Saturday, 28 December 2019

Nguyễn Khuyến nói tiếng Tây (Nguyễn Hùng Vĩ - Văn Hóa Nghệ An)

Nguyễn Khuyến nói tiếng Tây

  •   NGUYỄN HÙNG VĨ
  • Thứ hai, 28 Tháng 12 2009 06:08
  • font size giảm kích thước chữ tăng kích thước chữ

Cụ Tam nguyên Yên Đổ không chỉ giỏi sáng tác thơ ca chữ Hán, siêu việt về thơ Nôm mà ta còn thấy bóng dáng cả tiếng Tây trong thơ Cụ. Dĩ nhiên, phải đọc thơ Cụ kĩ càng một tí thì ta sẽ phát hiện ra ngay. Nhiều khi Cụ nói năng viết lách rất kín nhẽ , rất thâm trầm .

   1.Nhại tiếng Tây. Bài hát nói ông phỗng đá của Nguyễn Khuyến có đoạn đầu như sau:
                                Người đâu tên họ là gì?
                           Khéo thay chích chích chi chi nực cười.
                                Giang tay ngảnh mặt lên trời
                           Hay còn lo tính sự đời chi đây?
                           Thấy phỗng đá lạ lùng muốn hỏi
                           Cớ làm sao len lỏi đến chi đây?
                           Hay tưởng trông cây cỏ nước non này
                           Chí cũng rắp giang tay vào hội lạc
 Cái lạ đầu tiên của đoạn thơ là những câu hỏi liên tiếp mà tác giả đưa ra. Có gì mà phải hỏi nếu ông phỗng đá đó đầy rẫy các đền chùa. Người ta đều biết rằng đó là hình tượng tù binh Chiêm Thành đội đèn dâng hương. Dẫu không rõ tính danh nhưng người đâu thì có lạ gì mà phát vấn thế.
   Cái lạ thứ hai là ở tư thế và thần sắc bức tượng đá này: Giang tay ngảnh mặt lên trời/ Hay còn lo tính sự đời chi đây. Tượng cổ quả thật không có tư thế như vậy. Tượng phỗng xưa chắp tay và nhẫn nhục, khó đọc ra sự lo tính trên gương mặt. Tượng phỗng xưa thường đặt ở vị trí thấp so với người quan sát chứ không bắt người quan sát phải ngước trông như thế. Đọc đến câu Cớ làm sao len lỏi đến chi đây? thì chúng ta nhận ra đây là phỗng đá lạ lùng chứ quyết không là phỗng đá quen thuộc. Đây là những pho tượng mới nhập ngoại, lạ lùng với vốn văn hóa Nho gia lúc đó, dị ứng với tư tưởng của Nguyễn Khuyến lúc đó. Hai chữ len lỏi chứng tỏ đối với Cụ thì ông phỗng này không chính trực, không phổ biến. Tại sao nhìn một bức tượng, không những tả tư thế, mà Nguyễn Khuyến có tâm trạng đầy hoài nghi về sự xuất hiện không được đàng hoàng của nó: lo tính sự đời chi đây, len lỏi đến chi đây, chí cũng rắp
   Đến đây, chúng ta sẽ hiểu hơn câu thơ Khéo thay chích chích chi chi nực cười. Về câu thơ này, năm 1957, khi làm tập Văn thơ Nguyễn Khuyến các học giả Hoàng Ngọc Phách – Lê Thước – Lê Trí Viễn chú thích là: Chích chích chi chi: làm ra ngây ngô không biết gì việc đời. Chú như vậy có lẽ chưa trúng chăng với một hành vi lo tính, len lỏi, rắp. Tôi cho rằng, nếu Nguyễn Khuyến hỏi tên họ pho tượng mà có người đọc cho bằng tiếng Pháp là lúc đó là dê – duýt – cờ - rít ( Jé sus – Christ ) thì với lỗ tai nhà Nho nghe lạ lùng như chim hót vậy, và họ sẽ bật lên tiếng nhại chích chích chi chi. Bốn chữ này vốn có trong thơ ca phương Đông, nó là cách hình dung tiếng nói những dị tộc của những người tự coi mình là Hoa Hạ. Nguyễn Khuyến cũng vậy chăng khi Cụ vẫn gọi người Pháp xâm lược là bạch quỉ, bạch man.
