Có tiếng Tây bồi từ khi có những người chịu đi làm bồicho Tây. Nhưng để có thể mướn người làm bồi, các ông chủ Tây cần phải yên ổn
trước đã, tức là công việc bình định đã phải hòm hòm xong rồi.
Hồi ký của Léopold Pallu (1888:158) kể rằng sau khi Pháp
đánh chiếm ba tỉnh miền đông Nam kỳ, hệ thống chính quyền ở các tỉnh đó tan rã
hoàn toàn. Vì trước khi sang Nam Kỳ, Pallu đã từng tham gia chiến dịch đánh
Trung Hoa, viên sĩ quan thực dân này khen rằng quan lại Việt Nam (mở ngoặc: thời
đó và ở ba tỉnh đó) có tư cách hơn quan lại Trung Quốc. Nhắm cự không nổi thì họ
chạy chứ không ở lại, thành ra hết sạch người coi dân, coi đất. Dân An Nam lương
hay giáo gì cũng chạy tuốt. Mãi về sau, khi biết chắc tình thế không thể đảo
ngược được nữa, người Công giáo mới thò mặt ra. Nói tóm lại là vào năm 1861 ở
Sài Gòn và loanh quanh khu vực đó chỉ có lính Pháp và người Hoa.
Thời nào cũng có người Hoa sang nước ta làm ăn, sinh
sống. Có người ở lâu, thành như dân Việt. Nhưng cũng có không ít người như
khách trọ, trước sau trận giặc giữa người Pháp và người Nam vẫn giữ thái độ bàng
quan, chủ trương ăn theo thuở, ở theo thời. Tiếng súng vừa dứt là họ lo học tiếng
Pháp để còn làm ăn với những người chủ mới trên vùng đất này.
Pallu (1888:163) xác nhận rằng chính người Hoa (không
phải người An Nam) là những người tích cực nhất trong việc tạo ra một thứ tiếng
Tây giả cầy ở Sài Gòn vào năm 1861. Trong chiến dịch Trung Quốc, quân Pháp đã
chiêu mộ, sử dụng và chung đụng hàng ngày với 1500 cu li người Trung Hoa
(Pallu, 1888:163). Sự chung đụng đó đã làm phát sinh một thứ tiếng xa-bia trong
nội bộ đạo quân viễn chinh. Khi đạo quân viễn chinh Pháp cùng đám cu li người Hoa
chuyển sang chiến trường Nam kỳ, người Hoa tại chỗ háo hức học thứ tiếng xa bia
đó và còn phát triển thêm bằng những từ ngữ của riêng họ. Pallu (1888:163) nghe
được cả những từ ngữ tiếng Mã Lai thường xuyên lặp đi lặp lại trong những bài hội
thoại (của cái gọi là) tiếng Pháp đó.
No comments:
Post a Comment