|
Những người tham gia vụ "Hà Thành đầu độc" bị giam trong Hoả Lò Hà Nội. |
|
|
|
Không biết nhân loại đã bao giờ có được những vị đầu bếp xả thân cho cái tráng chí xoay chuyển bánh xe lịch sử như thế chưa? - một nhà sử học danh tiếng rưng rưng vừa như chất vấn tôi - kẻ ngoại đạo - vừa như tự hỏi sự tôn kính của mình, của nhiều người dành cho các tử sĩ không đầu trong vụ "Hà thành đầu độc"...
Lịch sử tiễu trừ giặc Pháp của dân tộc ta, có thể bớt đổ máu nếu như vụ đầu độc binh lính Pháp và nổ súng hiệu cho nghĩa quân Yên Thế ập vào, giải phóng Hà Nội năm 1908 thành công. Nhưng, ngôi mộ tạm mang tên "Hà thành đầu độc" kia từng được đối xử ra sao?
Bức ảnh "Bêu đầu" được chụp ở Hà Nội từ 100 năm trước
Trong cuốn lịch sử "Từ Đà Nẵng đến Điện Biên Phủ" ghi rõ: ngày 27/6/1908, anh em bồi bếp và binh lính người Việt thuộc Trung đội Công nhân pháo thủ Hà Nội đã tổ chức đầu độc binh lính Pháp đóng trong thành để phối hợp với nghĩa quân Yên Thế được bố trí ở bên ngoài nhằm giải phóng thành Hà Nội.
Trong bữa ăn tối định mệnh ấy, toàn bộ 250 binh lính Pháp thuộc Trung đoàn pháo binh và Trung đoàn bộ binh đóng trong Thành bị anh em bồi bếp và binh lính người Việt dùng cà độc dược đầu độc. Song, sự việc bị bại lộ do một trong những người biết việc đi nhà thờ, “xưng tội” với cha đạo (có tài liệu cho rằng, có người đã làm phản), khi anh em chưa kịp bắn súng hiệu. Thực dân Pháp đã tương kế tựu kế, tước hết vũ khí, tống giam nhiều chí sĩ yêu nước.
Một số chí sĩ trong vụ này bị xử chém, bêu đầu tại nhiều địa điểm ở thủ đô. Tuy cuộc mưu chiếm lại thành Hà Nội không thành, nhưng vụ “Hà thành đầu độc” đã làm chấn động dư luận.
Đứng đầu nhóm này là bếp Hiên, còn gọi là Hai Hiên, cùng với bếp Xuân, bếp Nhiếp, tức Nguyễn Trí Bình, đội Cốc tức Dương Bê... Ngày hôm sau, Pháp đem ra xử và khép tội (chém đầu) đối với 13 (có sách nói 12) binh lính và bồi bếp người Việt.
Buồn thay, bánh xe lịch sử vệ quốc của dân tộc đã không chiều lòng 13 vị đầu bếp và binh sĩ trượng phu kia. Sau khi “thoát chết trong gang tấc”, giặc Pháp đã điên cuồng dốc tới 15.000 quân lên núi rừng Yên Thế hòng vây bắt bằng được "hùm xám" Hoàng Hoa Thám (Đề Thám) và nghĩa binh của ông. Nhưng phải mất tới 4 năm hao binh tổn tướng, bị “giời đày” giữa rừng thiêng nước độc, quân Pháp mới khống chế được "Hùm xám" Yên Thế (Đề Thám).
Cuộc khởi nghĩa kết thúc sau 30 năm làm cho kẻ thù bạt vía kinh hồn.
|
“Các ông đội Bình (Nguyễn Chí Bình), đội Nhân (Đặng Đình Nhân), đội Cốc (Dương Bê) cầm đầu vụ Hà thành đầu độc, bị hành quyết ngày 8/7/1908 và người Pháp đã bêu đầu các ông ở Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy và Chợ Mơ”. |
Trong cảm nhận của cá nhân tôi (người viết bài này), một trong những bức ảnh ám ảnh nhất, bi tráng nhất và cũng mang tính báo chí nhất của lịch sử vệ quốc của chúng ta, chính là bức ảnh chụp thủ cấp các vị đầu bếp bị hành quyết sau khi mưu lớn bất thành.
