh thần bình đẳng, từ bi của Đức Phật, chúa Nguyễn Phúc Chu đã không ngừng nổ lực thực thi chính sách “an dân” ở vùng đất mới, nhằm biến Đại Việt thành ngôi nhà chung cho tất cả những người dân nơi đây:

            Để “an dân”, trước hết người ra sức chấn hưng Phật giáo, biến nó thành chỗ dựa tư tưởng, tinh thần chung cho những người dân ở vùng đất mới lẫn cư dân gốc Việt. Với tư cách là người lãnh đạo vùng đất mới, chúa Nguyễn Phúc Chu cũng như các vị chúa khác thời Nguyễn đều nhận thấy phải đưa ra một cái gì đó khác với tín ngưỡng vốn có của người Chăm để củng cố về mặt tinh thần và tâm lý đang “bất ổn” của những di dân Việt. Bấy giờ, Khổng giáo không thể là sự lựa chọn bởi “Những khẳng định cơ bản của Khổng giáo trực tiếp mâu thuẩn với vị trí của họ Nguyễn bị coi là một chế độ ly khai và nổi loạn đối với triều đình” [1;tr.4]. Hơn thế, bản thân họ Nguyễn cũng không dám tìm ra một giải pháp hoàn toàn xa lạ, khác biệt với truyền thống vốn có của người Việt ở phía Bắc. Chính trong hoàn cảnh đầy khó khăn như vậy, Phật giáo Đại thừa[19] đã cung cấp một giải pháp đáp ứng được nhu cầu đang đặt ra cho dòng họ Nguyễn. Nó không chỉ đẩy mạnh được bản sắc dân tộc vốn có của người Việt, làm dịu đi những mối lo âu của những di dân mà còn rất phù hợp với tư tưởng của họ Nguyễn khi mà nó không đặt lại vấn đề về tính hợp pháp của người cai trị trên vùng đất mới.

            Không chỉ trấn an, cố kết nhân tâm trên phương diện tư tưởng nêu trên mà Nguyễn Phúc Chu bằng tâm huyết của một bậc chân chúa đã không ngừng nổ lực làm “an lòng dân” trên cả phương diện chính trị – xã hội:

            Bấy giờ, sau khi đã đánh thắng cuộc nổi dậy chống đối của vua quan Champa, chúa Nguyễn Phúc Chu đã không ngần ngại trao quyền quản lý trấn Thuận Thành (tức vùng đất Champa cũ) cho những người trong dòng tộc Po Saut[20]. Theo đó, Tả trà viên Kế Bà Tử[21] được giao làm Khám lý; ba người con của Bà Ân[22] được giao làm Đề Đốc, Đề Lãnh, Cai phủ và những người này đều được mặc quần áo, trang phục như người Kinh vậy. Hành động trao lại một số quyền hành cho những người trong hoàng tộc Champa của chúa Nguyễn Phúc Chu như vậy quả thật là một hành động hiếm có xưa nay. Hành động ấy của Người ắt sẽ gặp phải không ít những phản ứng của đám triều thần Đại Việt vốn mang nặng tư tưởng kỳ thị, phân biệt chủng tộc lúc bấy giờ. Nhưng vượt lên cái “tự ngã” của chính mình, bằng hành động “dũng cảm” đó, Nguyễn Phúc Chu đã vỗ về phần nào được dân chúng Champa ở vùng đất mới, dần gieo vào lòng họ niềm tin vào chính quyền chúa Nguyễn.

            Tuy nhiên, trong hành trình chinh phục lòng dân nơi đây, chúa Nguyễn Phúc Chu đã gặp không ít sự chống đối, áp lực từ nhiều phía: từ chính trong nội bộ triều đình nhà Nguyễn và đặc biệt từ chính quân và dân Champa. Âu đó cũng là thử thách tất yếu của cuộc hành trình chinh phục lòng dân, nhất lại là chinh phục lòng dân của một vùng đất vừa mới được sát nhập vào lãnh thổ nước mình. Nhưng điều đáng nói ở đây chính là lối hành xử linh hoạt, mềm dẻo và ôn hòa đến tuyệt vời của bậc chân chúa Nguyễn Phúc Chu sau những lần đánh tan âm mưu phục quốc của quan quân Champa.

