Roland JACQUES
Trong văn liệu tiếng Việt có liên hệ với Phương Tây, viết trong khoảng từ thế kỷ 17 đến đầu 19, chúng ta thường gặp từ ngữ ‘Hoa Lang’ (không thanh điệu), nhất là trong tổ hợp ‘Hoa Lang đạo’ thuở ấy được dùng để chỉ đạo Thiên Chúa (Cơ đốc giáo). Chúng ta dễ hiểu rằng ‘Hoa Lang đạo’ được coi như thứ tôn giáo riêng biệt của những người ‘Hoa Lang’, của dân tộc, của nước ‘Hoa Lang’. Nhưng ‘Hoa Lang’ chính xác là nước gì, là dân tộc gì? Trên cơ sở những tư liệu mới phát hiện được tôi muốn trình bày về nguôn gốc và ý nghĩacác tên gọi ‘Hoa Lang’ và ‘Hoa Lang đạo’.
1. Một số biện giải kém giá trị
Cả thế kỷ 20 và hiện nay, hình như chúng ta hơi khó hiểu xuất xứ của nó. Các nhà sử học cũng đã đưa ra một số giả thuyết táo bạo hoặc hư ảo về từ này, mà nhà ngôn ngữ học thấy có nhiệm vụ phải xác minh.
1. Có người cho rằng Hoa Lang là những ông lái buôn trẻ tuổi (‘lang’) đã vào Việt Nam bán một loại vải có hình hoa; hoặc là những ông lái ấy không còn trẻ lắm, nhưng lại đã bán một loại vải có hình hoa khoai lang[1]. Theo quan niệm cụ thể của họ, Hoa Lang là những người Tây Ban Nha hoặc Bồ Đào Nha.
2. Cũng có người cho rằng từ Hoa Lang chỉ chung về các người Phương Tây, mà tiêu biểu là người Hà Lan[2] ; theo như họ giải thích, thủy thủ Hà Lan là những người phương Tây đầu tiên đã tiếp xúc với Việt Nam. Về mặt ngữ âm học thật khó hiểu vì sao hai chữ ‘Hà Lan’ (hoặc ‘Hòa Lan’) đã được đọc thành ‘Hoa Lang’, hay là ngược lại; nên cótác giả đã tự ý ‘sửa chữa’ những bản văn chính gốc, bằng cách thay thế từ ngữ ‘Hoa Lang’ thành ‘Hòa Lan’, ‘Hà Lan’[3] .
Giả thuyết thứ nhất là sự tưởng tượng của người chỉ có nguồn văn liệu phương Tây. Một sự tưởng tượng thật là khó tin. Để hiểu rõ xuất xứ của tên gọi ‘Hoa Lang’ mà chỉ dựa vào văn liệu phương Tây là chưa đủ, còn phảicần đến thế giới chữ vuông.
Giả thuyết thứ hai, hiện nay đang được phổ biến tại Việt Nam, lại đáng nể vì hơn, vì có nguồn gốc khá cổ, lại gắn với tên tuổi một nhân vật lịch sử có kiến thức về Đông phương học. Năm 1856 vua Dực Tông (Tự Đức) đã ủy nhiệm một hội đồng, do Phan Thanh Giản làm tổng tài (chủ bút), soạn lại Quốc sử Việt Nam. Năm 1859 việc này đã hoàn tất, và vào năm 1884 được in mộc bản, nhan đề là Khâm định Việt sử thông giám cương mục[4]. Về năm quý mão, năm Cảnh Trị thứ nhất đời vua Lê Huyền Tông, tức là 1663, sách này có đề mục (‘cương’) là : « Thân cấm Gia tô tả đạo », nghĩa là « Việc cấm tả đạo là Kitô giáo ». Rồi bày tỏ (‘mục’) là : « Tiên thị hữu Tây dương nhân hiệu Hoa Lang di nhập cư quốc trung dĩ Gia tô dị đạo cuồng dụ ngu dân... », nghĩa là : « Trước đấy có người nước ngoài thuộc phương Tây, được gọi là ngoại bang Hoa Lang, đã nhập cư vào nước này đem dị giáo là Kitô giáo, lừa bịp dân ngu đi theo... »[5]. Sau đó ủy ban Phan Thanh Giản đã thêm vào một chú thích (‘chú’) là : “Hoa Lang : Minh sử ngoại quốc truyện vị chi Hòa Lan diệc tại Tây dương giả tục ngoa vị Hoa Lang »[6] , nghĩa là : “Cuốn Ngoại quốc truyện của Minh sử[7] ghi họ là Hòa Lan, cũng thuộc về phương Tây; nhưng tục lệ sai lầm [biến đổi tên này] thành Hoa Lang ».
Cho dù kính trọng công việc của Phan Thanh Giản, nhưng không thể chấp nhận giả thuyết này được, vì đi ngược với các số liệu lịch sử. Thời Minh, Hà Lan chiếm được đảo Đài Loan, nên Minh sử cần phải quan tâm đến nước ấy, nhưng sách ấy cũng nhắc đến ngoại bang phương Tây khác, ghi bằng tên khác, như chúng ta sẽ thấy sau này[8] .