Từ lâu lắm, tôi đã cắt và giữ bức ảnh đó, ảnh chụp ba đầu đặt trong ba cái rọ tre đan loằng ngoằng quặn thớ. Quặn đau tê tái! Thủ cấp được bêu trên vài “cửa ô”, tuyến phố đông đúc nhất của Hà Nội lúc bấy giờ.
Hai thủ cấp nhắm mắt, đầy máu me, một thủ cấp mở mắt, thanh thản, không hề vương sợ hãi. Dưới mỗi cái rọ bêu đầu là những tấm giấy bản chi chít chữ Nho, chắc là giặc nó kể tội người yêu nước Việt Nam rằng họ dám “làm loạn”...
Không biết có giải thưởng báo chí nào đã trao cho bức ảnh thảm thương và đầy tráng chí nam nhi “thước gươm đã quyết chẳng dong giặc trời” đó chưa?
Lời chú thích bức ảnh, ghi như sau: “Các ông đội Bình (Nguyễn Chí Bình), đội Nhân (Đặng Đình Nhân), đội Cốc (Dương Bê) cầm đầu vụ Hà thành đầu độc, bị hành quyết ngày 8/7/1908 và người Pháp đã bêu đầu các ông ở Ô Cầu Dền, Ô Cầu Giấy và Chợ Mơ” (trang 176, cuốn “Từ Đà Nẵng đến Điện Biên Phủ”, NXB Quân đội, năm 2004). Bên cạnh, là bức ảnh chính các vị đầu bếp trong vụ “Hà thành đầu độc” khi bị giam trong Hỏa Lò, Hà Nội, gông cùm lạnh lẽo giết chóc, hơn chục vị ngồi bình thản nhìn vào... người chụp ảnh. Đôi mắt của các vị nhìn vào hàng triệu triệu lượt người xem ảnh suốt 100 năm qua và mãi mãi sau này.
Chỉ một vài ngày sau, họ đều lần lượt bị hành quyết, treo thủ cấp giữa đô thành; nhưng: ánh mắt của họ còn quá trẻ, ai cũng tuấn tú, ai cũng có cái an nhiên tự tại của người đã đắc đạo.
Với người yêu nước Việt Nam, họ là những “Kinh Kha qua sông Dịch” hành thích bạo chúa Tần, kiểu: gió hiu hiu sông Dịch lạnh ghê/ tráng sĩ ra đi không trở về. Với bà con lúc ấy và mãi mãi sau này, họ đã là những người yêu nước bất tử.
Những người ngã xuống không thể ngờ được rằng: gần một thế kỷ sau, con cháu máu mủ của các vị đã vất vả bao năm tìm kiếm phần mộ họ.
Không ngoại trừ cả việc mang đậm màu sắc hoang đường, như vợ chồng ông Khải (con cháu cụ bếp Hiên) gặp những giấc mơ lạ về những cụ ông không đầu về báo mộng. Khi tìm thấy nơi mai táng rồi, việc vinh danh các tử sĩ, chăm chút phần mộ và dựng mấy dòng chữ kỷ niệm các anh hùng vệ quốc ấy lại vô cùng lận đận.
Đến năm 2008 này, nơi tưởng niệm hơn 10 vị đầu bếp độc nhất vô nhị, các bậc nghĩa sĩ quên mình cho non sông gấm vóc nọ, vẫn rất là buồn bã. Muốn thắp nhang cho họ, chúng tôi phải vạch cây cối, đi qua nhà người ta rồi đến cái xó tường nhếch nhác ở vùng Nghĩa Đô (Hà Nội), nơi từng là trại nuôi dê, thấp hơn mặt đường những 50cm, ở đó có duy nhất một ngôi mộ mới được ông Khải quy tập vội vã cùng vài dòng chữ nhỏ, có phần hơi tối nghĩa: “Nơi yên nghỉ của 9 nghĩa sĩ yêu nước trong vụ Hà thành đầu độc thực dân Pháp ngày 27 tháng 6 năm 1908 (13 tháng 9 Mậu Thân)".
