Showing posts with label định nghĩa. Show all posts
Showing posts with label định nghĩa. Show all posts

Tuesday, 2 September 2014

Đàn ông góa bụa được không?



Từ ngữ xưa gọi người đàn ông chết vợ là quan phu (鰥夫 ), người đàn bà chết chồng là quả phụ (寡婦), âm khác là góa bụa.
Cho đến Lê Văn Đức (1970a:) góa bụa vẫn là góa (chỉ dùng cho đàn bà). Nhưng ngay thời đó Lê Văn Đức (1970a:525) đã công nhận góa chỉ người có vợ hay chồng chết đều được.
Góagóa bụa hiện nay lại càng khác xa nghĩa gốc. Góa nói chung chỉ người có chồng hay vợ đã chết đều được nhưng chỉ nói về người ít nhiều còn trẻ (Hoàng Phê, 2006:408).  Góa bụa chính là góa chồng nhưng đôi khi cũng có thể chỉ người góa vợ (Hoàng Phê, 2006:408).

Sunday, 27 April 2014

Thế nào là định nghĩa lòng vòng?



Văn Tân (1994:826)  định nghĩa trung đoànđơn vị quân đội trên tiểu đoàn, dưới sư đoàn.
Muốn biết tiểu đoàn là gì, ta phải đi tìm tiếp ở Văn Tân (1994:787): đơn vị quân đội trên đại đội, dưới trung đoàn.
Định nghĩa của sư đoàn cũng vòng trở lại với trung đoàn: tổ chức quân đội Việt Nam gồm có từ ba trung đoàn trở lên (Văn Tân, 1994:705).

Friday, 13 December 2013

Xã hội mới thì có hơn gì xã hội cũ?



Văn Tân (1994:506) định nghĩa ma côkẻ sống về nghê đi dẫn gái điếm cho khách làng chơi, trong xã hội cũ. Nói làm đĩ cũng là nói phụ nữ trong xã hội cũ bán thân mình làm đồ mua vui cho đàn ông (Văn Tân, 1994:506), hay nói cách khác cũng thế: đĩngười đàn bà làm nghề mại dâm trong xã hội cũ (Văn Tân, 1994:293) và mại dâm chỉ có thể là việc của những người con gái trong xã hội cũ phải bán thân mình cho khách làng chơi (Văn Tân, 1994, 509).
Theo các nhà biên soạn từ điển Văn Tân (1994), xã hội ta hiện nay, xã hội Tây Tàu hiện nay đều không có mại dâm, đĩ điếm, ma cô ma cạo… Nhưng thực tế cho thấy ta có thể hiểu rằng các xã hội hiện nay, trong đó có xã hội ta, vẫn là xã hội cũ

Friday, 1 November 2013

Mộng tinh là gì?


Mộng tinh là chứng xuất tinh khi nằm mơ giao hợp (Hoàng Phê, 2006:642). Giao hợp là giao cấu (chỉ nói về người) (Hoàng Phê, 2006:392 và Nguyễn Kim Thản, 2005:671). Nhà soạn từ điển lại chỉ công nhận sự giao cấu giữa một động vật giống đực và một động vật giống cái. Như vậy người đàn ông đồng tính luyến ái không thể mộng tinh. Nhà thuốc chỉ làm thuốc chữa mộng tinh cho người đàn ông mơ ngủ tưởng như mình giao hợp với người đàn bà.

Friday, 11 October 2013

Hiến binh sen đầm là gì?


Hoàng Phê (2006:437) định nghĩa hiến binhcảnh sát vũ trang trong quân đội một số nước trong khi sen đầm được Hoàng Phê (2006:856) xem là lực lượng vũ trang đặc biệt chuyên giữ gìn an ninh chính trị ở các nước đế quốc, thuộc địa.

Nhưng cả hai từ hiến binhsen đầm đều tương ứng với từ gendarme của tiếng Pháp. Hiến binhLính giữ hiến pháp. Tức là lính “sen-đầm” (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:236). Sen-đầm chẳng qua chỉ là một từ Việt mượn âm Pháp (gendarme). Hiến binh có sắc thái trang trọng hơn, nhưng vẫn chỉ lính sen đầm mà thôi.

Thursday, 29 August 2013

Có thâm nhiên là có cái gì?



Thâm niênlâu năm (Lê Văn Đức, 1971b:1528). Thời bao cấp chỉ tính thâm niên cho người đi làm công nhân viên nhà nước. Vì vậy thâm niên được định nghĩa trong từ điển là khoảng thời gian (tính bằng năm) làm việc liên tục trong cơ quan nhà nước, đặc biệt là liên tục trong một nghề (Nguyễn Kim Thản, 2005:1497 ; Hoàng Phê, 2006:921). Nhưng cũng vì vậy nhiều người, nếu không dính dáng đến nhà nước, không biết thâm niên là cái gì (cả đời không nghe nói đến chuyện thâm niên).
Hậu quả là hôm nay người ta có thể hồn nhiên viết có thâm nhiên mà không biết là sai. Hôm nay (29/07/2013) Google cho biết có số trang đúng chính tả (có thâm niên) là 8.560.000. Chỉ  21.000 trang viết sai có thâm nhiên. Tất cả đều là trang Web trong nước. Trong số đó phần nhiều là báo mạng danh tiếng (VnExpress, Dân Trí, Người Lao Động...). Không có trang tiếng Việt nào ở hải ngoại viết sai trong trường hợp này. Lạ không?