Thực thế người phương Tây đầu tiên đến Việt Nam, và cả Trung Hoa, là người Bồ Đào Nha; gần 80 năm sau, người Hà Lan mới tới, và tên gọi Hoa Lang đã có từ trước. Quả vậy, năm 1514, tàu buồm Bồ Đào Nha đến Trung Hoa, và năm 1524 đến Việt Nam lần đầu tiên. Đến khoảng năm 1580 đã có những quan hệ thương mại thường xuyên giữa người Bồ Đào Nha trú ở Áo Môn (Macao) với xứ Đàng Trong của chúa Nguyễn Hoàng[9]. Trái lại, năm 1579 nước Hà Lan (tức là Liên minh các Tỉnh Hạ Lưu), trước đấy là một phần của lãnh thổ Tây Ban Nha, mới tuyên bố độc lập; mãi đến 1599 tàu buôn của Hà Lan mới vượt bán đảo Mã Lai đi vào vùng Biển Đông; và đến năm 1601 họ mới đến thử vận may tại Việt Nam, nhưng không thành công[10]. Hơn nữa, thời đó ở Việt Nam đạo Thiên Chúa đã bắt đầu được truyền bá ở một số vùng[11]; còn ở Hà Lan đang bị cấm, và tôn giáo chính thống lại là đạo Tin lành. Mãi đến cuối thế kỷ 19, đạo Tin lành mới có mặt ở Việt Nam.
Rồi về mặt ngữ âm học thật khó hiểu vì sao hai chữ ‘Hòa Lan’ (hoặc ‘Hà Lan’) đã được đọc thành ‘Hoa Lang’. Đáng tiếc là có tác giả,trái với Cương mục, đã tự ý ‘sửa chữa’ những bản văn chính gốc, bằng cách thay thế từ ngữ ‘Hoa Lang’ thành ‘Hòa Lan’, ‘Hà Lan’[12] . Trong đó vào thế kỷ 17 người Việt Nam chưa có tên gọi ‘Hoà Lan / Hà Lan’; họ gọi nước đó là ‘Lan’, và dân đó là ‘LanĐê’, phiên âm tên gọi của họ trong tiếng Bồ Đào Nha[13] .
2. Tên gọi “Hoa Lang” đã xuất hiện trong tiếng Việt từ bao giờ?
Cho đến nay cuốn sách nổi tiếng của giáo sĩ Christoforo Borri[14] có lẽ vẫn là tài liệu in sớm nhất ghi lại sự xuất hiện tên gọi ‘Hoa Lang’. Sách này, viết bằng tiếng Ý, in năm 1631 tại châu Âu; có một câu được tác giả dẫn ra bằng tiếng Việt, phiên âm theo nguyên tắc thường dùng của tiếng Ý một cách hơi vụng về, nhưng lại dễ đọc đối với độc giả người : “Con gnoo muon bau tlom laom Hoalaom chiam? », nghĩa là “Con nhỏ muốn vào trong lòng Hoa Lang chăng?[15] ». Sau Borri, có nhiều giáo sĩ khác cũng cho rằng dân chúng Việt Nam gọi họ, và thứ tôn giáo mà họ đang truyền bá, bằng tên đó.
Trước Borri mấy chục năm, trong cuốn Đỗ Tộc Gia Phả, làng Bồng Trung, huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa, có nhắc đến một người duy nhất trong họ đã theo một tôn giáo khác : “Nhị nam Hưng Viễn tùng Hoa Lang đạo », nghĩa là “Con trai thứ là Hưng Viễn, theo đạo Hoa Lang »[16]. Chuyện này xảy ra thời vua Lê Anh Tông (1558-1571), còn cuốn Gia phả dòng họ Đỗ được ghi vào những năm cuối thế kỷ 16, trước khi chuyến tàu đầu tiên của người Hà Lan tới. Đây là một tài liệu rất đáng chú ý, là tài liệu chính gốc bản địa, do người bản địa viết bằng chữ vuông. Cũng như trước đây, để hiểu rõ hơn ý nghĩa chính xác của tên gọi ‘Hoa Lang’ mà chỉ dựa vào văn liệu Phương Tây là chưa đủ, còn phải cần đến thế giới chữ vuông. Nói đúng hơn, nên có mối trao đổi văn hóa tương hỗ rộng lớn giữa Phương Đông với Phương Tây.
3. Tên gọi “Hoa Lang” có nghĩa chính xác là gì?
Văn bản đầu tiên giải thích tên gọi đó trong tiếng Việt hình như là cuốn Phép giảng tám ngày của Alexandre de Rhodes, in năm 1651[17]. Ông viết : “Chớ có nói, đạo này là đạo pha lang », và bên cạnh chính ông đã dịch ra tiếng La tinh là : “Neque verò dicatis hanc esse Lusitanorum legem », nghĩa là “đừng nói đây là tôn giáo của người Bồ Đào Nha ». Dị bản là ‘Pha lang’ thay thế ‘Hoa Lang’ có ích lớn về mặt ngôn ngữ học, như chúng ta sẽ thấy sau đây.