   Tư tưởng chung đúc của Nguyễn Khuyến vẫn là ái quốc ưu dân, thơ văn Cụ thâm trầm tư tưởng đó, nhưng sự lựa chọn của Cụ là tùy ngộ nhi an (trong thời loạn, đành theo ngộ biến mà yên phận – Nguyễn Xuân Hiếu, Trần Mộng Chu: Khảo luận về Nguyễn Khuyến – NXB Nam Sơn 1960). Bất hợp tác với giặc Pháp nhưng Cụ không tham gia các phong trào chống Pháp sôi nổi lúc bấy giờ mà khẩu hiệu thường gặp là Bình Tây sát tả. Sự ảnh hưởng tư tưởng đó là khó tránh vì Cụ chung cục, cũng như Nguyễn Đình Chiểu trước đây quyết không quăng vùa hương, xô bàn độc để theo quân tả đạo.
   Quả thật, nửa sau bài ta thấy rõ tư tưởng đó của Cụ dưới ý vị trào lộng:
                            Thanh Sơn tự tiếu đầu tương hạc
                            Thương hải thùy tri ngã diệc âu
                            Thôi cũng đừng chấp chuyện đâu đâu
                            Túi vũ trụ mặc đàn sau gánh vác
                            Chén chú chén anh chén tôi chén bác
                            Cuộc tỉnh say say tỉnh một vài câu
                                Nên chăng đá cũng gật đầu.
   Từ chuyện pho tượng đá, Nguyễn Khuyến quay ra đối diện với lòng mình. Chốn Thanh Sơn ư, ta tự cười tóc đã bạc như đầu hạc (không vui vẻ được nữa). Thương hải biến dời ư, ta như con cò thôi (biết làm sao bây giờ). Không chấp chuyện đâu đâu mà nhọc lòng. Túi vũ trụ này sẽ phó mặc cho đàn sau. Lạ nhỉ? Cái ông phỗng nào mà quan tâm đến vũ trụ?. Nguyễn Khuyến là nhà Nho vốn có lòng tự nhiệm đã đành (Vũ trụ nội giai ngô phận sự - Nguyễn Công Trứ). Ông phỗng đó, pho tượng đá đó phải là một biểu tượng quan trọng, có tầm vóc toàn cầu chứ không phải là cái gì quen thuộc, bình thường. Cũng vì vậy mới hi vọng thỏa hiệp mà tương tồn trong cuộc say điên đảo này: Nên chăng đá cũng gật đầu. Tóm lại, đã gian tay ngửa mặt thì khó lòng mà phỗng ta. Đó là một bức tượng Tây nhìn qua lăng kính Nguyễn Khuyến.
    Nguyễn Khuyến là vậy, yêu nước lo dân nhưng bất lực, lui về, bài Tây nhưng tùy ngộ nhi an.
   2.Chép tiếng Tây bằng chữ Nôm. Bằng chứng Cụ dùng tiếng Pháp trong thơ nằm ở bốn chữ “gốc sậy” và “la ga” trong bài thơ Về nghỉ nhà:
                          Tóc bạc lòng son chửa dám già,
                          Ơn vua nhờ được nghỉ về nhà.
                          Nước non cây cỏ còn như cũ
                          Ghế gậy cân đai thế cũng là.
                          Đất rộng biết thêm đường gốc sậy
                          Ngày rồi nghe hết chuyện la ga.
                          Ông trời có nhẽ cho ta nhỉ
                          Có ý sinh ta phải có ta.
   Về bốn chữ trong cặp câu 5,6 có nhiều người băn khoăn. Các học giả làm sách Văn thơ Nguyễn Khuyến (1957) đã nói ở trên viết: Ví dụ: Đất rộng, biết thêm đường gốc sậy/ Ngày rồi nghe kể chuyện la ga. Chúng tôi đã hỏi nhiều người, cả con cháu nhà thơ mà chúng tôi được gặp, nhưng cũng không hiểu đích xác câu thơ nói gì. Trong trường hợp này chúng tôi hoặc “thú nhận là không biết” hoặc đưa ý riêng của mình, nhưng luôn luôn thận trọng. Ở phần chú thích, họ viết về gốc gậyTích này trong các bản nôm không chú thích. Có một nhà thơ lão thành cho biết đây là việc quân Pháp đánh Bãi Sậy, căn cứ địa của