            Bấy giờ, vào tháng 2 năm 1694, sau khi dẹp xong cuộc nổi dậy phục quốc nổ ra từ tháng 12 năm 1963 của người Champa, Nguyễn Phúc Chu lập tức tìm cách ổn định đời sống và xoa dịu sự phản kháng của dân chúng nơi đây sau nhiều năm loạn lạc, đói kém. Tháng 8 năm 1694, chúa cho đổi phủ Bình Thuận trở lại thành trấn Thuận Thành như cũ và vẫn tiếp tục để cho những người trong hoàng tộc Champa đảm đương một số trọng trách cai trị ở nơi đây. 3 tháng sau, chúa Nguyễn Phúc Chu tiến thêm một bước: phong cho Kế Bà Tử làm phiên vương[23] trấn Thuận Thành mà vẫn để họ hàng năm tiến hành nộp cống cho chúa Nguyễn. Một lần nữa, Nguyễn Phúc Chu đã “dũng cảm” thể hiện niềm tin của mình đối với người Champa khi mạnh dạn giao phó cho họ những vị trí quan trọng. Tất nhiên lòng tin và tinh thần “bình đẳng” hiếm thấy ấy của người sẽ gieo vào lòng người dân Champa thêm niềm tin tưởng, yêu mến vào bậc chân chúa, vào mảnh đất và con người Đại Việt. Từ đó, quyền lực của chúa Nguyễn ở mảnh đất này ngày càng được xác lập vững chắc.

            Từ sự ổn định dần dần về chính trị đã tạo điều kiện cho Nguyễn Phúc Chu tiếp tục hoàn thiện cơ cấu tổ chức hành chính và mọi mặt đời sống xã hội ở nơi đây sao cho thống nhất với toàn xứ Đàng Trong, biến vùng đất Champa cũ thực sự thành một phần máu thịt của đất nước:

            Vào tháng 3 năm 1693, chúa lấy đất từ Phan Rang, Phan Rí trở về Tây chia làm hai huyện An Phúc và Hòa Đa[24]. Đến tháng 10 năm 1714: chúa cho xây nhà công đường theo quy cách của Đàng Trong (tả văn, hữu võ), định thứ tự chỗ ngồi cho các phẩm khi làm việc công và khi xử kiện[25]. Đặc biệt, vào tháng 9 năm 1712, nhận được sự đồng thuận của Phiên vương Thuận Thành là Kế Bà Tử, Nguyễn Phúc Chu cho đặt điển lệ, quy định rõ ràng chế độ, thể thức quản lý đối với trấn Thuận Thành như sau:

            1. Viên quan nào có trạng gì đến cáo ở vương phủ, thì tiền đòi sét mỗi viên tả hữu trà phải nộp 20 quan, mỗi viên tả hữu phan dung phải nộp 10 quan. Đến cáo ở dinh Bình Khang thì mỗi viên tả hữu trả nộp 10 quan, mỗi viên tả hữu phan dung nộp 2 quan.

            2. Phàm người Kinh kiện nhau hoặc kiện với dân Thuận Thành thì do Phiên vương và Cai bạ (Tức quan quản lý ngân khố - TG), Ký lục (tức quan đảm trách về Tư pháp - TG) xử đoán; dân Thuận Thành kiện nhau thì một mình Phiên vương xử đoán.

            3. Hai trạm Kiền Kiền và Ô Cam sai quân canh giữ nghiêm mật đề phòng kẻ gian, người sai đi không được bắt ép dân trạm đài đệ.

            4. Khách buôn đến các sách Man để mua bán thì phải trình với người cai phái tấn sở của nguồn để cấp giấy thông hành.

            5. Dân Thuận Thành xiêu tán đến dinh Phiên Trấn (Gia Định), đều phải trả về cho làm ăn, nên để lòng thương, đừng nên bóc lột hà khắc, cho dân ở yên.[26]

            Rõ ràng, với những quy định ấy, đời sống của dân chúng ở nơi đây ngày càng đi vào nề nếp. Điều đáng nói là những định chế đề ra nêu trên đã một lần nữa tỏ rõ đường lối chính trị cốt “an dân” của chúa Nguyễn Phúc Chu – một đường lối hằng xuyên trong suốt những năm cầm quyền của Người. Những định chế ấy thực sự đã góp phần xóa nhòa hàng rào ngăn cách giữa người dân Champa và người dân Đại Việt, mở rộng đường cho hành trình hòa nhập vào xứ Đàng Trong của cư dân vùng đất mới Champa.