Các tư liệu cho đến nửa thế kỷ 18 mà tôi đã xem được đều cắt nghĩa rất rõ ‘Hoa Lang’ là một tên gọi riêng người Bồ Đào Nha (Portugal) mà thôi, chứ không bao gồm cả những người Tây phương khác.
Đến năm 1774, có một lá thư do một giáo sĩ người Việt, tên là Vi-xen-tê Liêm, gửi một giáo sĩ người Tây Ban Nha, viết bằng chữ Quốc ngữ, và cùng thời đó đã được người Tây Ban Nha dịch ra tiếng La tinh[18]. Thư này kể lại cuộc gặp gỡ giữa chúa Trịnh Sâm (1767-1786) với một giáo sĩ Tây Ban Nha khác. Chúa hỏi : “Vua Hoa Lan có một thùng thủy tinh để mà tắm gị[19], có chăng? ». Bản tiếng La tinh đã dịch ra theo nghĩa thông thường là : “Fertur, quod Rex Lusitaniộ magnum vas vitreum ad baleum habet. Estne certum? », tức là : “Người ta cho rằng Vua Bồ Đào Nha có... ». Nhưng chúng ta có thể dễ dàng thấy người hỏi không phân biệt Tây Ban Nha với Bồ Đào Nha; và từ ‘Hoa Lang’ đã bị nói, hoặc chép lại, chệch thành ‘Hoa Lan’, có thể dưới ảnh hưởng của tiếng ‘Lan’. Nghĩa chính xác là ‘Bồ Đào Nha’ đã dần dần phát triển thành một nghĩa rộng, chỉ người Âu châu theo đạo Thiên Chúa, rồi chỉ người Phương Tây nói chung.
Đúng ra là phải khen từ điển của Taberd [20] , xuất bản năm 1838 nhưng soạn trên cơ sở bản thảo do Bá Đa Lộc (Pigneau de Béhaine) hoàn tất năm 1772, cắt nghĩa thật hoàn hảo : ‘Hoa Lang’ là “Người Bồ Đào Nha »; và ‘đạo Hoa Lang’ là “Tôn giáo của người Bồ Đào Nha tức là Cơ đốc giáo ». Nhưng mà từ khoảng năm 1802, tàu Bồ Đào Nha đã về Áo Môn không quay lại nữa[21], đem theo cả những kỷ niệm của những người Bồ này đã không còn bóng dáng ở chân trời đất Việt[22]. Với họ, nghĩa chính xác của từ ‘Hoa Lang’ cũng đã bị mất đi. Nhóm soạn Khâm định Việt sử thông giám cương mục đã tìm đến Quốc sử Trung Hoa (Minh sử), nhưng giải thích không đúng. Còn từ điển của Huỳnh Tịnh Của[23] cắt nghĩa như sau : “Người nước Hoa Lang, hiểu chung là Lữ-tống ». ‘Lữ-tống’, và ‘Đại Lữ-tống’, lại được định nghĩa là : “Nước Maní », tức là Phi-líp-pin[24] , và “nước Y-pha-nho », tức là Tây Ban Nha[25] . Các sai lầm của Phan Thanh Giản và của Huỳnh Tịnh Của đã kéo theo sai lầm của những người sau. Mặt khác, những từ điển tiếng Việt biên soạn về sau, kể cả Hán Việt tự điển của Đào Duy Anh[26] , đã không thu thập các từ ngữ này[27], tuy thế tới nay tên gọi ‘Hoa Lang đạo’ vẫn còn tồn tại ở một số vùng[28] .
4. Tên gọi “Hoa Lang” có nguồn gốc là gì?
Chúng ta đã xác định đúng đắn nghĩa của từ ‘Hoa Lang’ được dùng trong tiếng Việt thế nào, nhưng chưa hiểu biết được nguyên ủy của nó, và cách nó đã nhập vào từ vựng của người Việt thế nào.
Gốc xa xăm đã bắt nguồn bởi từ ‘Francs’, ‘Franken’, ‘Franchi’; các từ này tồn tại trong các ngôn ngữ châu âu, chỉ một dân tộc gốc Đức, tức là người Frăng. Họ là nền móng của đế quốc Saclơmanhơ (Charlemagne), khoảng năm 800 thống trị phần lớn Tây âu. Thuở đó, người Ả rập theo Hồi giáo, đã gọi địch thủ này của họ là ‘al-Ifranji’ (số nhiều) – tiếng ‚ Rập không có tổ hợp phụ âm đầu ‘fr’, nên phải thêm nguyên âm ‘i’ ở trước –; rồi từ đó lại thành ra ‘Faranji’ (số ít) theo nguyên tắc tiếng Ả Rập. Thời có các cuộc thập tự chinh (1096-1254), đạo binhTây âu, ghi dấu Thánh giá lớn trên các áo giáp và trên cờ hiệu, tiến đánh đế quốc Hồi giáo để giải thoát Thánh Địa và thành Giêruxalem. Như thế, tên gọi ‘Ifranji / Faranji’, được phổ biến ở các vùng Trung Đông, là từ phiên âm để gọi quân thù[29]. Cần chú ý là ở một số phương ngữ của tiếng Ả rập, phụ âm cuối ‘j’, / d /, được đọc như / g /.