Nhiều sử gia đã thống thiết kêu cứu cho di tích “Hà thành đầu độc”, nhưng sự việc vẫn đâu đóng đấy. Không lẽ, chúng ta đã tri ân những người anh hùng vệ quốc của mình một cách như thế ư? Chúng ta đã bước vào năm 2008, thế là tròn trịa một thế kỷ từ ngày những người đầu bếp ngã xuống hy vọng góp phần cứu muôn dân khỏi cái họa “sơn hà nguy biến”, nhân dịp này, chúng ta sẽ làm gì...?
Chuyện kể của con cháu vị đầu bếp lẫy lừng
Ông Nguyễn Văn Khải đã ngót 80 tuổi, vẫn tinh tường đến ngỡ ngàng. Đúng phoóc người làng Cao Xá Trung (huyện Đan Phượng, tỉnh Hà Tây), nơi có làng nghề làm nhiếp ảnh danh bất hư truyền, con cháu lanh lẹ, mở mày mở mặt đi làm ăn hiển đạt khắp “tứ phương ngũ hành” trong cả nước.
Ngồi chống tay trước cằm, ông Khải nhìn tôi dò xét theo cái lối mới của người đời. Lại thêm, ngôi nhà ông ở ven Quốc lộ 2, thuộc vào địa phận thị trấn Đoan Hùng, tỉnh Phú Thọ, xe cộ lúc nào cũng gào rú đinh tai, nhả bụi hỗn hào.
Hình như ông Khải không thể ngờ được, đến một ngày, lại có gã nhà báo lặn lội lên vùng rừng núi này tìm ông. Ông cũng chẳng quan tâm lắm đến cái việc nhiều người ghi nhận ông là người có công tìm tòi, rồi bỏ tiền xây cất nấm mồ chung cho 8-9 vị đầu bếp có công với đất nước, sau gần tròn một thế kỷ các phần mộ bị "thất lạc".
Câu chuyện ông Khải và gia đình kể với tôi, nó mang nhiều màu sắc mê tín, hoang đường, lẽ ra không nên kể lại. Nhưng sự thật là ông Khải đi theo giấc mơ lạ của mình, đã đăm đắm tin vào những điều đó, để rồi ông đã tìm được nơi mai táng 13 vị nghĩa sĩ trong vụ "Hà thành đầu độc". Vậy nên, chúng tôi cứ mạnh dạn kể ra đây để độc giả tham khảo:
Làm nghề chụp ảnh từ nhỏ, từng mở hiệu ảnh “Sơn Vượng” ở Hà Đông. Từ năm 1946 đến khi hòa bình lập lại, năm 1954, ông Khải đi bộ đội quân giới, làm trong các công binh xưởng, đi khắp vùng Bắc Trung Bộ, ông thuộc lòng từng thôn bản đìu hiu nhất ở miền Tây Thanh Hóa. Sau này, mang nghề tổ, lang bạt lên vùng cao lập nghiệp, ông Khải từng giàu có nổi tiếng trong vùng Đoan Hùng, Phú Thọ - bởi cái thương hiệu “Khải photo”.
Cửa hiệu nhà ông treo biển: “Hiệu ảnh Sông Lô”, nằm dưới gốc một cây gạo cổ thụ, cành tán đẹp đến mức, ai đi dọc Quốc lộ 2, cũng phải dõi mắt ngắm nghía. Giờ con cháu ông vẫn phát huy nghề làm ảnh của ông.
Từ cái ngày vùng thượng du sông Lô này còn coi chụp hình là một cái gì xa lạ và vô cùng... xa xỉ, ông Khải đã thống trị thị trường chụp ảnh và bán vật tư ảnh trên toàn khu vực, nên ông đã có những giai đoạn rất giàu có. Khách đông đến mức, mỗi lần ngồi hạch toán, ông lại phải giở một chồng hóa đơn cao ngất ngưởng, kèm theo cả chồng tờ năm trăm (500) đỏ (bấy giờ là loại tiền to).
Ông rất phong lưu. Tiền gửi ngân hàng chán, lại đem ra mua vàng chôn cất trong nhà. Đang rủng rỉnh thì có vị khách thương hồ đi qua rỉ tai ông Khải, bảo: "Bác đang hồi thịnh phát, nhưng sợ chẳng được bao lăm. Bởi có người linh hiển phù hộ cho bác bấy lâu, song bác để người ta nằm lạnh lẽo, chả nhang khói gì. Người này có máu từ cổ chảy xuống ròng ròng".