Saturday, 10 August 2013

Đồng tính là gì?


Đồng tính cùng giống đàn ông hay cùng giống đàn bà với nhau ((Lê Văn Đức, 1970a:487), nói gọn là cùng giới tính (Hoàng Phê, 2006:344)

Đồng tính luyến ái là một tổ hợp Hán Việt với trung tâm là luyến ái (nghĩa là tình yêu) và đồng tính đóng vai trò thành phần phụ. Cả tổ hợp bốn chữ đó có nghĩa là tình yêu tha thiết, say mê, không rời nhau được giữa đôi bạn trai hay đôi bạn gái, một hiện tượng bất thường (Lê Văn Đức, 1970a:487). Người có quan hệ yêu đương, ham muốn tình dục với người cùng giới tính là người đồng tính luyến ái (Hoàng Phê, 2006:344).

Có lẽ vì cụm từ đồng tính luyến ái quá dài, người Việt hiện nay bỏ luôn hai chữ luyến ái (người đồng tính, bệnh đồng tính...) khiến cho hai tiếng đồng tính phải gánh thêm một ý nghĩa mà từ điển khó chấp nhận được. Cũng có thể đồng tính hiện nay được dịch thẳng từ same sex của tiếng Anh: same-sex marriagehôn nhân đồng tính, same-sex kissnụ hôn đồng tính, same-sex lovetình yêu đồng tính tức đồng tính luyến ái...

Saturday, 29 June 2013

Sao mà lộn xộn quá?


Các nguyên lý căn bản trong sách Cơ sở hình học của Ơ-clít được chia làm hai loại. Một loại là những điều tự minh chi lý (自明之理), hiển nhiên là đúng, ai cũng phải công nhận. Loại kia gồm những nguyên lý không hiển nhiên, nhưng tác giả yêu cầu người đọc chấp nhận là đúng để có thể dựa vào đó mà làm việc tiếp. Peyrard (1804) dịch sát từng chữ của bản gốc, dùng từ notion commune để gọi các nguyên lý hiển nhiên đúng và dùng từ demande (nghĩa là yêu cầu) để gọi các nguyên lý mà yêu cầu công nhận là đúng. Bản tiếng Anh của Heibert (1883-1885) lần lượt gọi hai loại nguyên lý đó là common notion postulate.

Notion commune trong tiếng Pháp về sau được thay bằng axiome (tiếng Anh : axiom, tiếng Nga: аксиома), thuật ngữ mà nhà triết học A-ri-xtốt (Aristote / Aristotle) đã dùng để gọi các nguyên lý dùng làm cơ sở xuất phát cho mọi chứng minh khoa học. Postulate của tiếng Anh tương đương với postulat của tiếng Pháp và постулат của tiếng Nga, do tiếng La Tinh là postulatum nghĩa là (điều) yêu cầu.

Năm 1936, khi soạn từ điển Pháp Việt, Đào Duy Anh tham khảo các từ điển Pháp Hoa dịch axiomeđịnh lý, không cần chứng giải mà ai cũng thừa nhận (Đào Duy Anh, 1950:124), postulat cũng là... định lý, định tắc (Đào Duy Anh, 1950:1343). Độ dăm năm sau đó, Hoàng Xuân Hãn cũng tham khảo các từ điển chữ Hán để dịch axiome công lý (Hoàng Xuân Hãn, 1959:16) và postulatđịnh đề (Hoàng Xuân Hãn, 1959:141).   Các từ điển xuất bản ở miền Nam trước năm 1975 như Đào Đăng Vỹ (1960), Thanh Nghị (1967b), Ban Tu Thư Khai Trí (1971) đều theo thuật ngữ của Hoàng Xuân Hãn.
 
Năm 1977 hai biên tập viên của nhà xuất bản Khoa Học Kỹ Thuật là Nguyễn Đình Đằng và Nguyễn Mạnh Hùng được phân công xây dựng bản thảo Từ điển toán học Nga Việt. Ban hiệu đính tập thuật ngữ này gồm những nhà toán học hàng đầu như Lê Văn Thiêm, Phan Đình Diệu, Trần Vinh Hiển, Nguyễn Cảnh Toàn, Nguyễn Đình Trí, Hoàng Tụy, Ngô Đạt Tứ. Tập thể biên soạn và hiệu đính chủ yếu dựa vào hai tập thuật ngữ mà họ đã chế tác và sử dụng trong thời gian chiến tranh: Danh từ toán học Nga-Việtdo Nguyễn Cảnh Toàn chủ biên, Hà Nội,1962 Từ điển toán học Anh Việt do Phan Đức Chính chủ biên, Hà Nội, 1972. Trong tập thuật ngữ này аксиома được dịch là tiên đề (Nguyễn Đình Đằng et al. 1979:15) còn постулатtiên đề, định đề (Nguyễn Đình Đằng et al., 1979:135). Do quy ước dấu phẩy dùng để ngăn cách thuật ngữ đồng nghĩa, ta hiểu постулат có thể dịch là tiên đề hay định đề đều được nhưng аксиома chỉ có thể là tiên đề thôi!