Cuối thế kỷ 15, đầu thế kỷ 16, khi tàu thuyền Bồ Đào Nha vượt mũi Hảo Vọng vào Ấn Độ Dương, các cánh buồm cũng có những hình Thánh giá rất to. Thực tế, tư tưởng thập tự chinh vẫn còn mạnh trong giới cầm đầu; họ vẫn hy vọng chinh phục được người Hồi giáo. Quả thế, người Bồ Đào Nha đã thống trị trên biển, rồi chiếm được một số pháo đài, hải cảng, địa điểm thương mại chính của chính quyền Hồi giáo ở Ba Tư và Ấn Độ. Thời kì này đã kết thúc vào năm 1511 khi họ chiếm thành quốc Malaca ở bán đảo Mã lai, là đầu mối giao thông giữa Tây phương và Ấn Độ với Nam Dương, Trung Hoa và Nhật Bản[30]. Thủ lĩnh Hồi giáo của Malaca đã chạy trốn, và tiếng kinh sợ khi dùng gọi người Bồ Đào Nha là ‘quân thập tự’ – ‘Ifranji / Faranji’ (hoặc ‘Ifranghi / Faranghi’) – , đã thành tên gọi phổ biến tại địa phương. Xuất phát từ tiếng Ả Rập, tiếng Ba Tư, hai cặp từ này cũng đã du nhập vào các thứ tiếng cùng tồn tại trong dân cư và thủy thủ từ tứ phương lập thành thành quốc Malaca[31].
Nhưng bên này bán đảo Mã Lai, sau năm 1511, chính sách của Bồ Đào Nha đã hoàn toàn khác : họ cố gắng giao hảo với chính quyền địa phương, kí hiệp ước hữu nghị và thương mại[32], nên tiếng dùng để gọi họ cũng đã mất đi cái sắc thái hằn học và hãi hùng. Ở Malaca, theo các tài liệu cũ, tên gọi người Bồ là ‘Frangue(s)’, / fra .g / (theo mẫu ‘Ifranghi’, đã mất đi nguyên âm phụ trợ ở đầu). Trong tiếng Mã lai và In-đo-nê-xia hiện nay vẫn còn sử dụng từ ‘Perenggi’[33] , còn tiếng Thái Lan thì dùng từ ‘Farang’ (cả hai theo mẫu ‘Faranghi’), để gọi người âu châu với sắc thái hơi coi thường; và tại những nước đó, đạo Thiên Chúa cũng bị gọi là tôn giáo của người ‘Perenggi’ hoặc ‘Farang’[34] .
Thành phố Malaca thời bấy giờ gồm có ba phường của người Trung Hoa, một của người Phúc Kiến, một của người Chương Châu, và một của người Quảng Châu. Nhờ họ, tiếng ám chỉ người Bồ Đào Nha đã sớm được truyền đến nhiều vùng ở Trung Hoa, và chắc chắn được ghi lại nhờ những chữ thích hợp theo từng phương ngữ. Năm 1517, một học giả tự nhiên học tên là Tomé Pires, người Bồ, được phái từ Malaca sang Bắc Kinh trong một phái đoàn ngoại giao, đã gặp chuyện chẳng lành. Mục thời luận Minh sử năm Chính Đức thứ 16 (1521) còn nhắc đến một khẩu đại bác, có tên gọi là ‘Fu-lang-chi’, dạo ấy bị tước đem về Bắc Kinh trình lên hoàng đế Vũ Tông; nhưng sau xác định tên đó nghĩa đen là tên gọi một loại ‘dương nhân’ (người nước ngoài), chứ không phải một loại pháo[35]. Chuyện này cũng được truyền lại trong niên giám vương triều Bồ Đào Nha thời Vua Giu-ong (João) III (1521-1557), nói về việc người Trung Hoa đã lấy mẫu khí giới Bồ Đào Nha để đúc theo, và gọi tên loại khí giới đó là ‘feringui’, / f .ri .gi /[36]. Từ ‘faranji’ dến ‘fu-lang-chi’ không xa. Tiếng Trung Quốc thường lệ đọc chữ / r / trong các từ ngoại ngữ thành / l /, và nguyên âm đầu phụ trợ bị thay đổi là điều cũng rất dễ hiểu.