ông Tán Thuật. Về la ga viết: Tích này cũng không thấy chú thích. Chúng tôi nghe nói hồi đó, chính phủ thực dân, mở đường xe lửa, những gia đình ở vào đất ấy đều phải đuổi đi nơi khác. Nông dân thì phải đi phu… nên lời oán trách truyền khắp thành thị thôn quê. Có người lại nói: chuyện la ga là chuyện góp của các nơi đưa đến. Nhà ga xe lửa là một chỗ người thành thị thôn quê gặp nhau. Không hẹn mà gặp, các tác giả sách Khảo luận về Nguyễn Khuyến (1960) cũng viết: Người Pháp khi làm đường sắt nối liền hai thành phố này có đặt một ga xép tại làng Yên Đổ. Buổi ấy cách chuyên chở bằng hỏa xa thật là mới lạ đối với dân ta. Chắc hẳn nhiều người cũng đã thán phục lối chuyên chở nhanh chóng và thuận lợi ấy. Chưa kể những hành khách đi xe cũng là những người phổ biến tin tức mau lẹ nhất từ nơi này qua nơi khác. Và chỗ nhà ga chính là một trạm đón tin. Trong một bài thơ Nguyễn Khuyến cũng đã nhắc đến “truyện la ga”: Đất rộng biết thêm đường gốc gậy/ Ngày rồi nghe hết truyện la ga.
   Rất tiếc là bài thơ Về nghỉ nhà không ghi rõ thời gian sáng tác. Đọc kĩ bài thơ cũng không thể quyết đoán rằng Cụ làm bài này ngay sau khi nghỉ về hay là một thời gian lâu sau đó. Chỉ biết rằng trong đời Nguyễn Khuyến đã chứng kiến hai sự kiện kiến trúc quan trọng, chấn động dư luận, cùng khánh thành vào năm 1902: Cầu Long Biên và Ga Hàng Cỏ. Ga Hàng Cỏ lúc đó được coi là một lâu đài bên bờ sông Hồng, Việt Nam. Theo kí ức người xưa, người Pháp thông minh đã biến móng nền thành các ô vuông đựng nước phục vụ hỏa xa nên sàn mát như thạch, người qua lại thường ghé vào nghỉ trưa tránh nóng nên chuyện trò râm ran. Còn dễ hơn nhà nghèo đi siêu thị máy lạnh ngày nay. Như vậy từ la gare đã được đi vào thơ Nguyễn Khuyến bằng chữ Nôm la ga. Vậy còn hai chữ gốc sậy thì sao?. Sự cẩn trọng của các học giả tiền bối khiến chúng ta khiến chúng ta cũng thận trọng theo. Đó là những từ Việt có nghĩa nhưng khi đặt vào câu thì quá khó hiểu dù các học giả đã cố tìm hiểu người địa phương là con cháu. Nay tôi theo các cụ đưa ý riêng của mình để bạn đọc cùng suy nghĩ. Rõ là không thật bắt buộc, nhưng nếu trong thế đối, hai chữ dưới là tiếng Pháp thì hai chữ trên cùng tiếng Pháp sẽ thú hơn nhiều. Vậy hai chữ đó có thể là corsaire với nghĩa là tàu (tầu) ô, tàu cướp. ăn cướp, cướp biển. Từ tiếng Pháp đó khi đọc sang tiếng Việt bồi sẽ là cộc xẩy, cộc xảy và khi viết Nôm sẽ dùng cốc và  để biểu âm rồi có thể đọc là gốc sậy. Đường + tàu = đường + corsaire thì quá tinh vi và thâm thúy. Có thể vừa hiểu là đường tàu vừa có thể hiểu là đường ăn cướp nước người vì thấy đất rộng hoặc vì để rộng đất. Tiếng các người ư?. Tôi chỉ hiểu hai chữ “ăn cướp”. Chơi chữ Tây mà thật thâm Nho. Chúng ta đã từng thấy Nguyễn Khuyến nhại giọng Tây ngọng ra thơ chữ Hán mà viết Đại nhân ưng tác thỉ nhân hô, khiến ai cũng hiểu là Quan lớn nên kêu là quan lợn, thì việc Cụ chơi đối cả tiếng Pháp cũng là chuyện thường tình.
    Nguyễn Khuyến là vậy. Ngày nay dù tư tưởng chúng ta thay đổi bao nhiêu đi nữa thì: Người yêu nước chẳng mất ngôi bao giờ (Nguyễn Duy)./.
                                                                         