Từ điển tiếng Việt của Hoàng Phê (2006:983) định nghĩa tiên đềmệnh đề được thừa nhận mà không chứng minh, xem như là xuất phát điểm để xây dựng một lí thuyết toán học nào đó. Và định đề chính là tiên đề (Hoàng Phê, 2006:325). Cách chuyển chú như vậy có nghĩa là tiên đềđịnh đề là hai từ đồng nghĩa nhưng tiên đề phổ biến hơn định đề.

Trong tiếng Pháp đầu thế kỷ 20, axiomepostulat vẫn còn phân biệt rất rõ ở chỗ hiển nhiên hay không hiển nhiên đúng, nhưng dần dần sự phân biệt này cũng trở nên khó khăn và hai từ tự nhiên trở thành đồng nghĩa trong thực tế mà postulat ngày càng ít dùng. (On ne distingue plus de nos jours axiome et postulat; le mot postulat est de moins en moins employé`` (BOUVIER-GEORGEMath. 1979).

Wednesday, 5 June 2013

Cường đô la sắp cho Hà Hồ cái gì?



Không phải tiền mà là một danh phận. Báo nói như thế.
Danh phận (名分) trong các từ điển tiếng Việt có nghĩa là:
-danh nghĩa và phận sự (obligation) (Đào Duy Anh, 2005:186)
-danh giá, chức phận. Ví dụ: Lo xong danh phận rồi sẽ cưới vợ (Lê Văn Đức, 1970a:350)
-tiếng tăm và việc làm. Ngày nay chỉ địa vị xã hội (Nguyễn Quốc Hùng, 1975:160)
Nói tóm lại, danh phận là một từ cũ chỉ danh nghĩa và chức phận. (Hoàng Phê, 2006:241)


Danh phận hiểu theo nghĩa ấy thì Hà Hồ đã có rồi. Vậy Cường đô la sẽ cho Hà Hồ cái danh phận gì?

Nhà báo xem nhiều phim Tàu, đọc nhiều truyện Tàu qua bản dịch của những người lười biếng, chỉ biết phiên âm Hán Việt các từ ngữ Trung Quốc trong bản gốc. Xã hội bây giờ không ít cặp nam nữ sống chung không giấy hôn thú và vì luật pháp xem nam nữ bình đẳng nên không người đàn ông nào đủ tư cách ban cho người đàn bà bất cứ cái gì. Nhà báo ít học và vô ý thức đã mô tả Cường đô la như một người đàn ông nước Trung Hoa thuở nào có quyền nâng một người đàn bà lên hàng chính thê hay tiểu thiếp hay cứ để đấy chơi bời cho thỏa thích.

Thursday, 4 April 2013

Ai có thể bị hiếp dâm và/hay cưỡng dâm?



Trong nhận thức của người Việt đầu thế kỷ 20, không có chuyện đàn ông bị hiếp dâm, cưỡng dâm hay cưỡng gian. Hiếp dâm cưỡng dâm đàn bà (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931: 237) và chỉ đàn bà mà thôi. Cưỡng dâm là hiếp con gái đàn bà (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931: 104). Từ ngữ dùng trong luật là cưỡng gian được định nghĩa là như cưỡng dâm (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931: 104). 
Gần bốn mươi năm sau nhận thức của người Việt có sự thay đổi quan trọng. Theo Lê Văn Đức (1970a:609), hiếp-dâm vẫn không khác gì cưỡng-dâm và cưỡng dâm là dâm-hãm, hiếp-dâm người khác giống (Lê Văn Đức, 1970a:250). Cưỡng-gian là danh từ dùng trong hình luật, được định nghĩa là như cưỡng-dâm. Cưỡng-hiếpép người, hiếp người bằng sức mạnh nói chung, nhưng thường được hiểu là cưỡng-dâm. Điểm tiến bộ là ở chỗ nạn nhân không nhất thiết phải là phụ nữ. Có điều các định nghĩa của Lê Văn Đức (1970a) vẫn chưa đề cập đến hiện tượng cưỡng hiếp người cùng giới tính.
Khi bộ luật hình sự nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam ra đời (năm 1999), các định nghĩa hiếp dâm và cưỡng dâm đã tỏ ra công bằng hơn đối với các nạn nhân. Hiếp dâm là dùng vũ lực, đe doạ dùng vũ lực hoặc lợi dụng tình trạng không thể tự vệ được của nạn nhân hoặc thủ đoạn khác giao cấu với nạn nhân trái với ý muốn của họ (điều 111) và cưỡng dâm là dùng mọi thủ đoạn khiến người lệ thuộc mình hoặc người đang ở trong tình trạng quẫn bách phải miễn cưỡng giao cấu (điều 113). Ranh giới giữa hiếp dâm và cưỡng dâm vẫn chưa thật rõ ràng: dùng vũ lực / đe dọa dùng vũ lực / lợi dụng tình trạng không thể tự vệ đều là những thủ đoạn và miễn cưỡng giao cấu không khác gì với giao cấu trái ý muốn.  Ngoài ra luật cũng không định nghĩa thế nào là giao cấu, nhưng đây là một vấn đề khác, sẽ được khảo sát ở một nơi khác.
Trong khi đó các nhà từ điển học vẫn không theo kịp nhận thức của nhà lập pháp.
Các định nghĩa của Nguyễn Kim Thản (2005) quay trở lại điểm xuất phát đầu thế kỷ 20, thể hiện quan điểm của một xã hội do người đàn ông thống trị:
Hiếp dâm là dùng sức mạnh buộc phụ nữ phải để cho mình thỏa mãn những ham muốn nhục dục (Nguyễn Kim Thản, 2005:745). Cưỡng dâm là buộc người phụ nữ phải để cho mình thỏa mãn lòng ham muốn nhục dục (Nguyễn Kim Thản, 2005:423). Cưỡng hiếp là cưỡng dâm và/hoặc hiếp dâm: buộc người phụ nữ phải để cho mình thỏa mãn lòng ham muốn nhục dục; cưỡng dâm, hiếp dâm (Nguyễn Kim Thản, 2005:423).
Hoàng Phê (2006) không có quan điểm rõ ràng, định nghĩa thiếu nhất quán:
Hiếp dâm là dùng sức mạnh bắt phải để cho thỏa sự dâm dục (Hoàng Phê, 2006:439). Dâm dục là sự ham muốn nhục dục quá độ hoặc không chính đáng (Hoàng Phê, 2006:245). Nhục dục là lòng ham muốn về xác thịt (Hoàng Phê, 2006:726). Xác thịt là thể xác của con người (thường dùng để nói về khoái lạc vật chất tầm thường) (Hoàng Phê, 2006:1141). Nói chung các định nghĩa này phù hợp với quan niệm của nhà lập pháp trong bộ luật hình sự 1999. Nhưng cưỡng dâm vẫn cứ là cưỡng ép người phụ nữ phải để cho thỏa sự dâm dục (Hoàng Phê, 2006:233).