*    *

*

            Vậy là, bằng tâm thức của một bậc Thiền sư, vua Trần Nhân Tông và chúa Nguyễn Phúc Chu – 2 con người ở hai thời kỳ lịch sử khác nhau đã cùng gặp nhau trên hành trình giải quyết một vấn đề chung vốn rất nhạy cảm xưa nay: mối quan hệ với vùng đất Champa. Và trên hành trình ấy, chúng ta thấy thấm đẫm một tinh thần bình đẳng, nhân ái vốn có của Phật pháp. Chính tinh thần này đã giúp Trần Nhân Tông và Nguyễn Phúc Chu chiến thắng cái “tự ngã ” của chính mình, vượt qua bao chông gai, thử thách để đi đến cái đích cuối cùng của cuộc hành trình: đó là chinh phục được mảnh đất và con người xứ Champa.



            TÀI LIỆU THAM KHẢO

1.       Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích). Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990.

2.      Thơ văn Lý – Trần, tập II, quyển Thượng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989.

3.      Thích Đại Sán. Hải Ngoại Kỷ sự, trong Thập thất thế kỷ Quảng Nam chi tân sử liệu, do Trần Kính Hòa xuất bản, Trung Hoa Tùng thư Biên tỉnh ủy viên Hội, Đài Bắc, 1960.

4.      Thi Long. Nhà Nguyễn – chín chúa, mười ba vua, Nxb Đà Nẵng, 1998.

5.      Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ XIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1972.

6.      Lê Mạnh Thát, Trần Nhân Tông – con người và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999.

7.      Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. Đại Việt sử ký toàn thư. Bản dịch Viện khoa học xã hội Việt Nam. Ấn bản điện tử, 2001.

8.      Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

9.      Lương Ninh: Vương quốc Champa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006.

10.  Lê Cung: “700  năm Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế, nghĩ về sự nghiệp của Trần Nhân Tông”. Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 175, tháng 7, 2006.



[1] Theo Ngô Đức Thọ, Nguyễn Thúy Nga (dịch và chú thích). Thiền Uyển Tập Anh, Nxb Văn học, Hà Nội, 1990.

[2] Trần Nhân Tông đã bộc lộ quan điểm tư tưởng về đạo Pháp qua nhiều tác phẩm, tiêu biểu là Cư trần lạc đạo phú. Xem thêm: Thơ văn Lý – Trần, tập II, quyển Thượng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1989, tr.505-510.

[3] Trần Khâm: Cư trần lạc đạo phú (Phú ở cõi trần vui lạc đạo). In trong Thơ văn Lý – Trần, Sdd, tr. 505-510.

[4] Là vị chúa thứ 6 trong 9 đời chúa Nguyễn.

[5] Năm 1695, chúa Nguyễn Phúc Chu đã cho trùng tu chùa Thiền Lâm ở gần phủ Dương Xuân – cung điện mùa đông của chúa, năm 1714, chúa cho trùng tu chùa Thiên Mụ; năm 1715, chúa cho trùng tu chùa Kính Thiên; năm 1721, chúa cho lập chùa ở Giác Hoàng…Xem thêm: Thích Đại Sán. Hải Ngoại Kỷ sự, trong Thập thất thế kỷ Quảng Nam chi tân sử liệu, do Trần Kính Hòa xuất bản, Trung Hoa Tùng thư Biên tỉnh ủy viên Hội, Đài Bắc, 1960, tr.15; Xem thêm: Thi Long. Nhà Nguyễn – chín chúa, mười ba vua, Nxb Đà Nẵng, 1998, tr, 49.

[6] Muốn vào Phú Xuân, dân chúng phải đi qua một Trảng Cát rộng vắng vẻ ở địa phận Hồ Xá, Quảng Trị. Đây là một cánh rừng thưa, bọn trộm cướp thường tụ tập để cướp đoạt tài sản của khách thương.

