Showing posts with label không còn trang gốc. Show all posts
Showing posts with label không còn trang gốc. Show all posts

Sunday, 15 October 2017

Đại tướng Lê Đức Anh viết về ‘người anh’ Lê Duẩn

Đại tướng Lê Đức Anh viết về ‘người anh’ Lê Duẩn
Print Friendly, PDF & Email
leduan
“Chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó đúng, nhưng không có nghĩa là đến Đại hội VI mới có đổi mới, ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội IV, tới Đại hội V nó rõ dần, và tới trước thềm Đại hội VI thì tình thế, điều kiện về mọi mặt chín muồi cho Đảng và Nhà nước ta quyết định công bố đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước”, Đại tướng Lê Đức Anh nhớ lại.
“Ông Hai trăm Bu-gi”
Lần đầu tiên tôi được tiếp xúc với anh Lê Duẩn là tại Hội nghị Xứ ủy Nam Bộ mở rộng đầu năm 1947 ở Đồng Tháp Mười. Lúc đó ở Nam Bộ tổ chức cộng sản có hai phái  “Tiền Phong” và “Giải Phóng” cùng lãnh đạo quần chúng làm cách mạng  nhưng hai phái không đoàn kết mà lại tranh giành ảnh hưởng với nhau. Anh Lê Duẩn chủ trì hội nghị, một hội nghị vô cùng quan trọng vì không những nó hợp nhất, củng cố, khẳng định sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, mà nó còn định hướng cho tổ chức Đảng các cấp trong toàn Xứ ủy để lãnh đạo kháng chiến chống Pháp trước tình hình cấp bách đang diễn ra.
Từ hội nghị này, anh em Nam Bộ đặt cho anh cái biệt danh “Ông Hai trăm Bu-gi”, ý nói đôi mắt và tư duy mẫn tuệ  sáng như ngọn đèn hai trăm Bu-gi.
Trong kháng chiến chống Mỹ, tôi có nhiều lần từ chiến trường được ra Bắc báo cáo tình hình với anh. Sau giải phóng 1975, tôi có điều kiện gặp anh nhiều hơn. Không phải ở anh cái gì tôi cũng tán thành 100%, nhưng có hai điểm thì tôi luôn luôn nhất trí:
Một là, quyết tâm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Ngày đêm anh đau đáu suy nghĩ việc đó. Năm xưa anh hào hứng mang bản “Đề cương cách mạng miền Nam” ra Bắc. Đó là cơ sở để Ban Chấp hành Trung ương Đảng ta ra Nghị quyết 15, tạo nên bước nhảy vọt cho cách mạng miền Nam.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Đồng chí Lê Duẩn báo cáo với Chủ tịch Hồ Chí Minh về tình hình cách mạng miền Nam (1957). Ảnh tư liệu: Báo Nhân dân.
Năm 1972, quốc tế diễn ra nhiều sự kiện gây khó khăn lớn đối với cách mạng Việt Nam. Một lần nữa, anh Lê Duẩn đã cùng Bộ Chính trị – Bộ chỉ huy tối cao của cách mạng Việt Nam, tỉnh táo, sáng suốt tìm ra sách lược mới. Rồi tiến tới quyết định giải phóng miền Nam trong hai năm 1975-1976, tiến tới giải phóng trước tháng 5/1975 khi thời cơ đã tới. Đây là một quyết định sáng suốt. Tôi cho rằng, quyết định này xuất phát từ trí tuệ chứ không chỉ từ tấm lòng.
Hai là, anh luôn là một con người đôn hậu. Sự đôn hậu không chỉ thể hiện khi anh đưa ra những chủ trương, chính sách để cải thiện, mang lại cuộc sống cho người dân ngày càng tốt hơn, mà còn cả trong tiếp xúc, ứng xử đối với anh em, đồng chí, với bạn bè quốc tế, kể cả khi đối với sự việc và con người không đáng được nhận sự nhân ái và lòng bao dung đó.
Hội nghị 81 Đảng cộng sản và những vết rạn
Cuối những năm 50, đầu những năm 60 (của thế kỷ 20), tình hình quốc tế có hai diễn biến gây bất lợi và cản trở rất lớn đối với cách mạng Việt Nam: Một là, với tư duy “Một ngọn lửa nhỏ cũng dễ làm bùng cháy cả cánh đồng, một xung đột vũ trang nhỏ cũng dễ thành ngòi nổ chiến tranh hạt nhân”, xu hướng “thi đua hòa bình, thủ tiêu đấu tranh vũ trang, cầu an, quá đề cao nguy cơ chiến tranh hạt nhân” đang thắng thế trong phong trào cộng sản và công nhân thế giới, mà dấu mốc là Hội nghị 81 đảng cộng sản và công nhân, mùa Thu năm 1960 tại Mat-xcơ-va do Khơ-rút-xốp, Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên-xô chủ trì.
Hai là, sự mâu thuẫn và rạn nứt quan hệ giữa Liên-xô và Trung Quốc bắt đầu xuất hiện tại cuộc gặp mặt các Đảng cộng sản và công nhân ở Bucarest (Rumani), tới Hội nghị 81 Đảng cộng sản và công nhân ở Mat-xcơ-va thì công khai bộc lộ ra. Khơ-rút-xốp thì chỉ trích ban lãnh đạo Trung Quốc là chủ nghĩa giáo điều; còn Trung Quốc thì kết tội ban lãnh đạo Liên-xô là chủ nghĩa xét lại hiện đại.
Sau Hội nghị 81 Đảng, giữa hai bên ngày càng căng thẳng: Các quan hệ về hợp tác kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật bị đình chỉ, quan hệ ngoại giao hạ xuống mức thấp nhất; dọc biên giới hai nước, các cuộc khiêu khích vũ trang liên tiếp xảy ra, cuối cùng dẫn đến cuộc chiến tranh biên giới.
Hai bên chửi nhau công khai trên trường quốc tế, đồng thời đẩy mạnh các hoạt động dụ dỗ, gây sức ép để lôi kéo các đảng khác ngả về phía mình… Tình hình quốc tế nêu trên đã tác động mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, tình cảm của các thành viên trong Ban lãnh đạo đảng ta.
Từ sau 1954, trong nội bộ ta có ba khuynh hướng: Một khuynh hướng kiên quyết đánh cho Mỹ cút, ngụy nhào, Bắc Nam sum họp. Đứng đầu và tiêu biểu cho khuynh hướng này là Bác Hồ, các đồng chí Lê Duẩn, Nguyễn Chí Thanh. Một khuynh hướng là: Mỹ nó mạnh quá, không thể đánh được.