Friday, 29 March 2013

Dâm ô là gì?



Dâm ô là dâm dục xấu xa (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:149), thậm chí có thể nói là dâm dục một cách xấu xa, nhơ nhuốc (Nguyễn Kim Thản, 2005:443; Hoàng Phê, 2006:245). Các nhà soạn từ điển làm như thể người Việt có thể dâm dục một cách tốt đẹp hay sạch sẽ được.
Bản thân từ dâm dục vốn chẳng có gì tốt đẹp. Đó là sự ham muốn thú nhục dục quá độ hoặc không chính đáng (Hoàng Phê, 2006:245), tức là nếu ham muốn vừa phải, chính đáng, đúng đắn, hợp lý... thì không bị gán cho tiếng dâm dục.

Tuesday, 26 March 2013

Giao cấu và dâm ô khác nhau thế nào?



Ông Đỗ Văn Đương, viện phó viện khoa học kiểm sát thuộc viện kiểm sát nhân dân tối cao, định nghĩa hành vi giao cấu như sau:
Hành vi giao cấu trong Pháp lệnh Phòng chống mại dâm không chỉ hiểu là giữa nam với nữ, mà diễn ra cả giữa những người đồng giới. Giao cấu được hiểu là việc đưa bộ phận sinh dục của người này chủ động tác động vào bất cứ bộ phận nào trên cơ thể người kia, không phân biệt là đồng giới hay khác giới. Như vậy, nếu một người chủ động sử dụng bộ phận sinh dục của mình để “quan hệ” với người khác (không nhất thiết phải là hai bộ phận sinh dục với nhau) thì là giao cấu. Còn nếu chỉ sử dụng tay, chân… tác động vào bộ phận sinh dục của người khác thì coi là dâm ô
Giao cấu, theo cách ông Đỗ Văn Đương định nghĩa, thực chất là quan hệ tình dục. Có điều ông không đủ can đảm để thay đổi từ ngữ trong luật (không thay giao cấu bằng quan hệ tình dục) trong khi vẫn định nghĩa ỡm ờ hành vi giao cấu bằng cách dùng từ quan hệ trong dấu nháy nháy.
Định nghĩa có phần tùy tiện của ông Đỗ Văn Đương vẫn rất bất tiện trên thực tế. Theo đó Bill Clinton có giao cấu với Monica Lewinsky (chủ động sử dụng bộ phận sinh dục của mình để quan hệ với người khác) nhưng cô thực tập sinh chỉ phạm tội dâm ô mà thôi (dùng miệng tác động vào bộ phận sinh dục của tổng thống). Kinh khủng nhất là vợ chồng có hôn thú hẳn hòi nếu chỉ sử dụng tay, chân… tác động vào bộ phận sinh dục của người khác thì coi là dâm ôĐược cái tự tác động vào bộ phận sinh dục của mình thì không phải giao cấu cũng không phải dâm ô.

Monday, 25 March 2013

Thế nào là giao cấu?



Từ điển xưa rất e ấp, thẹn thùng khi phải định nghĩa giao cấu: nói giống đực giống cái đi lại với nhau (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:216). Nhưng thế nào là đi lại?  Có phải là nói chung về việc chơi bời thăm viếng nhau (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:178) hay không? Hẳn là không rồi. Thế thì tại sao cứ phải ngầm hiểu rằng hễ giống đực giống cái đi lại với nhau tất phải có chuyện giao cấu?  

Giao cấu là từ Hán Việt, được Đào Duy Anh (2005:298) định nghĩa là âm và dương giao hợp với nhau = trai gái làm tính giao với nhau (relations sexuelles).

Lê Văn Đức (1970a:554) định nghĩa giao hợp = giao cấu và giao cấu là ăn nằm, đi lại, lấy nhau giữa một nam một nữ hay một đực một cái (Lê Văn Đức, 1970a:553).