Tuesday, 17 December 2019

Bà ngoại anh hùng (Phạm Vũ - Tuổi Trẻ)

Bà ngoại anh hùng


26/07/2014 08:39 GMT+7

TT - “Tôi bị bắt khi hoạt động nội thành, đang mang thai bốn tháng. Thẩm vấn, tra tấn, biệt giam, đe dọa mãi vẫn không khai thác được gì, đối phương đưa bà ngoại của tôi đến và bảo bà khuyên cháu khai báo rồi sẽ được tự do về nhà sinh con.

HMOwb7bg.jpg
Tiệm bánh Trần Thượng, cơ sở cách mạng hơn 30 năm giữa Sài Gòn - Ảnh tư liệu gia đình cung cấp
Bà ngoại nắm tay tôi rồi quay sang viên cảnh sát: “Cảm ơn ông đã cho tôi gặp cháu. Nó lớn rồi, còn có cha có mẹ, có chồng có em. Nó làm sao để còn nhìn mặt cha mẹ, mặt chồng, mặt em thì làm”. Nói rồi bà ra về, mắt lòa, dáng đi lụm cụm giữa hàng cảnh sát...” - bà Tố Nga kể lại câu chuyện ấn tượng nhất về bà ngoại của bà: bà mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Mẹo. Bà Nga kết luận giản dị: “Bà ngoại như thế đó, nên tôi chỉ có một con đường là chiến đấu đến cùng, đến hết cuộc đời này”.
Theo con làm cách mạng
Xuất thân là phụ nữ nông dân, giỏi làm ăn, những năm 1940, bà Lê Thị Mẹo và ông Nguyễn Văn Thâu, chồng bà, trở thành một điền chủ lớn ở Cần Thơ, Sóc Trăng. Là điền chủ nhưng bà vẫn giữ chất nông dân chân chất, dạy con cháu tằn tiện đến từng cái giẻ lau, tay run run ghi một chữ “Mẹo” vào giấy tờ mỗi khi chồng đi vắng. Thế nhưng nỗi đau mất nước, nỗi đau nô lệ của xứ thuộc địa lại thấm vào ông bà từ bao giờ, để khi kháng chiến nổi lên bà lại không một lời ngăn cản vợ chồng cô con gái duy nhất Nguyễn Thị Tú lao vào phong trào. Mà ngược lại bà gom hết tài sản, ruộng đất hiến cho cách mạng, cả gia đình xuống một chiếc ghe về quê cũ ở Thường Phước, Cần Thơ sinh sống.
Ông Trần Thượng Tân, chồng cô Tú, mất sớm vì bạo bệnh, để lại người vợ trẻ mới 24 tuổi và bốn con thơ. Cách mạng Tháng Tám thành công không bao lâu, Pháp chiếm lại Nam kỳ, cuộc đấu tranh đi vào những bước cam go mới. Cô Nguyễn Thị Tú được tổ chức phân công về Sài Gòn hoạt động trong khối trí thức, bà Mẹo và ông Thâu một lần nữa dọn nhà cùng đi, cùng nhau làm một hậu phương vững chắc cho con gái.
Tiệm bánh Trần Thượng một thời nổi tiếng Sài Gòn ra đời từ đó. Tiệm bánh là nơi lui tới, móc nối giao liên của phong trào cách mạng, xuyên suốt các thời kỳ Việt Minh, Mặt trận dân tộc giải phóng, các khối giáo chức, trí vận... Bà Mẹo, ông Thâu đột nhiên có thêm nhiều chàng trai, cô gái đến gọi là “ba, má”. Những chiếc bánh của tiệm Trần Thượng được giao đi khắp Sài Gòn, lợi nhuận của nó lại lên đường theo cô Nguyễn Thị Tú làm cách mạng. Bánh của Trần Thượng còn lên đường đi vào mật khu, góp vui trong các cuộc hội họp đến tiếp tế vào hầm bí mật. Những đồng chí của cô Năm Tú còn đến hôm nay ai cũng nhớ hình ảnh bà mẹ nhân hậu, chỉn chu của cô ở tiệm Trần Thượng. Có bà, cô Năm Tú yên tâm vững bước trên con đường mình chọn. Có bà, các con trai, con gái của cô được lớn lên trong yên ấm, ăn học đủ đầy và thấm đẫm tinh thần yêu nước của ông bà ngoại.
TZKnbBxp.jpg
Bà mẹ Việt Nam anh hùng Lê Thị Mẹo - Ảnh tư liệu gia đình cung cấp
Bài học làm người
Không trực tiếp làm cách mạng nhưng bà Mẹo và ông Thâu lại chính là điểm tựa cả vật chất lẫn tinh thần cho những người cách mạng xuất thân từ gia đình ông bà. “Vì việc lớn, hi sinh bản thân, không trách móc, không đòi hỏi. Ông bà không nói, chỉ dạy cho chúng tôi bằng cuộc đời mình” - bà Tố Nga kể một câu chuyện ít được nhắc trong gia đình. Ấy là câu chuyện chiếc xe đưa ông về thăm quê bị phục kích vì lầm là xe chở sĩ quan Pháp. Những viên đạn vô tình bắn thẳng vào đứa cháu ngoại đang ngồi trong lòng, xuyên vào bụng ông, cắt rời chân phải. Bà Lê Thị Mẹo cắn răng chôn cất đứa cháu ngoại chỉ mới 3 tuổi, chứng kiến cảnh người ta cắt rời mấy miếng da còn dính lại trên chân của chồng, ba viên đạn xuyên bụng còn nằm im đó cho đến khi ông nhắm mắt. Vậy nhưng ông bà không một lời than trách những người đã gây ra mất mát oan nghiệt. Ông vẫn lặng lẽ đứng một chân điều hành tiệm bánh, bà vẫn ngược xuôi tiếp tế, nuôi giấu cán bộ, các con cháu vẫn tiếp nối nhau lên đường cách mạng.