Ông Khải lúc đầu chẳng tin, sau hai lần đổi tiền, bao công tích cóp của ông hầu như đi tong. Khi ấy, ông Khải vẫn “duy vật” lắm, chưa nhớ tới lời ông khách vãng lai kia. Lúc bấy giờ bà vợ ông Khải mới thẽ thọt: hay là ta đi hỏi xem, có thờ có thiêng, có kiêng có lành. Sao cái lão đi qua nhà năm trước, nói như... ma thế nhỉ.
Đúng thời gian đó, theo ông nói thì ông Khải và cả bà vợ ông liên tục ngủ mê, nói thì bảo “mê tín dị đoan”, nhưng đúng là như có người báo mộng thật. Ông kể: "Tôi mơ thấy một người đàn ông còn trẻ, về tận đầu giường tôi nói chuyện, ông mặc áo dạ, quần dạ. Tôi cố nhìn để nhận mặt, rồi phát hiện ra là ông không có đầu, máu cứ chảy dầm dề từ cổ ra.
Có lần tôi thấy một bộ quần áo đến gần tôi và nói chuyện (không có phần đầu), cứ nói chuyện bình thường nhưng không biết tiếng nói vọng ra từ đâu nữa. Trước khi ra đi, ông còn vẫy tay chào “đi nhé, đi nhé!".
Sau này, bà nhà tôi đi hỏi, người ta bảo, nhà có người chết trẻ, chết chém, phải trông nom. Vợ ông ấy cũng bị chết trong tù, không ai biết chôn ở đâu cả (ý nói vợ của bếp Hiên)”.
Thế là, nhân dịp về quê Cao Xá Trung, ông Khải đem chuyện hỏi người già. “Thì ra, anh ruột ông nội tôi chính là cụ Hai Hiên, thường gọi là bếp Hiên, một trong những đầu bếp tham gia “lãnh đạo” vụ "Hà thành đầu độc". Và đã bị chết chém.
Cái ông máu từ cổ đổ xuống ròng ròng vẫn phù hộ cho tôi là cụ Hai Hiên ư? Tôi tìm đọc lại lịch sử thì đúng như thế thật. Tưởng nhớ cụ bếp Hiên, xã tôi còn giữ gìn cái nhà thờ của các cụ nhà ông Hiên, rồi xóm bên cạnh cũng mang tên là xóm Hai Hiên cơ mà. Vả lại, bà nội tôi từng là người bán rau quanh khu vực trại lính. Bà là người trong cuộc, người biết rất rõ toàn bộ “tiến trình” của vụ "Hà thành đầu độc". Bà tên là Nguyễn Thị Chuyên, người làng Mọc Quan Nhân, là con người vợ lẽ của một ông quan huyện có tài đức, bà nội tôi mất năm 1952”.
“Bà nội tôi còn kể với mọi người rằng: các ông bếp bị hành quyết đúng vào cái dịp... mới lĩnh lương, bà nhớ rõ. Nguyên nhân là do một anh bếp, trước khi vào cuộc dùng quả cà độc dược bỏ vào thức ăn, giết chết mấy trăm người, anh này đã “cắn rứt lương tâm” đi thú tội với cha đạo trong nhà thờ.
Chuyện tai vách mạch rừng, dù vẫn đầu độc được kẻ thù, nhưng chưa kịp nổ súng lệnh, báo cho quân ông Đề Thám tràn vào cướp Hà Nội, thì tất cả đã bị bắt, bị giết. Ông nội tôi ít liên lụy nhưng cũng phải bỏ trốn, vì sợ sự truy đuổi, bà nội tôi bán rau, lân la làm quen bọn lính Pháp trong thành Hà Nội, nên đã nhờ mai mối đút tiền vào để cứu mạng.
Cụ Hai Hiên và một số đầu bếp bị hành quyết ngay sau đó, bà tôi biết, là vì bọn lính nó kháo như vậy. Đến tận bây giờ, bác Ngọ (bằng vai ông Khải) vẫn đều đặn hàng năm làm giỗ, tưởng nhớ cụ Hai Hiên. Ông Ngọ đang sống ở Hà Nội, xóm Dân Chủ, phố Ngô Sỹ Liên (trước là phố Sinh Từ)”.