[7] Hà Văn Tấn, Phạm Thị Tâm. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên – Mông thế kỷ XIII, Nxb Khoa học xã hội, 1972, tr.119

[8] Lê Mạnh Thát, Trần Nhân Tông – con người và tác phẩm, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1999, tr.202.

[9] Ngô Sĩ Liên và các sử thần triều Lê. Đại Việt sử ký toàn thư. Bản dịch Viện khoa học xã hội Việt Nam. Ấn bản điện tử, 2001, tr.218.

[10] Đó là vùng đất Nam Quảng Trị, Thừa Thiên và Bắc Quảng Nam, Đà Nẵng từ Cửa Việt đến Cửa Hàn.

[11] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.219

[12] Ngô Sĩ Liên, Sđd, tr.219

[13] Xem thêm: Lê Cung “700  năm Thuận Hóa – Phú Xuân – Huế, nghĩ về sự nghiệp của Trần Nhân Tông”. Tạp chí Lịch sử Quân sự, số 175, tháng 7, 2006.

[14] Có sử sách nhắc đến với tên gọi Chiêm Thành

[15] Vùng đất này bị kẹp giữa 2 phần lãnh thổ của Đàng Trong là phần đất của chúa Nguyễn ở phía Bắc (Quảng Bình đến Khánh Hòa) và phần đất phía Nam (Thành phố Hồ Chí Minh, Bà Rịa – Vũng Tàu, Biên Hòa ngày nay – nơi rất nhiều lưu dân người Việt đến sinh sống, định cư). Lúc này Chân Lạp đang là nước thần phục, hàng năm phải triều cống cho chúa Nguyễn. Theo: Quốc sử quán triều Nguyễn: Đại Nam thực lục, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội, tr.38 – 104.

[16] Theo Lương Ninh: Vương quốc Champa, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2006, tr.217: vua Champa đắp lũy trên sông Phan Rang, thuộc xã Phú Thịnh, huyện Vĩnh Xương, tỉnh Ninh Thuận ngày nay.

[17] Theo: Đại Nam thực lục, Sđd, tr. 106.

[18] Theo: Đại Nam thực lục, Sđd, tr.107,109: Tháng 8 năm 1693: trấn Thuận Thành được đổi thành phủ Bình Thuận. Đến tháng 8 năm 1694, chúa Nguyễn Phúc Chu lại cho đổi phủ Bình Thuận trở lại làm trấn Thuận Thành.

[19] Đại thừa (大乘, sa. mahāyāna), dịch âm Hán-Việt là Ma-ha-diễn-na (摩訶衍那) hay Ma-ha-diễn (摩訶衍), tức là "cỗ xe lớn" hay còn gọi là Đại Thặng tức là "bánh xe lớn" là một trong hai trường phái lớn của đạo Phật- phái kia là Tiều thừa hay Tiểu thăng, nghĩa là "cỗ xe nhỏ" hay "bánh xe nhỏ" (sa. hīnayāna). Xuất hiện trong thế kỉ thứ nhất trước công nguyên, phái này tự nhận là cỗ xe lớn nhờ dựa trên tính đa dạng của giáo pháp để mở đường cho một số lớn chúng sinh có thể giác ngộ. Cả hai Tiểu thừa và Đại thừa đều bắt nguồn từ vị Phật lịch sử Thích-ca Màu-ni, nhưng khác nhau nơi sự quan tâm về thực hành giáo pháp và tư tưởng. Nếu Tiểu thừa quan tâm đến sự giác ngộ của chính mình thì các đại biểu của Đại thừa mong muốn được giải thoát để cứu độ tất cả chúng sinh (sa. sarvasattva).

[20] Dòng tộc của vua Champa trước đó

[21] Là bầy tôi thân tín của vua Bà Tranh

[22] Là thân thuộc của vua Bà Tranh

[23] Về thực chất, phiên vương trở thành người lãnh đạo về phong tục tập quán và kinh tế hơn là lãnh đạo về chính trị

[24] Theo Đại Nam thực lục, Sđd, tr.111.

[25] Theo Đại Nam thực lục, Sđd, tr.131.

[26] Theo Đại Nam thực lục, Sđd, tr.128.

                                                                                                                          Th.S Nguyễn Thị Mỹ Hạnh

No comments:

Post a Comment