Nguyễn Kim Thản (2005:671) định nghĩa giao cấugiao nhau giữa bộ phận sinh dục ngoài của giống đực và của giống cái (ở động vật). Giao hợpgiao cấu (chỉ nói về người) (Nguyễn Kim Thản, 2005:671).

Như vậy các nhà soạn từ điển không thừa nhận quan hệ tính giao (relations sexuelles) giữa nam với nam, giữa nữ với nữ. Hành vi tính giao giữa nam và nữ cũng chỉ được tính là thành sự khi xảy ra sự giao cấu tức là khi dương vật được đưa vào âm đạo. Do đó, theo tiêu chuẩn Việt Nam, việc nữ thực tập sinh Monica Lewinsky thổi kèn cho tổng thống Bill Clinton không phải là tính giao vì không xảy ra sự giao cấu. Vẫn theo tiêu chuẩn Việt Nam, việc lắp đít người nữ bằng dương vật của người nam cũng không phải là giao cấu.


Sinh sản, duy trì nòi giống là một trong những chức năng cơ bản của hoạt động tình dục. Trong nhận thức của người Việt, cái chức năng đó chiếm vị trí quan trọng nhất và trở thành nỗi ám ảnh duy nhất đè nặng lên các định nghĩa của giao cấu. Các khía cạnh khác của tình dục không được người Việt xem là quan yếu, do đó không được nhà soạn từ điển đưa vào định nghĩa.

Thursday, 21 March 2013

Khiêu vũ có đồi trụy không?



Người Việt bình thường hiểu khiêu vũ là nhảy đầm. Nhưng chỉ có tội nhảy đầm bị trừng phạt. Không ai bị dẫn đi bêu riếu với tấm bảng đề tội mê khiêu vũ.
Đầu thế kỷ 20 các nhà làm từ điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:278) định nghĩa ngắn gọn khiêu vũ nhẩy múa. Bốn mươi năm sau đó, định nghĩa khiêu vũ vẫn không có gì thay đổi: nhảy múa, bước đi theo nhịp (Lê Văn Đức, 1970a:727) Nguyễn Kim Thản (2005:841) mô tả dông dài hơn một chút: làm những động tác tay chân nhịp nhàng và phối hợp với nhau theo nhạc và thường theo từng đôi nam nữ.
Các định nghĩa trên không giúp ta phân biệt được khiêu vũ theo nghĩa là nhảy đầm (tiếng Anh là ballroom dancing) với múa đôi, múa kết đoàn... Chúng cũng không giải thích được vì sao từ khiêu vũ bị né tránh và được thay thế bằng quốc tế vũ để chỉ đúng một chuyện là nhảy đầm.

Monday, 18 March 2013

Thế nào là khiêu dâm?


Từ khiêu dâm được ghi nhận đầu tiên trong từ điển có lẽ là vào năm 1938 khi Đào Duy Anh (1950:1330) dịch từ pornographie của tiếng Pháp thành khiêu-dâm-học, chú chữ Hán là 跳淫學Khiêu dâm của tiếng Việt đồng hành với pornographie của tiếng Pháp từ đó. Tự điển Việt Pháp phổ thông của Đào Văn Tập (1950:354) dịch khiêu dâm là obscène, pornographique, impudique. Đào Đăng Vỹ (1964:487) cũng dịch khiêu-dâm là pornographique, impudique. Thanh Nghị (1967b:763) cho ví dụ sách khiêu dâm livre ponographique. Trong từ điển Pháp Việt của Lê Khả Kế thì cả érotique và pornographique đều là khiêu dâm cả (Lê Khả Kế, 2001:624 và  Lê Khả Kế, 2001:1278).

Trong các từ điển hiện nay, khiêu dâm được định nghĩa đơn giản chỉ là gây kích thích ham muốn về sắc dục, về xác thịt (Nguyễn Như Ý, 1999:904). hay ngắn gọn hơn một chút là gây kích thích sự ham muốn về xác thịt (Hoàng Phê, 2006:501), kích thích lòng ham muốn xác thịt (Nguyễn Kim Thản, 2005:641). Khiêu dâm như vậy chẳng có gì xấu, thậm chí còn hiền lành hơn  khêu gợi = có tác dụng gợi những ham muốn, thường là không lành mạnh. (Nguyễn Như Ý, 1999:898).

Bộ luật hình sự nước Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam không có điều khoản nào phạt tội khiêu dâm, không có chỗ nào nhắc đến chuyện khiêu dâm. Tuy nhiên sản xuất, tàng trữ, mua bán, lưu hành văn hóa phẩm có nội dung khiêu dâm lại là những hành vi bị xử phạt hành chính (nghị định 88-CP năm 1995 thời thủ tướng Võ Văn Kiệt và gần đây hơn là nghị định 75 do thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ký năm 2010).


Thông tư số 09/2010/TT-BVHTTDL do Hoàng Anh Tuấn, bộ trưởng bộ văn hóa, thông tin, du lịch ký ngày 24 tháng 8 2010 giải thích từ ngữ như sau:
“Khiêu dâm” quy định tại điểm a khoản 4 Điều 7; điểm c khoản 5, điểm b khoản 6 Điều 8; điểm e khoản 4 Điều 9; khoản 4 Điều 10; điểm b khoản 3 Điều 12; điểm c khoản 3 Điều 15; điểm a khoản 5 Điều 16; điểm a, b khoản 1, điểm c khoản 2 Điều 21; điểm c khoản 2, điểm a khoản 3, điểm a khoản 4, điểm a, b khoản 5, khoản 6 Điều 22; khoản 1, 2 Điều 23, là hành vi dùng hình ảnh, ngôn ngữ, âm thanh, hành động khêu gợi, kích thích dâm ô, ham muốn tình dục trái với truyền thống đạo đức, thuần phong mỹ tục dân tộc Việt Nam bao gồm: mô tả bộ phận sinh dục, khoả thân, mô tả khoả thân hoặc không khoả thân nhưng kích thích tình dục, mô tả nhu cầu tình dục, thủ dâm dưới mọi hình thức.

Có một độ chênh giữa định nghĩa của từ điển và cách hiểu của nhà cầm quyền.


Friday, 13 July 2012

Mê muội cái gì thì tốt?


Câu 2 trong đề thi đại học môn văn, khối D năm 2012 "Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa nhưng mê muội thần tượng lại là một thảm họa” có nhiều chỗ vớ vẩn. Một trong những chỗ vớ vẩn đó là định hướng cách trả lời quá lộ liễu cho một câu hỏi (gọi là) mở.
Mê muộiMất tỉnh táo, mất sáng suốt đến mức không còn nhận biết đâu là đúng, đâu là sai (Nguyễn Kim Thản, 2005:1044). Các từ điển xưa nay có thể cắt nghĩa mê muội với lời lẽ khác nhưng vẫn chỉ là cái nghĩa ấy:
-dại dột, vô tâm, vô tri, mất trí khôn (Huình Tịnh Của (1896b:28))
-sai lầm mờ tối (Đào Duy Anh, 2005:491)
-cùng nghĩa như mê mẩn.mê mẩnsay mê đắm đuối (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:341)
Bản thân từ mê muội mang sắc thái tiêu cực. Không phải chỉ mê muội thần tượng mới là thảm họa. Bảo rằng học trò đi thi có thể có ý kiến trái ngược, nhưng thật ra chỉ em nào ngu muội lắm mới dám bảo mê muội thần tượng (từ thần tượng hiẻu theo nghĩa nào cũng được và có thể thay thần tượng bằng bất cứ từ nào của tiếng Việt: lý tưởng, tiền tài, danh vọng, bằng cấp... ) là tốt. Em đó mà được chấm đạt, ắt là có sự ám muội ở đâu đây.

Thursday, 12 July 2012

Thần tượng là gì?


Câu 2 trong đề thi đại học môn văn, khối D năm 2012 "Ngưỡng mộ thần tượng là một nét đẹp văn hóa nhưng mê muội thần tượng lại là một thảm họa” có nhiều chỗ nhảm nhí. Một trong những cái nhảm đó là giả định rằng có những từ ngữ được người ra đề, người làm bài và người chấm thi hiểu giống nhau, không sai chạy đi đâu được.
Hội Khai Trí Tiến Đức (1931) không có thần tượng.
Vào quãng thời gian đó (đầu thế kỷ 20), thần tượng được mượn từ tiếng Hán với nghĩa là Di tượng của người chết (Đào Duy Anh, 2005:832)
Đến giữa những năm 60 ở miền Nam, nhiều từ điển ở miền Nam vẫn định nghĩa thần tượng khác với cách hiểu thông thường hiện nay. Đào Đăng Vỹ (1965:1263) ghi nhận hai nghĩa: tượng thần ( statue d’un génie) và ảnh người quá cố (portrait d’un défunt). Đến Thanh Nghị (1967b:1323), ta thấy có một sự biến chuyển quan trọng: nghĩa cơ bản của thần tượng vẫn là Tượng được tôn thờ như vị thần, nhưng có thêm nghĩa rộng là Người được tôn thờ, hoan nghênh như một vị thần; ghi chú tương đương tiếng Pháp là idole.
Nghĩa căn bản của Idole trong tiếng Pháp và idol trong tiếng Anh (tượng được tôn thờ như vị thần) trước đó đã được dịch là ngẫu tượng (Đào Duy Anh, 1950:810;. Nguyễn Văn Khôn, 1959:778) còn nghĩa mở rộng thì chưa có từ riêng mà chỉ được miêu tả dông dài là Người hay vật được người ta sùng bái, hoan nghinh. Thanh Nghị (1967a:760) dứt khoát dịch nghĩa căn bản của idolengẫu tượng và nghĩa bóng là thần tượng. Cái nghĩa bóng này hiện nay là nghĩa thông dụng nhất:
Thứ tượng của các vị thần; thường dùng để chỉ cái được tôn sùng, chiêm ngưỡng (Nguyễn Kim Thản, 2005:1503)
Tượng thần; thường dùng để ví cái được tôn sùng, chiêm ngưỡng. (Hoàng Phê, 2006:926)
Một từ điển còn ghi nhận tất cả các nghĩa của thần tượng trong lịch sử là Đại Từ Điển Tiếng Việt của Nguyễn Như Ý (1999:1545):
1. Hình hoặc ảnh người đã chết. 2. Hình một đấng thiêng liêng được tôn sùng. 3. Người hay vật được đề cao, tôn sùng.
Nghĩa thứ ba trong từ điển Nguyễn Như Ý chính là cái nghĩa thường dùng nhất hiện nay, áp dụng cho chủ tịch Hồ Chí Minh cũng được mà dùng để chi Maria Ozawa cũng không sai vì cái danh hiệu Japanese AV Idol hiện nay chỉ có thể dịch ra tiếng Việt là thần tượng phim người lớn Nhật Bản. Ngưỡng mộ thần tượng Maria Ozawa có đương nhiên là nét đẹp văn hóa không? Người ra đề có lường trước chuyện thí sinh đặt vấn đề mê muội thần tượng Hồ Chí Minh không?
Sau cùng, nếu thí sinh chọn nghĩa 1 hay nghĩa 2 của thần tượng trong từ điển Nguyễn Như Ý (1999), tức là nghĩa căn bản của các từ điển Nguyễn Kim Thản (2005), Hoàng Phê (2006), để làm bài thì có bị xem là hiểu sai đề không? Ai bảo là sai? Tại sao sai?

Thursday, 31 May 2012

Vì sao các nhà soạn từ điển bất công với phụ nữ?


Tiếng Hán có (âm Hán Việt là kỹ), ứng với tiếng Việt là đĩ. Kỹ nữcon đĩ. Kỹ việnnhà thổ (Hội Khai Trí Tiến Đức, 1931:269). Đây là nguồn gốc của cách đối xử bất công với phụ nữ khi các nhà soạn từ điển định nghĩa từ đĩ.

Hội Khai Trí Tiến Đức (1931:269) định nghĩa đĩhạng đàn bà làm nghề rước khách làng chơi. Đến Thanh Nghị (1967:875) đĩ vẫn là gái chơi bời, gái rước khách đàn ông để lấy tiền. Lê Văn Đức (1970a:445) định nghĩa đĩ là điếm, đàn bà làm nghề bán dâm cho khách làng chơi. Gần đây hơn là Nguyễn Kim Thản (2005:555), đĩ vẫn là người đàn bà làm nghề mại dâmđĩ điếmphụ nữ làm nghề mại dâm, nói chung. Hoàng Phê (2006:315) lịch sự hơn thì đĩ  là người phụ nữ làm nghề mại dâm.

Người xưa có câu:
Con sâu bỏ rầu nồi canh,
Một người làm đĩ, xấu danh đàn bà.
Nhưng đó là chuyện đời xưa. Từ nhiều năm nay ai cũng biết là không chỉ có đàn bà bán dâm cho đàn ông mà có cả đàn ông bán cho đàn bà, đàn bà bán cho đàn bà và đàn ông bán cho đàn ông. Vậy tại sao từ điển vẫn không thoát nổi nguyên nghĩa?

Với tư cách là một công cụ chuẩn hóa, từ điển góp phần củng cố một cấu hình tư tưởng được các lực lượng thống trị xã hội ủng hộ. Các quan hệ xã hội (trong đó có quan hệ giữa người bán và người mua trên thị trường nhục dục) bị ép phải lọt qua cái khuôn mẫu đã được từ điển định sẵn, trước khi chạm đến ý thức của người sử dụng ngôn ngữ . Ý thức vì vậy không thể phản ánh hiện thực một cách chân thực. Nhưng đó là cái ý thức mà thế lực thống trị xã hội mong muốn.
Còn mày, mày là con cái đứa đánh đĩ thập phương, là con thằng khố rách áo ôm, cu-li poóc-tê. (Ma Văn Kháng, 2003V:535)
Cái đứa đánh đĩ thập phương chỉ có thể là phụ nữ. Vì vậy khi Ngọc Trinh, nữ hoàng nội y, tuyên bố Tôi còn phải chừa một phương lấy chồng chứ, người ta liên tưởng ngay lập tức đến nghề làm đĩ mặc dù có thể cô không làm nghề ấy. Đây không phải là thiên hạ ghen ăn tức ở gì với cô người mẫu. Chẳng qua chỉ vì chưa đến lúc việc bán dâm được xem như một nghề nghiệp chân chính và Ngọc Trinh lại phải thể hiện suy nghĩ trong khuôn khổ những từ ngữ khinh miệt chính phái tính của mình.

Tuesday, 28 February 2012

Tại sao ma giáo là gian xảo, xấu xa?




Từ ma giáo không có mặt trong các từ điển Thanh Nghị (1967), Lê Văn Đức (1970). Các từ điển hiện nay chỉ ghi một nghĩa của ma giáogian xảo, bịp bợm (Hoàng Phê, 2006:602), gian manh xảo trá (Nguyễn Như Ý, 1999:1080).
Từ ma giáo (viết thường) thật ra là Ma giáo (viết hoa) mà đông đảo người Việt biết đến nhờ các tiểu thuyết võ hiệp của Kim Dung, được dịch và phổ biến ở miền Nam vào những năm 70. Nhiều nhân vật của Ma giáo bị Kim Dung mô tả như là những kẻ bất chính, đáng khinh. Dân mê truyện chưởng sau đó gọi những kẻ gian xảo, bịp bợm là bọn Ma giáo.
Ma giáo, thật ra là Ma-ni giáo, một tôn giáo xuất phát từ Ba Tư trên cơ sở hỗn dung các yếu tố của đạo Phật, đạo Thiên Chúa và đạo Pác-xi, không có liên quan gì đến ma quỷ cả. Tiếng Anh là manicheism/manichaeism, tiếng Pháp là manichéisme, tiếng Nga là манихеизм, tiếng Trung là   móníjiào ... đều có nghĩa là đạo của ông Ma-ni (216-276).
Từ Ma-ni giáo là phiên âm Hán Việt của   tiếng Trung, đã xuất hiện từ lâu trong tiếng Việt:
Đời Đường thế lực lan khắp ra các nước láng giềng, nên có giao-thông với các nước cũng nhiều, bởi thế mới truyền đến nhiều tông-giáo mới, như là: Yêu-giáo, Cảnh-giáo, Ma-ni giáo, Do Thái giáo. (Đông Châu, 1934, “Khảo về luân-lý học-sử nước Tàu, Nam Phong Tạp Chí, số 210, trang 337)