Một khuynh hướng khác: Nếu đánh nó thì nguy cho cả miền Bắc, hãy làm theo tinh thần của Hội nghị 81 Đảng –Thi đua hòa bình, tập trung xây dựng miền Bắc Việt Nam, xây dựng phe XHCN ngày càng mạnh lên, phe TBCN ngày càng yếu đi, đến lúc sắp lụi tàn nó sẽ đầu hàng…
Có thể nói, đây là một trong những thời kỳ phức tạp nhất về chính trị đối với việc hoạch định đường lối chỉ đạo cách mạng Việt Nam.
Nghị quyết 15 Trung ương ra đời trong hoàn cảnh khó khăn phức tạp như vậy chứng tỏ kinh nghiệm dày dạn và trưởng thành vượt bậc của Đảng ta cả về lý luận và thực tiễn, cả về đường lối và phương pháp cách mạng. Nó thể hiện rõ đường lối độc lập, tự chủ và sách lược mềm dẻo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với tình hình quốc tế và trong nội bộ lãnh đạo của ta lúc bấy giờ, đáp ứng được nguyện vọng bức thiết của cán bộ, đảng viên và quảng đại quần chúng nhân dân ở miền Nam.
Nghị quyết 15 thật sự là một nghị quyết về “chuyển chiến lược” từ đấu tranh chính trị đơn thuần sang đấu tranh chính trị kết hợp với đấu tranh vũ trang, dùng bạo lực cách mạng để chống lại bạo lực phản cách mạng tàn bạo của kẻ địch. Nghị quyết 15 đã cắm mốc lịch sử vô cùng quan trọng của cách mạng Việt Nam, nó phù hợp với tình hình thực tế nên đã tạo bước tiến nhảy vọt cho phong trào cách mạng miền Nam.(1)
Chuyện chưa từng kể về Việt Nam và hai “người anh lớn”
Cách đây mười một năm, mùa Hè năm 2005, khi anh Phạm Văn Xô bệnh nặng, tôi tới thăm anh tại Bệnh viện Thống Nhất, được anh cho biết: Anh và anh Phan Văn Đáng được thay mặt Xứ ủy Nam Bộ ra dự Hội nghị Trung ương lần thứ 15 (mở rộng).
Tháng 8 /1957, hai anh ra tới Hà Nội, chờ đợi hết năm 1958, đến tháng 1/1959, mới được dự họp, nhưng không phải họp toàn Ban Chấp hành Trung ương ở hội trường, mà chỉ là thảo luận ở tổ để quán triệt tinh thần “Thi đua hòa bình”- Nội dung cốt lõi và bao trùm nhất tại văn bản do nhóm anh Võ Nguyên Giáp soạn thảo.
Tôi tin lời anh kể; vì trước đó, ngày 5 tháng 6-1956, Báo Nhân Dân đã đăng (gần hết cả số báo) bài “Thi đua Hòa bình” của anh Võ Nguyên Giáp; trong đó có câu: “Người ta hỏi rằng, có thể thống nhất đất nước  bằng phương pháp hòa bình được không? Câu trả lời là được! Và đó là con đường duy nhất đúng…” Sau hội nghị đợt 1 không thấy kết quả, các anh buồn nản xin trở về Nam.
Trước khi về, đồng chí Lê Duẩn bố trí cho hai anh lên chào Bác Hồ. Anh Duẩn nhủ: “Cứ nói hết tình hình miền Nam với Bác”. Và, Hồ Chủ tịch đã căn dặn các anh: “Miền Nam ở xa, Xứ ủy Nam Bộ phải chịu trách nhiệm với Trung ương. Cách mạng phải sáng tạo. Kiên quyết không để Mỹ-Diệm tiêu diệt cách mạng miền Nam.”
Các anh đã trao đổi hai ngày với anh Lê Duẩn trước khi trở về Nam. Anh Lê Duẩn bảo: “Bác nói thế rồi. Vậy các anh về báo cáo với Xứ ủy cứ thế mà làm!”. Sau đó, miền Nam bùng lên “Đồng khởi”, không khí cách mạng của cả miền Nam hừng hực như cánh đồng cỏ khô, chỉ chờ một mồi lửa là bùng cháy….
Đất nước ta còn đầy mình thương tích sau chín năm kháng chiến chống thực dân Pháp lại phải lâm vào cuộc chiến tranh chống Mỹ, tên đế quốc đầu sỏ số 1, trong khi nền kinh tế của ta vừa nghèo nàn vừa lạc hậu vào bậc nhất nhì thế giới.
Chúng ta ý thức được rằng, nếu không có sự chi viện và giúp đỡ của Liên-xô, Trung Quốc – Hai người Anh Cả của Việt Nam, rồi của các nước Xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên toàn thế giới thì chúng ta không đủ sức đánh Mỹ và thắng Mỹ.
Nhưng lúc đầu, Liên-xô không đồng ý cho ta phát động đấu tranh võ trang, yêu cầu ta quán triệt và thực hiện “Thi đua hòa bình”. Còn Trung Quốc thì bảo ta “Kiên trì mai phục”; tới lần thứ ba ta đề nghị thì mới đồng ý để ta tổ chức vũ trang ở quy mô cấp tiểu đội là phổ biến, cấp đại đội chỉ là cá biệt. Về vũ khí, Trung Quốc chỉ cho ta loại súng trường K44 bắn phát  một, nói là “để tự vệ, chống càn!”.
Cả hai người Anh lớn không đồng tình việc ta đấu tranh bằng bạo lực cách mạng, trong khi hai ông Anh lại đang mâu thuẫn gay gắt với nhau. Ta làm sao đây? Khó lắm thay!…
Được sự tin cậy và dặn dò của Hồ Chủ tịch, anh Lê Duẩn đã nhiều lần đi Mat-xcơ-va và Bắc Kinh. Anh đưa ra những thắng lợi đầu tiên, những chuyển biến tích cực của chiến trường Nam Bộ để thuyết phục. Và, bằng lối tư duy và ứng xử sắc sảo, tài ngoại giao khôn khéo của mình, dần dần anh đã thật sự thuyết phục được họ: Liên-xô đồng ý viện trợ cho ta toàn bộ vũ khí, khí tài và phương tiện để ta chống lại cuộc chiến tranh phá hoại bằng không quân và hải quân của đế quốc Mỹ, bảo vệ vững chắc miền Bắc XHCN.