“Tôi nhớ nhất là hình ảnh bà ngoại đi thăm tù” - cả mấy chị em bà Tố Nga, Quế Nga, Tuyết Nga, Ngọc Lan đều nhắc. Cả nhà hoạt động cách mạng nên bao nhiêu năm cứ lần lượt... ở tù. Từ ông Tạ Bá Tòng (chồng sau của bà Nguyễn Thị Tú - PV), bà Năm Tú, đến Tố Nga, Quế Nga, Tuyết Nga... Khắp các trại tù: Tổng nha Cảnh sát, Nha đô thành, Chí Hòa, Tân Hiệp, Thủ Đức, Côn Đảo... con cháu ở đâu, bước chân bà ngoại đi đến đó. Chiếc giỏ đệm của bà luôn được ông tự tay chuẩn bị, lèn chặt thức ăn, đồ tiếp tế, không chỉ cho con cháu mà cả những đồng đội của con cháu mình. “Bà không chỉ mang thức ăn và tình thương, bà mang cả sức mạnh” - bà Tố Nga ngùi ngùi nhắc. Cô Năm Tú bị đưa ra Côn Đảo, bà lặn lội xuống tàu, vượt biển ra thăm con. Những tên quản ngục thấy bà xuất hiện thì mừng lắm, hi vọng sự có mặt của bà sẽ lung lạc được cô con gái đang đứng đầu cuộc đấu tranh của tù nhân tại Chuồng Cọp. Gặp mẹ, chị Năm Tú nói ngay với bà điều đó. Bà hiểu, rớt nước mắt động viên con vài lời rồi quay lưng trở về đất liền. Hai lần bị ép đến gặp Tố Nga ở Tổng nha Cảnh sát cũng vậy, bà cứng cỏi dặn cháu: “Hùm chết để da, người ta chết để tiếng, con à”, rồi về.
Câu chuyện ngày 30-4
Trong vô số câu chuyện mà con cháu hôm nay kể về bà Lê Thị Mẹo, có câu chuyện về ngày 30-4, 1-5-1975. Ngày ấy, tiệm bánh Trần Thượng đông người lắm. Đầu tiên là Tố Nga bồng con gái chỉ vừa 4 tháng tuổi ra khỏi phòng biệt giam, cuống quýt vui tự do, mừng hòa bình về nhà bà ngoại. Rồi những người cháu khác, những liên lạc, giao liên của khối trí vận nô nức đến nhà. Lại có cả những người lính, sĩ quan cộng hòa vứt bỏ súng ống, hốt hoảng chạy vào cầu cứu, bà Mẹo hiền hòa lấy bánh cho ăn, lấy áo cho mặc, rồi an ủi, vỗ về, cho tiền về quê...
Buổi tối 1-5, một người đàn ông bước vào, rơm rớm nước mắt, vò mãi cái mũ, tự giới thiệu là trung tá ở Tổng nha Cảnh sát và nói với ông bà lời xin lỗi vì đã từng bắt giam, tra tấn chị Năm Tú. Đã gần 10 năm ruột gan rối bời vì không nghe tin con gái (bà Nguyễn Thị Tú mất tích trong trận càn Cedar Falls tại căn cứ Trung ương Cục năm 1967 - PV), đã qua hai ngày hi vọng mỏi mòn không thấy con về trong hòa bình, bà không khỏi đau xót. Thế nhưng bà vẫn bình tĩnh, cởi mở, trò chuyện rất hiền hòa. Ông Kiều Xuân Long, khi ấy là chánh văn phòng ban trí vận, cháu rể của bà, kể đến hôm nay chưa hết ngạc nhiên về bà ngoại: “Chiều ấy tôi vừa đến cửa, nhác thấy bóng tôi, bà ngoại liền ra đón. Bà bảo: có ông trung tá đang ở trong nhà, ông ấy đến xin lỗi gia đình. Người ta đã ngã ngựa, con đừng cư xử không phải với họ, con nhé... Bà ngoại, với bản năng bao dung của người mẹ, đã dạy tôi bài học về hòa hợp, hòa giải ngay lúc đó, ngay ngày 1-5-1975”.
“Bà ngoại của tôi là như vậy. Điều duy nhất làm bà day dứt đến phút cuối đời là chưa tìm được hài cốt của mẹ tôi. Bà không biết mình được truy tặng danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng, nhưng nếu biết, chắc bà sẽ bảo phải có thêm cha anh hùng để dành cho ông ngoại tôi suốt đời lặng lẽ. Ông bà cho chúng tôi cả một cuộc đời để học, để noi theo...” - bà Tố Nga lặp lại, không biết đã là lần thứ bao nhiêu trong đời bà. Ấy thế mà bà còn được học, được noi theo cả cuộc đời của mẹ nữa...
______________________
Kỳ tới:Mẹ Tú
PHẠM VŨ