Thursday, 15 December 2011

Ca ve sao không biết nhảy?


Từ cavalier của tiếng Pháp có nhiều nghĩa, nhưng chỉ có một nghĩa vào tiếng Việt qua đường mượn âm và chỉ ở dạng giống cái (cavalière): bạn nhảy nữ

Hồi đầu thế kỷ 20 do quan niệm nam nữ thụ thụ bất thân, hầu như không có phụ nữ Việt Nam chịu khiêu vũ nên bạn nhảy nữ đều là chuyên nghiệp.


Trong Kỹ Nghệ Lấy Tây ta thấy Vũ Trọng Phụng gọi họ là ca-va-li-e:

Nghe đâu bây giờ có một cô ả trong bọn ấy sang một tiệm nhảy ở Đáp Cầu xin vào làm ca-va-li-e).

Trong Truyện bốn người đăng trên báo Ngày nay số 87, Khái Hưng & Thạch Lam &  Hoàng Đạo & Thế Lữ (1937:1010) gọi là kỵ nữ (vì cavalierkỵ sĩ):
Ai nấy chỉ nghĩ tới một việc, theo đuổi một mục đích : mời được, kéo được ra sân khiêu vũ một cô kỵ nữ).


Các cô cũng được gọi là vũ nữ:
Nhưng chàng thề với chàng rằng thế nào cũng tìm dịp gây sự để tặng cho kẻ tình địch một cái tát ở ngay trước mặt cô vũ nữ đáng ghét. (Khái Hưng & Thạch Lam &  Hoàng Đạo & Thế Lữ, 1937:1010)

Vũ nữ Hán Việt (làm việc ở vũ trường) nghe sang trọng hơn gái nhảy (làm việc ở tiệm nhảy).


Sau năm 1954 vũ trường biến mất ở miền Bắc nhưng thịnh dần ở miền Nam, từ ca-va-li-e biến mất, xuất hiện các từ ca veca nhe, lấy âm tiết đầu và âm tiết cuối của từ gốc mà phát âm theo kiểu miền Nam. Thời này ca ve vẫn còn biết nhảy, làm việc chủ yếu ở vũ trường. Nếu có làm gì thêm ở đâu khác thì đó không phải là đặc điểm nghề nghiệp của họ.
Các em gái bán bar trước bẩy nhăm, những thôn nữ làm gái nhẩy ở vũ trường bây giờ đều chính danh là ca ve, có thẻ đóng dấu và được phép hành nghề. (Nguyễn Việt Hà, 2007:34)

Cuối những năm 80, khi các vũ trường xuất hiện trở lại, làm bạn nhảy vẫn là công việc chính của các cô vũ nữ. Từ điển Hoàng Phê (2006:97) chỉ ghi nghĩa này. Việc ra ngoài chơi với khách vẫn nằm ngoài phạm vi công việc của ca ve. Ai đi như thế chỉ có thể là nhảy dù / đi dù. Từ điển Nguyễn Kim Thản (2005:194) mở ngoặc đơn là có khi, theo nghĩa xấu, còn bí mật kiêm hành nghề mại dâm.Ca ve thời này nhảy đầm không lương, chỉ có tiền bo tùy tâm của khách nhảy (nếu tranh được khách) mà không nhảy dù thì làm sao sống? Dần dần cái việc kiêm thêm lại thành việc duy nhất mà các cô ca ve biết làm. Bây giờ bất cứ cô gái nào đi khách cũng có thể được gọi là ca ve, không cần phải biết mặt mũi cái sàn nhảy ra sao.
Bác sĩ đi găng dày cộp, sợ bị nhiễm khuẩn cave. (Nhiều Tác Giả, 2010:130 - Võ Thị Xuân Hà)
Tùy theo địa bàn hoạt động của họ mà có ca ve đứng đường, ca ve mạng, ca ve vũ trường... Theo đẳng cấp thì có ca ve ngoại hạng, ca ve cao cấp, ca ve hạng sang, ca ve hạng bét lốp lét... Theo mức độ thành thục, có ca ve mới vào nghề và ca ve lành nghề. Theo cường độ hành nghề, có ca ve chuyên nghiệp, ca ve bán chuyên, ca ve bán chính thức. Trong số ca ve bán chuyên lại có ca ve chân dài, ca ve văn phòng, ca ve sinh viên... Tất cả các ca ve ấy khi dịch trở lại tiếng Pháp phải dùng từ pute, không dùng từ cavalière được.