Vả lại từ ‘fu-lang-chi’ chuyển sang ‘hoa lang’ cũng khá gần gũi. Có thể chữ thứ ba bị bỏ đi vì được coi như chữ chi’ là một trợ từ vô nghĩa, hoặc là dùng giữa định ngữ và danh từ trung tâm trong tiếng Hán cổ, nghĩa là ‘của’ : ‘Fu lang chi pháo’ là ‘súng đại bác của người Fu lang’. Có một giả thiết khác song song với dạng tiếng Ả rập hoặc Mã Lai, từ ‘Farang’ của tiếng Xiêm cũng được truyền miệng đến Trung Hoa. Nếu đúng, thì riêng tiếng ‘Farang’ này được người Quảng Đông phiên âm bằng chữ Hán. Về sự luân phiên ‘rang / lang’ thì chúng ta đã biết rồi. Và trong phương ngữ Quảng Đông, chữ Hán Việt ‘Hoa’ được đọc là ‘Fa’[37]. Từ Quảng Đông sang Việt Nam hồi giữa thế kỷ 16, thì có cả hai dạng, đều dùng để gọi người Bồ Đào Nha, và sau đó cũng để chỉ tôn giáo mà họ ‘rao giảng’. Dạng truyền miệng là ‘Falang’, được ghi bằng chữ Quốc ngữ là ‘Pha lang’, đúng như Alexandre de Rhodes đã viết trên sách Phép giảng tám ngày của ông; và dạng viết bằng chữ vuông, được người Việt đọc là ‘Hoa Lang’, sau đấy được phổ biến ở nhiều vùng tại Việt Nam.
[1] Xem, chẳng hạn Nguyễn Hồng, Lịch sử truyền giáo ở Việt Nam, q. 1, NXB Hiện Tại, 1959, tr. 23; Đỗ Quang Chính, Joseph, SJ, Lịch sử chữ Quốc ngữ 1620-1659, Sài Gòn, Ra Khơi, 1972, tr. 31.
[2] Mới đây có Hoàng Tiến, Chữ Quốc ngữ và cuộc cách mạng chữ viết đầu thế kỷ XX, q. I, Hà Nội, NXB Lao động, 1994, tr. 39-40.
[3] Xem, chẳng hạn Hồng Lam, Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam thế kỷ XVI-XVIII, Huế, Đại Việt, 1944, tr. 105.
[4] Xem bài của Philippe Langlet, “Un Etat national au sein de la civilisation chinoise”, trong Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises [BSEI], tập 45/2-3, Sài Gòn 1970 (tr. 2-85): tr. 5-6.
[5] Xem Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính biên, quyển 33, trang 5b. Nguyên bản chữ Hán trong BSEI, tập phụ thêm số 45/2-3, Sài Gòn 1970, tr. 9; bản do P. Langlet dịch ra tiếng Pháp và chú thích, trong BSEI, tập 45/2-3, Sài Gòn 1970, tr. 100. Xem thêm Khâm định Việt sử thông giám cương mục, bản do Viện sử học Việt Nam dịch ra tiếng Việt, tập 16, Hà Nội, NXB Văn Sử Địa, 1960, từ tr. 1509.
[6] Xem Khâm định Việt sử thông giám cương mục, chính biên, quyển 33, trang 6a. Nguyên bản chữ Hán trong BSEI, tập phụ thêm số 45/2-3, Sài Gòn 1970, tr. 9; bản do P. Langlet dịch ra tiếng Pháp và chú thích, trong BSEI, tập 45/2-3, Sài Gòn 1970, tr. 101-102.
[7] Xem Minh sử, quyển 321. Mục thời luận Minh sử được biên tập từ năm 1679, hoàn tất vào năm 1742.
[8] Xem Minh sử, quyển 325.
[9] Xem, chẳng hạn Pierre-Yves Manguin, Les Portugais sur les côtes du Viêt-nam et du Campa, Etude sur les routes maritimes et les relations commerciales, d'après les sources portugaises des XVIe, XVIIe et XVIIIe siècles, Pari, E.F.E.O., 1972.
[10] Thư mục về các cuộc hành trình phát kiến của các nước châu Âu thật quá phong phú. Xem, chẳng hạn W.J.M. Buch, “La Compagnie des Indes néerlandaises et l'Indochine”, trong Bulletin de l’E.F.E.O., số 36, năm 1936, tr. 97-196.
[11] Sách Khâm định Việt sử thông giámcương mục, ở chỗ đã dẫn, trang 6b, có thêm một chú thích khác là: « Gia tô: Dã lục Lê Trang Tôn Nguyên hòa nguyên niên tam nguyệt nhật dương nhân danh Y nê khu tiềm lai Nam Chân chi Ninh Cường Quần Anh Giao Thủy chi Trà Lũ dĩ Gia tô tả đạo truyền giáo... », nghĩa là : « Các sách dã lục [tức là dã sử] chép rằng vào năm Nguyên hòa thứ nhất, tháng ba, ngày..., đời vua Lê Trang Tông, [tức là năm 1533], có một người nước ngoài tên là Y-nê-khu lén lút tới các làng Ninh Cường vàQuần Anh ở huyện Nam Chân [nay thuộc xã Trực Phú và thị trấn Yên Định, Hải Hậu, Nam Hà], và Trà Lũ ở huyện Giao Thủy [nay thuộc xã Xuân Bắc, Xuân Thủy, Nam Hà], để truyền bá tả đạo là Kitô giáo... ». Xem BSEI, tập phụ thêm số 45/2-3, tr. 10, và BSEI, tập 45/2-3, tr. 102. Xem thêm Hồng Lam, Lịch sử đạo Thiên Chúa ở Việt Nam thế kỷ XVI-XVIII, Huế, Đại Việt, 1944, tr. 101-104.
[12] Xem, chẳng hạn Hồng Lam, s.đ.d., tr. 105.
[13] Ví dụ, ghi bằng chữ Hán trong quốc thư chúa Trịnh Tráng gửi nhà nước Hà Lan vào năm 1637 : xem Võ Long Tê, “Thiên Chúa Thanh Giáo khải mông”, trong sách tập hợp Về sách báo của tác giả Công giáo (thế kỷ XVII-XIX), T.P. Hồ Chí Minh, Trường Đại Học Tổng Hợp, 1993, tr. 39. Ví dụ ghi bằng chữ Quốc ngữ trong thư Igesico Văn Tín viết vào năm 1659, xem Đỗ Quang Chính, s.đ.d. tr. 95.
Đáng nhớ rằng các tư liệu tiếng Bồ Đào Nha viết đầu kỷ 17 ở vùng Biển Đông đều thường gọi người Hà Lan là ‘giặc’ (‘rebeldes’), ‘kẻ cướp’ (‘ladrões’), ‘bọn giặc biển’ (‘piratas’), hay ‘hải tặc’ (‘cossairos’). Rất có thể Trung Hoa không những phiên âm tên gọi của họ, còn đối chiếu họ với những bọn cướp biển khác, mà ghi tên họ nhờ cũng một chữ. Đó là ‘Wokòu’, người Nhật nổi tiếng, hoành hành từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 men bờ biển Trung Hoa, rồi bị người Bồ Đào Nha đánh tan; ‘kòu’ đọc theo âm Hán-Việt là ‘khấu’, nghĩa là ‘giặc’. Tên gọi này ‘Wo’, chỉ người Nhật với nghĩa xấu, được ghi ở Trung Hoa bằng hai chữ khác nhau : chữ (Hán-Việt : ‘oa’ hoặc ‘oải’), được đọc là ‘wo’ trong tiếng Bắc Kinh; và chữ (Hán-Việt: ‘hòa’), được đọc là ‘wo’ trong phương ngữ Quảng Đông. Xem Mai Lý Quảng [chủ biên], Từ điển Hán-Việt hiện đại, TP Hồ Chí Minh, NXB Thế Giới, 1994, tr. 379 và 1000; xem thêm ThựcHán Dân và Ngô Lâm Thiền Ngọc, Hán -Anh tiểu tự điển / Chinese-English Dictionary, Cantonese in Yale Romanization, Mandarin in Pinyin, Hồng Kông, New Asia, 1994, tr. 57. Chúng ta dễ hiểu vì sao có nhiều tên gọi đều chỉ Hà Lan. Đầu thế kỷ 17, có tên từ tiếng Bồ Đào Nha phiên âm, ở Việt Nam là ‘Lan’, và ở Quảng Đông (gồm cả thành phố Áo Môn của người Bồ Đào Nha) là ‘Wo Lan’, với sắc thái xấu; sau đó (vào thế kỷ 18, có lẽ nhờ sách Minh sử, dù thế nào sau năm 1637) tên Quảng Đông này được truyền đến Việt Nam đọc là ‘Hòa Lan’. Cuối cùng, ở giữa thế kỷ 20, tên tiếng Trung Quốc phiên âm từ chính tiếng Hà Lan, đọc trong ‘Phổ thông thoại’ hiện đại là ‘Hé Lan’, nhưng ở Quảng Đông là ‘Hô Lan’, mới được truyền sang Việt Nam, và đọc là ‘Hà Lan’.
Đáng nhớ rằng các tư liệu tiếng Bồ Đào Nha viết đầu kỷ 17 ở vùng Biển Đông đều thường gọi người Hà Lan là ‘giặc’ (‘rebeldes’), ‘kẻ cướp’ (‘ladrões’), ‘bọn giặc biển’ (‘piratas’), hay ‘hải tặc’ (‘cossairos’). Rất có thể Trung Hoa không những phiên âm tên gọi của họ, còn đối chiếu họ với những bọn cướp biển khác, mà ghi tên họ nhờ cũng một chữ. Đó là ‘Wokòu’, người Nhật nổi tiếng, hoành hành từ thế kỷ 14 đến thế kỷ 16 men bờ biển Trung Hoa, rồi bị người Bồ Đào Nha đánh tan; ‘kòu’ đọc theo âm Hán-Việt là ‘khấu’, nghĩa là ‘giặc’. Tên gọi này ‘Wo’, chỉ người Nhật với nghĩa xấu, được ghi ở Trung Hoa bằng hai chữ khác nhau : chữ (Hán-Việt : ‘oa’ hoặc ‘oải’), được đọc là ‘wo’ trong tiếng Bắc Kinh; và chữ (Hán-Việt: ‘hòa’), được đọc là ‘wo’ trong phương ngữ Quảng Đông. Xem Mai Lý Quảng [chủ biên], Từ điển Hán-Việt hiện đại, TP Hồ Chí Minh, NXB Thế Giới, 1994, tr. 379 và 1000; xem thêm ThựcHán Dân và Ngô Lâm Thiền Ngọc, Hán -Anh tiểu tự điển / Chinese-English Dictionary, Cantonese in Yale Romanization, Mandarin in Pinyin, Hồng Kông, New Asia, 1994, tr. 57. Chúng ta dễ hiểu vì sao có nhiều tên gọi đều chỉ Hà Lan. Đầu thế kỷ 17, có tên từ tiếng Bồ Đào Nha phiên âm, ở Việt Nam là ‘Lan’, và ở Quảng Đông (gồm cả thành phố Áo Môn của người Bồ Đào Nha) là ‘Wo Lan’, với sắc thái xấu; sau đó (vào thế kỷ 18, có lẽ nhờ sách Minh sử, dù thế nào sau năm 1637) tên Quảng Đông này được truyền đến Việt Nam đọc là ‘Hòa Lan’. Cuối cùng, ở giữa thế kỷ 20, tên tiếng Trung Quốc phiên âm từ chính tiếng Hà Lan, đọc trong ‘Phổ thông thoại’ hiện đại là ‘Hé Lan’, nhưng ở Quảng Đông là ‘Hô Lan’, mới được truyền sang Việt Nam, và đọc là ‘Hà Lan’.
[14] Christoforo Borri, Relatione della nvova Missione delli PP. della Compagnia di Giesu, al Regno della Cocincina, Rôma, Francesco Corbelletti, 1631, tr. 107-109.
[15] Xem Đỗ Quang Chính, s.đ.d., tr. 30; Nguyễn Hồng, s.đ.d. tr. 62.
[16] Xem bài của Léopold Cadière, “Về nhà họ Đỗ thuộc làng Bồng-trung tỉnh Thanh-hóa”, trong sách của Hồng Lam đã dẫn, tr. 124-138; bản chữ Hán được chép lại tr. 125, dịch nghĩa tr. 126. Và Nguyễn Hồng, s.đ.d., tr. 23-24; bản chữ Hán được dịch nghĩa tr. 23, phiên âm c.t. 5. Xem thêm Bulletin des Amis du Vieux Huế, th. 1-3 năm 1941, tr. 99. Người em trai của Hưng Viễn là Đỗ Công Biều đỗ cống sinh (tức là cử nhân) vào năm Chính tự thứ bảy, tức năm 1564.
[17] Phép Giảng Tám Ngày, [T.P. Hồ Chí Minh], Tủ Sách Đại Kết, 1993, tr. 25 của bản văn song ngữ.
[18] Thư mới phát hiện trong Viện lưu trữ Vaticăng ở Rôma (bộ ‘Riti’, tập 3016, tr. 712-717), đang chuẩn bị để xuất bản.
[19] Theo cuốn từ điển của J.-L. Taberd (Nam Việt Dương Hiệp tự vị, Dictionnarium Annamitico-Latinum, Serampore […n Độ], 1838), từ ‘gị’ này là một ‘từ trống’ được một số người thêm ở cuối câu.
[20] Jean-Louis Taberd, s.đ.d.
[21] Xem Pierre-Yves Manguin, Les Nguyễn, Macau et le Portugal (1773-1802), Paris, EFEO, 1984.
[22] Philiphê Bỉnh, một giáo sĩ người Việt, đã sang Bồ Đào Nha vào năm 1796 và đã mất ở đấy. Trong tác phẩm của ông, Bồ Đào Nha được ghi bằng chữ Quốc ngữ là ‘nước Portugal’ hoặc ‘tiếng Vutughê’, và ghi theo âm Hán-Việt là ‘Ba-tư-dô-ja-a’. Ông cũng viết nhiều về người Pháp, ghi bằng chữ Quốc ngữ là ‘Phalansa’, và ghi theo âm Hán-Việt là ‘Pháp-lang-tây’.
[23] Huình-Tịnh Paulus Của, Đại Nam Quấc âm Tự Vị, 2 quyển, Sài Gòn, Rey Curiol, 1895-1896.
[24] ‘Lữ-tống’ là tên phiên âm Hán-Việt của đảo Luy-xon, ở đó có thủ đô Manila. Đến năm 1898, Phi-líp-pin là thuộc địa của Tây Ban Nha.
[25] Philiphê Bỉnh cũng ghi bằng chữ Quốc ngữ Tây Ban Nha là ‘Hespanha’ (chính đây là chính tả tiếng Bồ Đào Nha thời đó), và ghi theo âm Hán-Việt là ‘Lả-tống’. Tulano Carneiro đãphái Bỉnh vượt đại dương và là giáo sĩ người Bồ cuối cùng ở Việt Nam, đã mất ở Bắc Bộ vào năm 1809. Trong khi đó các giáo sĩ người Tây Ban Nha còn hoạt động đến nửa thế kỷ 20.
[26] Xem Đào Duy Anh và Hãn Mạn Tủ, Hán Việt tự điển, x.b. lần thứ 3, Sài Gòn, Trường Thi, 1957; Sách này được xuất bản lần đầu tiên vào năm 1931.
[27] Xem, chẳng hạn J.F.M. Génibrel, Từ điển Việt-Pháp, Dictionnaire Vietnamien-FranÓais, Sài Gòn, Nhà in Tân Định, 1898; Jean Bonet, Dictionnaire Annamite-Français / Đại Nam Quốc âm tự vị hợp giải đại Pháp Quốc âm, 2 t., Pari, Nhà in Quốc gia, 1899-1900; Hội Khai Trí Tiến Đức Khởi Thảo, Việt Nam tự điển, Hà Nội, Trung Bắc Tân Văn, 1931; Gustave Hue, Dictionnaire Annamite-Chinois-Français, 1937; Eugène Gouin, Dictionnaire Vietnamien-Chinois-Français, Sài Gòn, Nhà In Viễn Đông [IDEO], 1957; và những từ điển được xuất bản gần đây.
[28] Ví dụ ở vùng Hưng Yên, và cả ở giữa dân cư gốc Việt ở Phnom Penh, Campuchia. Đáng kể ở Phnom Penh, trước cơn khủng hoảng Khơ-me đỏ, có một nhà thờ mang tên là ‘Hoa Lang’; trong khi giáo dân ở Campuchia thời đó đa số là người Việt, nhà thờ này dành riêng cho một nhóm giáo dân Khơ-me, đã nhập đạo từ lâu đời, và vẫn còn mang những tên họ Bồ Đào Nha theo truyền thống cổ (như ở Ấn Độ).
[29] Xem bài của Luís Filipe Ferreira Reis Thomaz, “Os Frangues na terra de Malaca” [người ‘Frăngơ’ trên đất Malaca], trong tập sách do Francisco Contente Domingues chủ biên : A abertura do mundo: estudos de história dos descobrimentos europeus [Việc mở rộng thế giới: nghiên cứu lịch sử hành trình phát kiến của người âu châu] 2 quyển, Lixbon, Presença, 1986: q. 1, tr. 209-217, nhất là c.t. 6 ở tr. 216.
[30] Xem, ví dụ Charles Ralph Boxer, The Portuguese seaborne empire 1415-1825, Luân Đôn, Hutchinim / Niu Yooc, Knopf, 1969; Geneviève Bouchon, Albuquerque: Le lion des mers d’Asie, Pari, Desjonquères, 1992.
[31] Malaca thời bấy giờ gồm nhiều phường tự chủ cho mọi dân tộc, dưới quyền tối cao của thủ lĩnh. Người Bồ Đào Nha vẫn giữ lại chế độ này, chỉ thêm một phường riêng và kế chân thủ lĩnh.
[32] Xem thêm Roland Jacques, De Castro Marim à Faifo : naissance et développement du Padroado portugais d’Orient des origines à 1659 [Từ Castro Marim tới Hội An: sự khai sinh và phát triển của chế độ bảo trợ tôn giáo ở Phương Đông của Bồ Đào Nha, từ khởi thủy đến năm 1659], luận Án khoa luật Đ.H. Pari-XI, 1995), sắp xuất bản.
[33] Cũng có thể đọc là ‘Peranggi’ hoặc ‘Peringgi’.
[34] Xem Luís Filipe Ferreira Reis Thomaz, n.đ.d.
[35] Xem Minh sử, quyển 325. Tiếc rằng những tài liệu trong tầm tay không ghi rõ Minh sử đã sử dụng những chữ nào. Ă chỗ này tôi đã dẫn theo sách của Beatriz Basto da Silva, Cronología da história de Macau [Niên đại lịch sử Áo Môn], Áo Môn, Sở Giáo dục, 1992, tr. 25. Theo cuốn sách này, Minh sử còn nêu những người ‘Fu lang chi’ ở nhiều chỗ khác nữa : ví dụ vào năm 1614-1617, khi hoàng đếThần Tông (Vạn Lực) quyết định quan và dân nên hòa thuận với họ (n.đ.d.).
[36] Beatriz Basto da Silva, s.đ.d., tr. 29.
[37] Trong quyển từ điển của Alexandre de Rhodes, ở chỗ ‘Hoa, Thinh hoa’ (tức là Thinh Hoa / Thanh Hoa, nay là tỉnh Thanh Hóa, tr. 328), ông đã giải thích : “Người Bồ Đào gọi là Sinufa [Sinh Fa?] » đúng theo cách phát âm của Quảng Đông, gồm cả Áo Môn.
No comments:
Post a Comment