Sunday, 15 December 2019

Xán lạn hay sáng lạng?



Từ điển không có sáng lạng, chỉ có xán lạn, chữ Hán là燦爛, nghĩa là rực rỡ. Nhiều người quen viết sáng lạng, không dám viết xán lạn vì sợ người đọc không hiểu hoặc nghĩ là viết sai chính tả. Ai cũng viết sáng lạng mà mình không viết theo thì coi không giống ai.


Wednesday, 11 December 2019

Đáng tranh cãi ở chỗ nào?




Các bạn Trung Quốc đăng lại bài La présence de la langue française au Vietnam của PGS Phạm Thị Anh Nga với lời giới thiệu như sau:


L'article suivant, malgré certains points de vue discutables pour nous, pourra nous fournir des renseignements et données importants sur ce sujet  
(Shanghai International Studies University).

Đọc hết bài vẫn không thấy chỗ nào bị coi là quan điểm đáng tranh cãi (points de vue discutables). Toàn là thông tin và dữ liệu quan trọng (renseignements et données importants) thì có gì để cãi nhau nữa? Chuyện gì các bạn Trung Quốc không muốn cãi, hay cãi không được, thì các bạn ấy đã thiến phăng mất rồi, thành thử cái đoạn chót trong bài chỉ lủng lẳng một câu rất vô duyên, không đầu không đuôi, không hồn không vía. Nói tóm lại là vô nghĩa.

Nhưng nguồn của các bạn ấy vẫn còn ở Cap Vietnam, bài gốc ở trang nhà của PGS Phạm Thị Anh Nga.  Google một phát là ra ngay chứ bên Trung Quốc đành chịu chết thôi. Bên ấy không xài Google.

Đây là đoạn đã bị cắt: