Năm 1916, trên Đông
Dương Tạp Chí số 52 Nguyễn Văn Tố dùng từ cảm hứng để dịch tựa bài L’enthousiasme
của bà de Stael:
Người ta có thể
nói chẳng ngoa rằng trong mọi sự cảm-giác cái cảm-hứng là cái dễ làm cho ta được
sung-sướng thực, dễ khiến cho ta chịu được cái số-mệnh làm người, dù gặp cái cảnh-ngộ
thế nào mặc lòng.
On peut le dire
avec confiance, l’enthousiasme est de tous les sentiments celui qui donne le
plus de bonheur, celui qui en donne véritablement, le seul qui sache nous faire
supporter la destinée humaine, dans toutes les situations òu le sort peut nous
placer.
Nguyễn Văn Tố (1916:417)
Năm 1917 Phạm Quỳnh trong một bài biên khảo về thơ
Baudelaire trên Nam Phong Tạp Chí dùng từ cảm hứng với một nghĩa khác:
Đã có cảm-hứng
thì tức tìm được âm-điệu xứng-đáng ; không có cảm hứng thì dẫu âm-điệu hay, chẳng
qua cũng mới là thợ, chưa gọi là thơ được.
(Phạm Quỳnh, 1960:186)
Quãng những năm 30, từ cảm hứng được ghi nhận trong từ điển. Đào Duy Anh (1950:859), dùng
từ này để để dịch từ inspiration của
tiếng Pháp. Trước đó inspiration được
dịch là yên sĩ phi lý thuần, hoặc có
khi gọn hơn là yên sĩ. Cả yên sĩ phi lý thuần và cảm hứng đều là từ mượn của tiếng Trung
Quốc, nhưng đọc bằng âm Hán Việt. Từ cảm
hứng cạnh tranh với yên sĩ cả chục
năm không bứt lên nổi.
Lê Thanh
trong bài báo “Từ việc dùng những danh-từ mới đến sự tiến-hóa của việt-ngữ”
đăng ở Tri Tân Tạp Chí số 11 (1941:2)
cho biết:
Từ trước tôi đã
thấy người ta theo Lương-Khải-Siêu bên Tàu mà dịch âm tiếng inspiration ra tiếng
hán-việt là yên-sĩ-phi-lý-thuần. Bây giờ tiếng này đã phổ-thông lắm. Nhưng
không phải là một cớ để ta giữ nó mãi mãi. Vì một lẽ là ta có thể tìm được một
tiếng khác có giá-trị về phương-diện từ ngữ hơn: cảm-hứng.
No comments:
Post a Comment