Hành trình tìm mộ của gia đình Bà bếp Hiên
...Câu hỏi đặt ra là các ngôi mộ nằm ở đâu?
Đến hôm về dự đám tang cô ruột tôi ở quê Đan Phượng, ngồi trên ôtô, tôi đem chuyện giấc mơ kể lại, thì bà chị tôi, bà Cả Thu bảo: Chị có nghe các cụ truyền lại là, mộ cụ Hai Hiên cùng các nghĩa sĩ bị xử trảm đặt tại khu Bãi Bàng, hình như chỗ ấy giờ thuộc về tổ 14, phường Nghĩa Đô, quận Cầu Giấy, Hà Nội.
Tôi đi mò cả tháng trời, không biết tung tích ở đâu, cứ đi tìm vô vọng trong khu vực, tìm đến những “cái gò đất cao cao, chung quanh cũng có nhiều chỏm đất cao mãi lên” như lời bà chị miêu tả, không thấy.
Thì mấy chục năm trời, bà chị ốm đau quên cả lối đến mộ rồi, bao biến thiên, đất cao thành đất thấp là thường chứ có gì là lạ? Ông Khải mới bèn tìm đến nhà người bạn cùng quê, tên là Nguyễn Văn Thắng. Ông Thắng, trước là cán bộ ở phòng nông nghiệp gì đó. Ông ấy bảo, đúng chỗ ấy là Bãi Bàng, mộ các ông chết chém. Cái bãi ấy trước thuộc về đất của Hà Tây, sở dĩ vì có nhiều cây bàng nó mọc xum xuê mà các cụ gọi mãi thành tên.
Một ông già, trước là cán bộ bưu điện, nghe tôi trình bày thì rất hào hứng: “Chỗ kia kìa. Mộ ai chứ mộ cụ Hai Hiên và các chí sĩ, chúng tôi không dám báng bổ xâm phạm. Các cụ truyền lại, bảo rằng đó là những người yêu nước đã bị chém đầu bởi quân thù, sau này đất nước sẽ vinh danh họ. Bố tôi, ông nội tôi, rồi chúng tôi đều nhang khói, trông nom khu mộ của những người chết chém ấy”.
Trước, đất ấy là “thái ấp” của một viên quan tổng đốc oai phong, ông ta được cắt đất thụ lộc, nhưng ông vẫn để các ngôi mộ nằm trong "thái ấp" của mình.
Sau đó, năm 1925, ông Thiếu (thấy kể là người Hà Đông, Hà Tây ngày nay), một viên chức người Pháp đã khéo léo xin với “quan điền thổ”, được cai quản cả vùng đất mênh mông có nghĩa địa Bãi Bàng. Ông Thiếu biến đó thành cái trang trại nuôi bò, dê, ông còn tiến hành di dời 12 (hay là 13) ngôi mộ ra khỏi “điền thổ” của mình. Mộ từ bấy nằm trên một bãi đất bằng, cách trang trại nuôi dê 300m.
Khi giặc Mỹ đánh phá Hà Nội, người ta đào hầm tránh bom, họ “ẩy” mất vài ngôi mộ đi đâu đó; thành thử, khi ông Khải đến, chỉ còn có 9 ngôi. Các ngôi mộ vốn ở một gò đất cao ráo, gần 100 năm trôi qua, gò đất đã thành vũng nước theo đúng nghĩa đen. Bởi đường sá được tôn cao, các ngôi nhà cũng được xây cất khang trang, tự dưng khu nghĩa địa Bãi Bàng trở nên thấp, lụt quanh năm. Lại thêm sự vô lối trong xây dựng, khiến cho cống tắc, các rãnh nước bị bịt hết, các ngôi mộ nằm thấp hơn so với mặt đường những 50cm, khu chôn cất những người đầu bếp anh hùng càng rơi vào... thê thảm.
Các ngôi mộ, giờ nằm trong phần đất sát tường mà để đến được đó, chúng ta nhất thiết phải đi qua địa giới nhà một cụ tên là Nguyễn Đức Tĩnh.
Tìm thấy mộ, ông Khải mừng quá, đôn đáo chạy về quê, xin chính quyền dấu triện, chứng nhận mình là cháu của cụ Hai Hiên, xin phép tôn tạo rồi quy tập tất cả các vị lại, chôn chung trong một ngôi mộ lớn. Chỉ còn lại xương cốt của 8 vị. Ông Khải xúc động nhận ra rằng, tuy bị bỏ bẵng, qua năm tháng như vậy, nhưng bà con ai cũng xúc động và tôn kính sự hy sinh của những người yêu nước đó.
Mộ của những người đầu bếp anh hùng mãi đìu hiu như thế sao?
Nhớ lần trước chúng tôi vào thăm mộ các vị đầu bếp - chống giặc, cứu nước. Ông Thắng, người bạn đã giúp ông Khải tìm được mộ cụ Hai Hiên và những nghĩa sĩ bị hành hình năm 1908, vạch cây thủy trúc mọc hoang dẫn chúng tôi khám phá... nghĩa địa.
Bận đủ thứ việc cũng phải đến 10 năm rồi, ông Thắng mới trở lại thăm ngôi mộ “Hà thành đầu độc”, nơi hoàn toàn xứng đáng là một di tích lịch sử tầm cỡ quốc gia. Cỏ dại mọc lút mộ phần. Chữ viết trên bia bụi phủ kín, mờ đến mức phải dùng vôi miết cọ mãi mới đọc được.
Ông Thắng xúc động tâm sự: Ông Khải xây mộ xong thì ông ấy cũng về Phú Thọ sống, từ bấy bặt tin. Ngôi mộ lại chìm vào... quên lãng. Đôi lần, tôi (ông Thắng) cũng định viết đơn gửi cơ quan chức năng, gửi lên Bộ, lên Trung ương đề xuất là chúng ta nên tôn vinh xứng đáng di tích, công trạng của những chí sĩ trẻ yêu nước này. Nhưng rồi nghĩ lại, tôi làm đơn với tư cách gì nhỉ? Không biết gì về chuyện 100 năm trước, không phải là con cháu ruột rà của các cụ, nghĩ thế, đành thôi.
Việc ông Khải xây lại mộ cũng là rất tâm huyết, mà cũng là rất... bất lực.
Lần nào trò chuyện với tôi, ông Khải cũng khóc, nói một câu của người cổ: “Có máu thì có xót xa”, là các cụ nhà tôi nằm đó, nên tôi xót xa lắm. Tôi đến, bảy, tám, chín ngôi mộ nằm hiu quạnh ở góc vườn, không biết ngôi nào của cụ bếp Hiên nhà tôi. Tất cả người già trong khu vực đều khẳng định đó là những bộ cốt không có... xương sọ. Thủ cấp của các vị, có thể nghĩa quân Yên Thế đã mang đi, ông nội tôi bị đày ra Côn Đảo, bà nội tôi sợ Pháp nó bắt tru di tam tộc, nên không ai dám đến viếng. “Chứ biết rõ thì tôi đã “bê” (di dời) về quê nhà tôi từ lâu rồi. Tôi bèn xây bêtông, quây tất cả vào một ngôi mộ tập thể.
Bấy giờ khó khăn quá, chỉ xây be bé. Rồi tất cả lại chìm trong cỏ dại. Cách đây 2 năm (năm 2006), gia đình chúng tôi lại tổ chức xây lại to gấp đôi lên, gia đình cụ Đỗ Khắc Nhạ (tức Đồ Đàm) có liên lạc với tôi, cùng xây cất” – ông Khải khóc nức nở. Ông Phúc, cháu ngoại cụ bếp Hiên, người trực tiếp đứng ra “gõ cửa” nhiều cơ quan chức năng xin phép được xây cất ngôi mộ thì than thở: “Tôi vừa về quê, xây mộ bố tôi, tôi không khóc, vì thấy rất là toại nguyện. Nhưng, để tôn tạo được “di tích” này như hôm nay, tôi đã nhiều lần bật khóc vì... gặp khó khăn”. Tôi đã có đơn gửi nhiều cơ quan hữu quan, xong, không ai giúp chúng tôi được một viên gạch, đấy là chưa kể những người gây khó dễ mà chúng tôi không tiện kể ra đây.
Cần phải hiểu, vụ “Hà thành đầu độc” là một ý định lớn dùng cà độc dược giết hàng trăm tên địch ngay tại bàn ăn của chúng rồi phối hợp với các cánh quân cướp thành Hà Nội là kế hoạch táo bạo của cụ Đề Thám và những người đầu bếp hòng xoay chuyển thế cục chống Pháp lúc bấy giờ. Một sơ suất nhỏ đã làm nghiệp lớn tan tành. Nhưng, cũng chỉ một tích tắc nữa thôi, họ sẽ là những người hùng hát khúc khải hoàn nếu “Hùm thiêng Yên Thế” chiếm được thành Hà Nội.
Cần hiểu, năm 1908, khi đó, cụ Đề Thám và các nghĩa binh oai dũng của ông đã 25 năm xuất quỷ nhập thần làm cho giặc Pháp “táng đởm kinh hồn”, việc lật ngược thế cờ không có gì là huyễn tưởng cả.
Trở lại với cái việc nằm chờ được khang trang, được vinh danh với tư cách một sợi chỉ đỏ trong bức tranh lịch sử Vệ quốc Việt Nam của các ngôi mộ (nay, thực chất là một ngôi với các bộ di cốt).
Ngôi mộ nằm trong khuôn viên của khu đất mà cụ Nguyễn Đức Tĩnh và gia đình đang sinh sống. Nói nôm na là nằm trong góc vườn um tùm nhà cụ Tĩnh. Cụ Tĩnh, năm 2008 này, đã bước sang tuổi 88, là người am hiểu và rất nặng lòng với chứng tích quý hóa của vụ “Hà thành đầu độc”. Ngặt vì sức yếu, anh Nguyễn Đức Thành, con trai cụ Tĩnh đã phải đỡ lời bố. Anh Thành 50 tuổi, là giáo viên dạy văn ở Phú Thượng, là người hiểu đời, hiểu sử, nên cái khúc “hậu” của trang sử bi tráng liên quan đến các vị đầu bếp yêu nước đã làm anh trăn trở nhiều.
Anh Thành cho biết, miếng đất có phần mộ đã trải qua nhiều biến động, nó bị thu hẹp khá nhiều do những nhập nhằng trong xây dựng gần đây.
Khi gia đình các vị đầu bếp đến thăm và xây cất (không phải chỉ một mình ông Khải), anh Thành, cụ Tĩnh đều rất ủng hộ. Bản thân họ cũng tổ chức thắp nhang, tưởng nhớ. Việc tri ân những tử sĩ vì nước quên thân này, đã được bà con âm thầm thực hiện từ thời... thuộc Pháp đến giờ (trước, thắp nhang ở đó, có thể bị giặc Pháp xử chém thị uy).
Quả thật, sau khi ông Khải xây cất lại khu mộ, và nhiều sử gia tha thiết lên tiếng, Phòng Văn hóa - Thông tin quận Cầu Giấy, Hà Nội đã từng đề nghị với gia đình cụ Tĩnh cho phép gắn biển mộ như một di tích lịch sử tại... vườn nhà cụ. Dù rất trân trọng ý kiến này, tri ân những người nằm trong... khuôn viên nhà mình, nhưng, gia đình anh Thành vẫn rất băn khoăn chưa biết quyết thế nào.
Theo tôi, nếu Nhà nước và chính quyền địa phương có sự quan tâm chỉ đạo thì nên làm theo hai giải pháp sau đây: một là, tạo một con đường mới (không đi qua nhà anh Thành) để những ai tưởng nhớ đến ngôi mộ của 12 tử sĩ trong vụ "Hà thành đầu độc" có thể vào thắp nhang, thực hiện các hoạt động tôn vinh và tri ân. Chứ không nên đi qua nhà anh Thành để vào di tích.
Cách thứ hai là Nhà nước nên tạo điều kiện di chuyển ngôi mộ lịch sử này đến một khu đất mới để xây dựng thành di tích lịch sử cho khang trang, ý nghĩa, thì mới xứng tầm. Bởi cái chỗ mà ngôi mộ đang tọa lạc hiện nay cũng không phải chính là nơi các vị đã được mai táng sau khi bị hành quyết (như đã kể ở trên, vị trí đó cách vị trí hiện nay 300m).
Cần một nơi yên nghỉ xứng đáng với các chí sĩ Hà Thành
Hình như chưa nhận thức được các giá trị này, hình như chỉ cốt ra văn bản, có ý kiến lấy lệ để đối phó với sự kêu gọi da diết của các nhà sử học và những người nặng lòng với sự kiện “Hà Thành đầu độc”...; cho nên, mọi việc, cho đến nay vẫn giậm chân tại chỗ. Nghĩa là chúng ta vẫn tưởng nhớ các vị đầu bếp bất tử của non sông Việt Nam trong... góc vườn nhà ông Tĩnh.
Cơ quan hữu quan ở Hà Nội, các nhà sử học, các nhà văn hóa nên vào cuộc một cách thực sự, cụ thể và tâm huyết, ngõ hầu giải tỏa những “ách tắc” trên con đường phấn đấu cho sự kiện “Hà thành đầu độc” một ngôi mộ xứng tầm, một khu tưởng niệm, một phù điêu - tượng đài tri ân như cần phải có, một thái độ ứng xử làm sao không phụ lòng các vị đã ngã xuống - những bậc quốc sĩ trong vai trò bất đắc dĩ phải làm bồi bếp cho quân Pháp. Tôi thấy bị tổn thương, thấy buồn hiu hắt khi rụt rè xin đi qua nhà anh Thành thăm mộ, vạch cỏ dại để đọc những dòng chữ giản dị gợi về một sự kiện lịch sử bi tráng.
Cuối cùng, vẫn cần phải sòng phẳng: các nhân chứng cao tuổi trong vùng đều kể, hồi đào hầm tránh bom Mỹ, người ta đã phát hiện những bộ tiểu có cốt mà không có xương sọ (của những người chết chém) ở đúng nơi này.
Nhà sử học Dương Trung Quốc từng đến viếng mộ, từng nói với các nhà báo chúng tôi: "Di tích liên quan đến vụ "Hà thành đầu độc" này là một di tích quý, cần bảo vệ và tôn vinh xứng đáng". Từ đời cha ông không ít cư dân nặng lòng với sự kiện “Hà thành đầu độc” trong khu vực, đều truyền lại câu chuyện không thể nghi ngờ như đã kể ở trên; song, vẫn chưa có một động thái “giám định” kiểu giấy trắng mực đen nào liên quan đến “di tích”.
Không lẽ, đúng 100 năm sau khi các chí sĩ hy sinh, mà phần mộ của những người vì giấc mộng đẹp và lớn - giải phóng Hà Nội, giải phóng Việt Nam khỏi tròng ách thực dân - vẫn cứ bị đối xử chưa công bằng như thế? Nhưng rồi, nói như người của thời cụ bếp Hiên còn mặc quần xanh, áo xanh, cưỡi ngựa bạch về làng: Người ta, há lại hành xử với các ân nhân “độ mạng” của mình thếë mãi ru?
Ông Phùng Trịnh Hùng, 76 tuổi, tổ trưởng tổ dân phố 15, xóm 2, Nghĩa Đô, Cầu Giấy, Hà Nội (nơi có ngôi mộ trên) cho chúng tôi biết: Gia đình anh Thành sống ở khu đất có mộ của các vị đầu bếp từ lâu. Họ có ý thức bảo quản giữ gìn, chưa bao giờ có thái độ, ý định lấn chiếm, di dời khu mộ đi chỗ khác.
Khi con cháu cụ bếp Hiên tìm đến để xây cất, gia đình rất nhiệt tình tạo mọi điều kiện cho họ được xây dựng kiên cố hóa khu mộ. Về phía chính quyền địa phương cũng nhận thức rõ được giá trị lịch sử của khu mộ trên nên đã cho gắn biển chỉ dẫn vào khu mộ cụ bếp Hiên rất cẩn thận (biển chỉ dẫn được gắn ngay tại bức tường trước cổng đi vào làng, cách mộ 300m).
Nguyện vọng của chính quyền địa phương rất muốn Nhà nước tôn vinh xứng tầm giá trị của ngôi mộ liên quan đến sự kiện trong cuộc kháng chiến chống Pháp
Đỗ Doãn - Anh Phương
|
No comments:
Post a Comment