Trung Quốc đồng ý viện trợ vũ khí, phương tiện, tiền bạc và vật chất để ta chiến đấu với đế quốc Mỹ và tay sai ở miền Nam.
“Chớp thời cơ càng nhanh càng tốt”
Trước kia tôi ở cương vị thấp nên không có điều kiện tiếp xúc nhiều với anh Lê Duẩn.
Đến tháng 11/1973, sau khi được cùng anh Võ Văn Kiệt và Khu ủy Khu 9 lãnh đạo, chỉ huy lực lượng cách mạng của Quân khu đánh bại kế hoạch “Tràn ngập lãnh thổ” của địch, làm phá sản chiến lược bình định lấn chiếm sau Hiệp định Paris của chính quyền Sài Gòn, tôi được anh Lê Duẩn gọi ra Bắc báo cáo tình hình chiến trường. Anh nói rằng: “Mỹ tăng cố vấn và tăng viện trợ để thực hiện ý đồ “Quốc gia dân tộc”; nhưng bọn ngụy quyền vẫn tham nhũng và mâu thuẫn nhau nên chưa thực hiện được.
Cả bộ máy quân sự khá đồ sộ, từ quân chủ lực tới quân địa phương, bảo an dân vệ, đến phòng vệ dân sự… đông, đồ sộ nhưng không mạnh”. Anh nói một cách rành rẽ và kiên quyết: “Quyết không để cho quân ngụy nó lại hồn, không để cho nó trấn tĩnh lại, phải chớp thời cơ càng nhanh càng tốt.
Nếu một khi nó đã hết hoang mang, ổn định tinh thần rồi thì mình sẽ khó vô cùng. Nếu kế hoạch cơ bản về “Việt Nam hóa” của nó mà làm được 70% thì ta sẽ khó khăn. Lúc đó nếu còn chiến tranh thì sẽ trở thành nội chiến; mà đã như thế thì nó sẽ diễn ra như thế nào, không ai lường trước được”.
Nghiên cứu tình hình thì thấy rất rõ là  từ giữa năm 1973 đến đầu 1974, địch bắt đầu thí điểm thực hiện kế hoạch “Việt Nam hóa” ở một số vùng ven đô. Bởi vậy, Bí thư Thứ nhất Lê Duẩn và Bộ Chính trị Trung ương Đảng ta đã chỉ rõ: Nhằm lúc Mỹ rút nhưng chưa rút xong và không thể quay lại, ngụy ở lại thì chưa ổn định, đây là thời cơ tốt nhất để ta tổng tiến công và nổi dậy đánh trận quyết chiến chiến lược cuối cùng. Thời cơ là vô cùng quan trọng. Thời cơ là sức mạnh. Đây là một tư duy sáng suốt.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Tổng Bí thư Lê Duẩn (đứng thứ 6 từ phải sang) và đồng chí Lê Đức Anh (đứng ngoài cùng bên phải) cùng các đồng chí lãnh đạo cao cấp tại Hội nghị tổng kết Chiến dịch Hồ Chí Minh, giải phóng hoàn toàn miền Nam – thống nhất đất nước (Đà Lạt 1975). Ảnh tư liệu/ CAND
Ngay sau đó, đầu năm 1974, anh Lê Duẩn đã trực tiếp chỉ đạo Bộ tổng Tham mưu chuẩn bị kế hoạch quân sự tiến công giải phóng miền Nam trong 2 năm 1975-1976; đồng thời chỉ đạo Trung ương Cục miền Nam khẩn trương tổ chức phong trào quần chúng và các lực lượng tại chỗ (lực lượng chính trị và lực vũ trang địa phương, lực lượng quân báo, biệt động, lực lượng tình báo…) trong lòng các đô thị mà quân địch đang chiếm đóng.
Khi đó, anh đã chỉ rõ: “Do tính chất của cuộc chiến tranh, đô thị là nơi quyết định. Nó thua ở đâu, chứ nếu không dứt điểm được Sài Gòn thì chiến tranh sẽ còn tiếp tục. Cho nên nhất định Sài Gòn phải chuyển mạnh, nếu không thì mất thời cơ… Chuẩn bị và tổ chức tốt lực lượng tại chỗ thì đường phố sẽ không còn là phòng tuyến của địch, mà trở thành những chiến lũy gang thép, thiên la địa võng của ta để bao vây và tiêu diệt quân thù.
Mà chẳng phải chỉ có Sài Gòn mới làm được như thế đâu. Huế, Đà Nẵng, Nha Trang, Cần Thơ… nơi nào cũng làm được như thế cả…”
Thế rồi sự thật lịch sử cuộc Tổng tiến công và nổi dậy, Đại thắng mùa Xuân 1975 đã diễn ra đúng như ý kiến tiên liệu của anh.
Chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam
Trong suốt cuộc chiến tranh giải phóng vĩ đại, dưới sự lãnh đạo của Đảng ta và Hồ Chủ tịch, anh là một trong những nhà lãnh đạo xuất sắc chèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió thác ghềnh cập bến vinh quang. Trong hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, anh Lê Duẩn đã có công rất lớn.
Phẩm chất và di sản của anh để lại, chúng ta còn phải nghiên cứu học hỏi để dần dần hiểu được hết anh.
Chúng ta hãy hình dung lại, sau ngày miền Nam giải phóng, nền kinh tế của ta nghèo nàn và lạc hậu như thế nào. Sau 1975, tỷ lệ thương tật, chưa kể số nhiễm chất độc hóa học là trên 10%, đây là tỷ lệ cao nhất thế giới.
Khói súng chiến tranh chưa tan hết, hậu quả nặng nề của hơn 30 năm chiến tranh chưa khắc phục được bao nhiêu. Chúng ta bị Mỹ và các nước thân Mỹ bao vây cấm vận, trong khi đó Liên-xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu đang mắc sai lầm nghiêm trọng để rồi dẫn đến sụp đổ. Theo đó, khối SEV, nguồn viện trợ duy nhất của ta đã cạn dần rồi mất hẳn. Nước ta lâm vào khủng hoảng kinh tế-xã hội, lạm phát tới 774%. Trong khi Liên-xô rơi vào khủng hoảng toàn diện, lạm phát còn nặng hơn ta nhiều.
Trong hoàn cảnh nghiệt ngã như thế, tôi cho rằng, Đảng ta mà đứng đầu là Tổng Bí thư Lê Duẩn đã chèo chống như vậy, giữ cho không bị sụp đổ, tuy có gian nan vất vả nhưng vẫn trụ vững, dần ổn định và tìm cách đi lên là một kỳ tích đáng tự hào.
Tại Đại hội lần thứ V của Đảng (tháng 3/1982), Báo cáo chính trị do anh trình bày đã nghiêm khắc phê bình hai loại nhận thức: Một là “chủ quan nóng vội”, đề ra một số chỉ tiêu quá lớn về quy mô và quá cao về tốc độ xây dựng cơ bản và phát triển sản xuất… đưa quy mô hợp tác xã nông nghiệp lên quá lớn ở một số địa phương. Hai là “bảo thủ, trì trệ”, duy trì quá lâu cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp, chậm thay đổi các chính sách, chế độ, nên đã kìm hãm sản xuất.
Đại hội đã quyết định “Đổi mới chế độ quản lý và kế hoạch hóa hiện hành. Xóa bỏ cơ chế quản lý hành chính, quan liêu, bao cấp; khắc phục bằng được tình trạng trì trệ, bảo thủ… Vừa nắm vững giá trị sử dụng, vừa coi trọng giá trị và quy luật giá trị”. Như vậy, ngay từ Đại hội V, Ban Chấp hành Trung ương và đồng chí Tổng Bí thư Đảng ta đã nghiêm khắc chỉ ra mặt tiêu cực của cơ chế quan liêu bao cấp và từng bước xóa bỏ cơ chế này. Hay nói một cách khác là “tư duy về đổi mới kinh tế, đổi mới đất nước” đã xuất hiện từ trước thềm Đại hội V.
Trao đổi với mọi người, anh Lê Duẩn vẫn thường nói một mệnh đề mà anh hằng tâm đắc: “Chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo; nên nhiều khi đường lối cách mạng phải trải qua rất nhiều thử nghiệm và sáng tạo mới đạt tới chân lý”.
Lịch sử về đổi mới nông nghiệp đã minh chứng: Bắt đầu từ tư duy “Khoán hộ” của anh Kim Ngọc, Bí thư Tỉnh ủy Vĩnh Phúc; 15 năm sau thì xuất hiện “Khoán chui”, “Khoán sản” của Bí thư Hải Phòng Đoàn Duy Thành đã làm cơ sở cho “Chỉ thị 100” của Ban Bí thư tháng 1-1981 và Nghị quyết “Khoán 10” (tháng 4/1988) của Bộ Chính trị khóa VI. Lúc này, sức sản xuất thực sự được giải phóng, sản xuất bung ra, lương thực bung ra.
Nếu như trước đó, khi anh Duẩn đề ra chỉ tiêu 21 triệu tấn, nhiều người hoài nghi, thì đến đây chúng ta không những đã giải quyết được cơ bản về lương thực, bảo đảm an ninh lương thực, mà còn có gạo xuất khẩu – một sự kiện “như mơ giữa ban ngày”.
Bởi vậy, tôi cho rằng, chúng ta thường nói Đại hội Đảng VI là mốc son của công cuộc đổi mới đất nước. Điều đó đúng. Nhưng không có nghĩa là đến Đại hội VI thì mới có đổi mới, mà ý tưởng này đã manh nha từ Đại hội IV, tới Đại hội V nó rõ dần ra, và tới trước thềm Đại hội VI thì tình thế, điều kiện về mọi mặt (nhận thức, tư tưởng, kinh tế-xã hội…) đã chín muồi cho Đảng và Nhà nước ta quyết định công bố đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước.
“Nhân dân sẽ nói Bộ Chính trị đã phản bội, đưa Bác đi đâu rồi!”
Trước khi Bác Hồ qua đời, Bộ Chính trị đã có quyết định nhờ Liên Xô giữ thi thể của Bác cho con cháu hôm nay và mai sau được mãi mãi trông thấy Bác. Liên Xô đồng ý nhưng yêu cầu đưa thi hài của Bác sang Mat-xcơ-va… Hơn 1 giờ sáng, sau cuộc họp Bộ Chính trị, anh Lê Duẩn đến nhà khách của Chính phủ, nơi nghỉ của đồng chí Côxưgin, Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng Liên Xô sang dự Lễ tang của Bác.
Anh Duẩn nói: “Các đồng chí biết Bác Hồ của chúng tôi đối với dân tộc Việt Nam là thiêng liêng như thế nào. Nhất là đối với đồng bào miền Nam, họ hy sinh chiến đấu để được độc lập, thống nhất và cũng là để được gặp Bác cho toại nguyện. Bác cũng rất muốn vào Nam gặp đồng bào Miền Nam, nhưng sức khỏe của Bác không cho phép. Vì vậy chúng tôi phải giữ thi thể của Bác để đồng bào Miền Nam chúng tôi được thấy dung nhan của Bác sau ngày chiến thắng.
Chúng tôi biết, ngoài Liên Xô ra, không nước nào có kỹ thuật gìn giữ thi thể. Nếu Liên Xô nói phải đưa thi thể Bác sang Liên Xô mới giữ được thì chúng tôi đành phải chôn Bác, bởi vì nếu chúng tôi đưa Bác sang thì nhân dân chúng tôi sẽ nói Bộ Chính trị đã phản bội, đưa Bác đi đâu rồi!- Và khi quyết định chôn Bác, chúng tôi sẽ nói với đồng bào chúng tôi: Chỉ có Liên Xô mới có kỹ thuật giữ thi thể của Bác, nhưng vì Liên Xô không chịu làm, nên Bộ Chính trị đau lòng gạt nước mắt để chôn Bác”.
Nghe anh Duẩn nói xong, Côxưgin liền nói: “Thôi thôi, tôi sẽ gọi chuyên gia của chúng tôi đến ngay và ra lệnh cho họ phải giữ thi hài Bác Hồ ngay tại Việt Nam. Nếu thiếu phương tiện gì, tôi sẽ điện về Mat-xcơ-va đưa sang ngay bằng chuyên cơ”.
Sau đó, thi hài của Bác đã được chuyên gia Liên Xô giữ lại ngay tại Việt Nam; và vì thế ngày nay nhân dân ta mới có cơ hội hàng ngày vào Lăng viếng Bác.
Đại tướng Lê Đức Anh, TBT Lê Duẩn, Đổi Mới
Đồng chí Tổng Bí thư Lê Duẩn đọc Điếu văn tại Lễ tang Chủ tịch Hồ Chí Minh (9/9/1969). Ảnh tư liệu/ Hochiminh.vn
Lịch sử cách mạng Việt Nam đã khẳng định: Chủ tịch Hồ Chí Minh và Bộ Chính trị Trung ương Đảng đã rất tin tưởng, sáng suốt khi giao cho anh trọng trách: Trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng miền Nam kháng chiến chống thực dân Pháp; Bí thư Thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng trong suốt chiến tranh chống Mỹ và Tổng Bí thư của Đảng sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.
Bằng tư duy sáng tạo và phẩm chất lớn lao, anh đã hoàn thành vẻ vang sứ mệnh cao cả đó; anh đã thật sự xứng đáng với sự ủy thác to lớn đó. Tự giác tôi luyện mình trong đấu tranh cách mạng vĩ đại của dân tộc, đồng chí Lê Duẩn đã trở thành nhà lãnh đạo lỗi lạc của cách mạng Việt Nam.
Hôm nay, nhân kỷ niệm 30 năm ngày anh từ biệt chúng ta đi về cõi vĩnh hằng, chúng ta nhớ về anh, một người anh đôn hậu, đáng kính trọng và vô cùng biết ơn!.
Tháng 7 năm 2016
Đại tướng Lê Đức Anh, Nguyên Ủy viên Bộ Chính trị, Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam
Đại tá Khuất Biên Hòa(chắp bút)
Hình: Từ trái qua phải: Thủ tướng Phạm Văn Đồng, Tổng bí thư Trường Chinh, Tổng bí thư Lê Duẩn. Ảnh tư liệu.
—————
1-    Hội nghị Trung ương (Khóa II) lần thứ 15 phải họp thành 2 đợt trong 7 tháng. Đợt 1 từ ngày 12 đến 22-1-1959; Đợt 2 từ ngày 10 đến 15-7-1959. Văn bản Cục Lưu trữ Ban Chấp hành Trung ương số 83-TB/TW ngày 24-7-1997: “Thông báo về các kết luận Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng Khóa VIII”: “Nghị quyết 15 của Trung ương Khóa II là sản phẩm trí tuệ của toàn Đảng, của tập thể Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị Khóa II, xuất phát từ những định hướng chiến lược đầu tiên của Hồ Chủ tịch từ tháng 7 năm 1954 khi hòa bình vừa mới lập lại trên một nửa đất nước, có sự chỉ đạo công phu của đồng chí Lê Duẩn, Quyền Tổng Bí thư lúc bấy giờ, cùng một số đồng chí trong Bộ Chính trị và trong Trung ương. Nghị quyết phản ánh đúng nguyện vọng của đồng bào, đồng chí ở miền Nam nước ta lúc đó”.
Nguồn: Tuần Việt Nam
http://nghiencuuquocte.org/2016/07/09/dai-tuong-le-duc-anh-viet-ve-nguoi-anh-le-duan/

Sunday, 15 June 2014

Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê) (Ngô Trần Đức - Hồn Việt Quốc Học)

Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê)

NGÔ TRẦN ĐỨC

Hình ảnh của Về những bài viết ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ năm 1919 đến năm 1923 (trao đổi với Thụy Khuê)
1. MỞ ĐẦU
Trên báo mạng của Đài RFI tiếng Việt, sau loạt bài về Nhân văn - Giai phẩm, Thụy Khuê đã cho đăng một bài viết 4 kỳ với một cái tít khá giật gân: Ai viết những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc tại Pháp từ 1919 đến 1923?

Tên bài khiến tôi phải đọc, bởi lẽ ai cũng biết, thời gian đầu, Nguyễn Ái Quốc được coi là bút danh tập thể của ba người: Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, Nguyễn Tất Thành khi thảo bản Yêu sách gửi Hội nghị Versailles; nếu làm rõ được những bài viết sau đó, khoảng từ giữa năm 1919 sang đầu năm 1920, bài nào là của Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường, bài nào là của Nguyễn Tất Thành, thì cũng là một đóng góp trong việc nghiên cứu, bởi cần phải “trả lại những gì của César cho César”, đó là cách ứng xử sòng phẳng đối với các vấn đề của lịch sử nói chung, cũng là một thái độ cần có trong nghiên cứu khoa học.
Nhưng để làm được việc đó thật không đơn giản chút nào. Những bài viết ấy xuất hiện cách đây đã hơn 80 năm, các tác giả của nó đã đi vào lịch sử từ rất lâu, và những người đương thời - như những chứng nhân lịch sử - cũng chẳng còn ai. Để có thể làm rõ một cách thuyết phục, đòi hỏi phải rất công phu: phải đi sâu khảo sát thư tịch, sưu tầm, tra cứu bản thảo, bút tích của các tác giả từ những nguồn lưu trữ khác nhau trong và ngoài nước, so sánh đối chiếu nội dung, sự kiện được đề cập đến trong bài viết với cuộc đời hoạt động và văn phong của các tác giả,… để xem vào thời điểm đó, ai có thể viết, được công bố lần đầu tiên ở đâu, trên báo nào… Tóm lại, là phải có minh chứng, lập luận, lý giải thuyết phục, chứ không thể cứ một mực tùy tiện, nói liều!
Đọc xong bài viết 4 kỳ của Thụy Khuê, tôi hoàn toàn thất vọng, bởi tác giả hình như không có ý định xuất hiện như một nhà khảo cứu với phương pháp làm việc khoa học mà chỉ muốn làm một nhà báo tuyên truyền cho động cơ chính trị của nhà Đài! Âu cũng là chuyện thường tình, như là “nợ áo cơm, phải trả hình hài” vậy thôi! Người đọc nhận thấy ngay, các chủ kiến và lập luận của Thụy Khuê đưa ra hoàn toàn không phải là kết quả của một quá trình tìm tòi nghiêm túc, dựa trên các chứng cứ xác thực, được chứng minh cụ thể, có nguồn xuất xứ tin cậy, mà chỉ toàn xuất phát từ những thiên kiến chủ quan, những lập luận hời hợt, để rồi đưa ra những kết luận hồ đồ với cách thức diễn đạt không thể chấp nhận trong nghiên cứu khoa học: có lẽ là, có thể là, rất có thể là, phải chăng là… (của Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh,…) được tác giả lặp đi lặp lại hàng chục lần! Những lỗi thô thiển về logic và lập luận như vậy có lẽ chỉ những học sinh trung học đang tập viết văn chính luận mới thường mắc phải!
Tuy nhiên, người đọc vẫn hiểu được cái đích của bài viết mà Thụy Khuê muốn đi tới là: tất cả các bài báo ký tên Nguyễn Ái Quốc từ năm 1919 đến năm 1923, thậm chí đến năm 1927, bao gồm cả những bài được đăng trên Inprekor - cơ quan thông tin của Quốc tế Cộng sản, cả hai cuốn Đông Dương và Bản án chế độ thực dân Pháp, cũng được quy cho là của Nguyễn Thế Truyền hoặc Nguyễn An Ninh mà không cần bất cứ một sự chứng minh nào! Thật không thể tưởng tượng nổi có một người phụ nữ cầm bút, định làm nghiên cứu mà lại liều lĩnh đến như vậy!
Cơ sở xuất phát cho mọi thiên kiến cực đoan của Thụy Khuê bắt đầu từ chỗ tác giả cho rằng: giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành mới từ Anh trở lại Paris, lúc đó anh mới đang học tiếng Pháp nên chưa thể viết những bài báo có nội dung chính trị phức tạp được!
Kể ra, đối với một bài viết tùy tiện như thế, thực không đáng phải tốn nhiều giấy mực về nó. Nhưng với nhiều bạn đọc, nhất là các bạn trẻ, không có điều kiện trực tiếp với thư tịch gốc, đọc Thụy Khuê sẽ dễ bị ngộ nhận, nên tôi thấy cần thiết phải viết bài trao đổi này với Thụy Khuê và với các bạn đọc có quan tâm đến vấn đề được đặt ra.
2. NGUYỄN TẤT THÀNH TRỞ LẠI PARIS NĂM NÀO? TRÌNH ĐỘ TIẾNG PHÁP CỦA ANH RA SAO?
2.1. Đúng là vấn đề thời gian Nguyễn Tất Thành trở lại Paris chính xác vào ngày tháng năm nào vẫn đang còn có ý kiến khác nhau. Tiến sĩ sử học Thu Trang, trong hai công trình nghiên cứu của mình về Phan Chu Trinh và về Nguyễn Ái Quốc, đều cho rằng: “Nguyễn Ái Quốc đã đến Paris vào đúng lúc Hội người Việt Nam yêu nước ra đời. Nghĩa là vào cuối năm 1916 đầu năm 1917, chắc hẳn không phải là trường hợp ngẫu nhiên” [1].
Một số người khác, trong đó có nhà sử học Pháp Daniel Hémery, lại cho là vào năm 1919 chứ không phải năm 1917 [2]. Cả hai phía đều dựa vào những báo cáo khác nhau của mật thám. Tuy nhiên, có nhiều nhà nghiên cứu lại cho rằng, cần phân biệt thời điểm Nguyễn Tất Thành bí mật trở lại Paris với thời điểm mật thám phát hiện ra anh từ sau vụ anh thay mặt nhóm người Việt Nam yêu nước đến trao bản Yêu sách 8 điểm gửi Hội nghị hòa bình Versailles. Nghĩa là mật thám Pháp chỉ phát hiện ra anh từ sau ngày 18/6/1919, sau khi Tổ chức giúp đỡ người lao động nhập cư của Đảng Xã hội đã lo xong cho anh những giấy tờ hợp pháp, để từ đó anh có thể xuất hiện công khai. Như vậy, Nguyễn Tất Thành đã phải có mặt ở Paris trước thời điểm nói trên từ lâu rồi.
Bạn đọc có thể tham khảo thêm bài viết của một đảng viên Xã hội kỳ cựu, nguyên là công nhân xưởng in báo L’Humanité, có chân trong ban đón tiếp người lao động nhập cư của Đảng Xã hội sau chiến tranh; ông đã kể cho biết: Lần đầu tiên tôi gặp anh Nguyễn là vào tháng 7/1918, khi anh mới từ Luân Đôn sang được mấy tháng, lúc đó anh đang phải sống ẩn dật trong một căn phòng nhỏ ở phố Charonne, có khi hàng tuần không dám ra ngoài, để tránh mọi sự khám xét. Tôi đã thu xếp cho anh một chỗ ở mới tại quận 13, nhà đồng chí Moktar, người Tunisie. Để đảm bảo an toàn, khi Moktar đi vắng, anh không được đốt lửa, thắp đèn, mùa đông năm ấy rất rét. Anh phải chịu đựng như thế cho đến khi Đảng thu xếp xong cho anh các giấy tờ hợp pháp: giấy quân dịch, thẻ lao động,… [3].
Thụy Khuê khẳng định thời điểm Nguyễn Tất Thành đến Paris là tháng 6/1919 vì nó phù hợp với chủ kiến của mình: “Mãi giữa năm 1919, Nguyễn Tất Thành mới đến Paris, tiếng Pháp chưa thạo, làm sao viết được những bài báo chính trị phức tạp!”.
2.2. Vấn đề cần làm rõ là vào thời điểm đó, khả năng tiếng Pháp của anh Thành đã đạt tới trình độ nào? Theo tiểu sử, chúng ta biết khi ở trong nước, anh Thành đã vào học trường Quốc học Huế, đã hoàn thành chương trình lớp cao đẳng (cours supérieur). Trong lời khai với sở mật thám Huế ngày 19/3/1920, ông Nguyễn Tất Đạt cũng nói rõ: “Il obtint son certificat d’études primaires en 1908 et fut admís au Quôc Hoc” [4]. Khi ra nước ngoài, anh Thành làm việc trên tàu viễn dương cho các hãng Chargeurs Réunis rồi hãng Messageries Maritimes (Năm Sao) đều là các hãng vận tải biển của Pháp, chỉ chuyên nói tiếng Pháp.
Tại Marseille ngày 15/9/1911, anh Thành đã viết đơn bằng tiếng Pháp, gửi Tổng thống Cộng hòa Pháp, xin vào học Trường Thuộc địa, cuối thư có nói rõ: biết tiếng Pháp, Quốc ngữ và chữ Hán. Tiếp theo, tại Sài Gòn ngày 31/10/1911 và tại New York ngày 15/12/1912, anh Thành đã gửi hai bức thư cho Khâm sứ Trung Kỳ, một bức nhờ chuyển cho cha một ngân phiếu 15$, một bức cho biết đã gửi cho cha là Nguyễn Sinh Huy 3 ngân phiếu nhưng mới chỉ nhận được một thư trả lời; thư tỏ ý muốn được biết địa chỉ và tình hình cha mình hiện nay sống ra sao. Những bức thư này được viết bằng tiếng Pháp với một cách diễn đạt gãy gọn, trong sáng và chuẩn xác về chính tả - ngữ pháp, chứng tỏ người viết đã có một trình độ vững vàng về tiếng Pháp [5].
Thời gian đầu sang Anh, trong một lá thư gửi Phan Châu Trinh, anh viết: “Mấy bốn tháng rưỡi nay thì chỉ làm với Tây, nói tiếng Tây luôn. Tuy ở Anh nhưng chẳng khác gì ở Pháp”. Điều đó cho thấy việc học nói và viết tiếng Pháp của anh Thành là một quá trình liên tục, vì vậy khi trở lại Paris, anh đã có thể nói và viết tiếng Pháp thông thạo, đó là điều dễ hiểu.
Các mật vụ người Việt có nhiệm vụ theo dõi anh đều có báo cáo giống nhau, như mật báo của Đốc phủ Bảy (mật danh là Edouard) viết: “Anh ta nói được tiếng Anh và tiếng Pháp thông thạo, biết ít tiếng Đức và tiếng Trung Quốc”. Một nhà báo Mỹ đã phỏng vấn anh và đăng bài đó trên tờ Yi Che Pao, xuất bản ở Thiên Tân, số ra ngày 2/9/1919, đã xác nhận: “Nguyễn Ái Quốc nói tiếng Pháp rất giỏi” (parle admirablement le français) [6].
Không lâu, sau khi xuất hiện công khai, Nguyễn Ái Quốc đã hăng hái đăng đàn diễn thuyết bằng tiếng Pháp với thính giả Pháp, xin đơn cử:
- Ngày 14/1/1920, tại số 3 đường Château - Paris, Nguyễn Ái Quốc diễn thuyết về đề tài Sự tiến triển trong xã hội các dân tộc châu Á và những yêu cầu của nước Nam (Theo báo L’Humanité các số ra ngày 13 và ngày 14/1/1920 và báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 11/2/1920, Nguyễn Ái Quốc thuyết trình đề tài Chủ nghĩa cộng sản ở châu Á và vấn đề ruộng công điền ở Trung Quốc và Việt Nam, tại Hội nghị những người thanh niên cộng sản Quận 2 (Theo báo cáo của mật thám Jean).
- Tại cuộc mít-tinh kỷ niệm ngày 1/5/1920, Nguyễn Ái Quốc đã lên diễn đàn nói về Chương trình hoạt động của Nhóm Xã hội đòi ngừng gửi người thuộc địa sang Pháp (Báo cáo của mật thám Jean).
- Ngày 25/12/1920, Nguyễn Ái Quốc, đại biểu duy nhất là người bản xứ, được mời tham dự Đại hội lần thứ XVIII Đảng Xã hội Pháp, khai mạc tại thành phố Tours. Ngay buổi chiều hôm sau, anh được Chủ tịch phiên họp - Emile Goude - mời lên phát biểu. Lần đầu tiên trong đời, anh được dự một Đại hội lớn với sự có mặt của những trí thức tên tuổi của nước Pháp bấy giờ, nên không tránh khỏi xúc động, có lúc hơi thiếu bình tĩnh. Bài phát biểu ứng khẩu, được biên bản tốc ký ghi lại cho thấy ở anh một tư duy và ngôn ngữ Pháp sắc sảo, súc tích, sáng sủa, mạch lạc, tập trung vào mục tiêu tố cáo tội ác của chủ nghĩa thực dân, kêu gọi sự ủng hộ thiết thực sự nghiệp giải phóng các dân tộc thuộc địa. Bài phát biểu đã được Đại hội nhiều lần vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt.
Phát biểu tiếp theo đại biểu Đông Dương, chủ tịch phiên họp - E.Goude - đã nhận xét: “Bằng một thứ tiếng Pháp tuyệt vời(en un excellent français), ông đã tố cáo những tội ác, những hành động đàn áp và chuyên chế mà hai mươi triệu người An Nam là nạn nhân, họ bị đầu độc bằng rượu và thuốc phiện, bị bóc lột và truy nã bởi một thứ công lý tư sản đè nặng lên họ. Tất cả những đảng viên xã hội nhất trí phản kháng, chống lại những bất công và tội ác của thứ công lý tư sản ở Đông Dương” (Vỗ tay) [7].
Đưa ra một vài dẫn chứng để hiểu được trình độ tiếng Pháp của Nguyễn Ái Quốc vào quãng năm 1919-1920, khi ông bước vào hoạt động chính trị ngay tại thủ đô Paris. Tất nhiên, từ văn nói đến văn viết còn phải qua một chặng đường học tập và rèn luyện nữa. Nguyễn Ái Quốc hiểu rằng, hoạt động chính trị công khai giữa Paris phải sử dụng được vũ khí tuyên truyền sắc bén là sách báo, nên đã ra sức học viết, trước hết là học với người thầy trực tiếp ở ngay cùng nhà là Phan Văn Trường, sau đó là miệt mài ở các thư viện. Nhờ khiêm tốn và dày công học hỏi, nên ông Nguyễn đã tiến bộ rất nhanh trong viết báo. Dấu ấn phong cách Phan Văn Trường trong những bài viết đầu tiên của Nguyễn Ái Quốc là rất rõ, hoặc do Phan Văn Trường hướng dẫn hoặc được Phan trực tiếp sửa chữa, nên sự khó phân biệt cũng là dễ hiểu (chính Hồ Chí Minh sau này đã công khai nói rõ điều đó). Vì vậy, ngày nay mới cần đến sự thẩm định của nhà nghiên cứu.
Thụy Khuê xuất phát từ cái nhìn miệt thị cho rằng, Nguyễn Tất Thành tuy cũng xuất thân con quan, nhưng khi xuất dương đã phải sống một cuộc sống nghèo khổ, cực nhọc, không được học hành, không có bằng cấp như Phan Văn Trường, Nguyễn Thế Truyền, Nguyễn An Ninh, nên không đủ kiến thức và Pháp văn để viết, vai trò của ông trong tờ báo Le Paria chỉ là “giữ sổ sách, tập viết mấy dòng tin tức, in và phát truyền đơn” thế thôi! Những câu viết khinh thị với đầu óc nặng bằng cấp này chứng tỏ Thụy Khuê tuy sống ở Pháp đã lâu nhưng lại không có được cái nhìn tiên tiến của giới trí thức Pháp.
Người Pháp thứ thiệt lại rất coi nhẹ bằng cấp mà coi trọng thực tài, đề cao tư duy độc lập, khả năng phản biện và cá tính sáng tạo. Hãy nghe một trí thức Pháp, ông Daniel Hémery, đánh giá về Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh sau này: “Hồ Chí Minh không hoàn thành trọn vẹn một chương trình giáo dục nào, ông cũng không tiếp nhận đầy đủ một nền tri thức hiện đại cũng như nền nho học cổ truyền mà đứng giữa hai nền văn hóa đó. Ông là một người tự học đầy tài năng, là hình mẫu của giới trí thức không bằng cấp, sẽ giữ vai trò quyết định trong phong trào cách mạng” [8].

Bản án chế độ thực dân Pháp.
3. BÚT DANH NGUYỄN ÁI QUỐC TRỞ THÀNH TÊN RIÊNG CỦA NGUYỄN TẤT THÀNH NHƯ THẾ NÀO VÀ TỪ BAO GIỜ?
3.1. Bút danh Nguyễn Ái Quốc xuất hiện lần đầu tiên tháng 6/1919 trong bản Thỉnh nguyện thư gửi hội nghị Versailles, đồng thời cũng được gửi đến Tổng thống Hợp chủng quốc và các đoàn đại biểu nhiều nước tham dự Hội nghị. Theo nhiều nhà nghiên cứu, sáng kiến đưa thỉnh nguyện thư là của Phan Châu Trinh, Nguyễn Tất Thành và do Phan Văn Trường chấp bút, dưới ký một bút danh chung là Nguyễn Ái Quốc, nhưng địa chỉ ghi bên dưới không phải 6 Villa des Gobelins mà là 56 phố Monsieur le Prince, nơi cư trú lúc đó của Nguyễn Tất Thành.
Ngày 14/11/1919, Bộ Thuộc địa Pháp có thư mời Nguyễn Ái Quốc đến gặp để kiểm tra lý lịch, đã gửi thư về địa chỉ này, nhưng khi đó anh Thành đã chuyển đến số 6 Villa des Gobelins, nhà của Phan Văn Trường [9]. Nhận được thư mời, Nguyễn Tất Thành ung dung đến trụ sở Bộ Thuộc địa diện kiến Bộ trưởng A. Sarraut - người đã có hai nhiệm kỳ làm Toàn quyền Đông Dương - và sau đó với P. Pasquier (người sau này cũng trở thành Toàn quyền Đông Dương). Qua những cuộc gặp gỡ và đối thoại thẳng thắn này, cùng với kết quả xác minh của những mật thám người Việt bủa vây quanh anh, người mang tên Nguyễn Ái Quốc hiện diện bằng xương bằng thịt đã được khẳng định chính là Nguyễn Tất Thành.
Tất nhiên, bút danh Nguyễn Ái Quốc có thể vẫn được Phan Văn Trường tiếp tục sử dụng trong một thời gian nữa, từ cuối năm 1919 đến đầu năm 1920, một là vì thời gian đó, bản Yêu sách vừa mới được công bố trên L’Humanité, các thế lực thực dân đang có phản ứng mạnh về nội dung bản Yêu sách, bút danh Nguyễn Ái Quốc đang nổi như cồn, ký bút danh đó sẽ được người đọc chú ý hơn; hai là xét về nội dung các bài báo xuất hiện cuối năm 1919 như Ở Đông Dương, vấn đề dân bản xứ (L’Humanité, ngày 2/8/1919), bài Đông Dương và Triều Tiên (Le Populaire ngày 4/9/1919), bài Thư gửi ông Outrey (Le Populaire, ngày 14/10/1919), nói chung đều xoay quanh nội dung bản Yêu sách, cùng một mạch văn, nên có thể vẫn do Phan Văn Trường viết.
Điều này cũng đã từng được Tiến sĩ sử học Thu Trang nêu lên qua phân tích sự khác nhau trong lối hành văn, cách lý luận giữa Phan Văn Trường và Nguyễn Ái Quốc, một bên là luật sư, “có một túi luật lệ”, nên thỉnh thoảng ông đưa sự hiểu biết chuyên môn của mình ra để đấu khẩu với những tên thực dân” (như bài Thư gửi ông Outrey); còn Nguyễn Ái Quốc, trong những bài báo về sau, “không mấy khi Nguyễn dùng luật lệ để bắt bẻ thực dân, mà phần nhiều hay dùng những chứng cớ hiển nhiên, dễ hiểu, thực tế đập vào mắt độc giả. Nội dung giản dị, dễ đọc, không đi vào chuyên môn; khi cần dẫn chứng thì mới trích đoạn chỗ này, chỗ khác, hoặc trích vài con số để chứng minh sự thật” [10].
Thu Trang nghi vấn các bài này có thể là của Phan Văn Trường, chứ không hề nghĩ đến Nguyễn An Ninh hay Nguyễn Thế Truyền như Thụy Khuê đã gán một cách vô căn cứ cho hai người này, đơn giản là vì, vào năm 1919-1920 Nguyễn Thế Truyền vẫn chưa có mặt tại Paris. Theo Đặng Hữu Thụ [11], từ năm 1916-1920, ông Truyền đang học đại học ở Toulouse, miền Nam nước Pháp; năm 1920 tốt nghiệp kỹ sư hóa học và cử nhân khoa học ban Lý - Hóa, sau đó ông về nước cưới vợ và ở lại trong nước hơn một năm. Ngày 23/8/1921, ông lại được học bổng của Thống sứ Bắc Kỳ, tiếp tục đi du học lần thứ ba, theo học tại Đại học Sorbonne, cuối năm 1922 đậu cử nhân triết học và bắt đầu kết giao thân thiết với Nguyễn Ái Quốc và viết báo Le Paria; có một thời gian ngắn ông tá túc ở số 6 Villa des Gobelins, sau đó ông Truyền thuê nhà ở tại số 6 đường Saint-Louis-en-l’Ile Paris. Như vậy, những bài báo đầu tiên của Nguyễn Thế Truyền sẽ chỉ bắt đầu xuất hiện vào cuối năm 1922 trên tờ Le Paria.
Còn Nguyễn An Ninh, sinh năm 1900, 18 tuổi ông mới sang Paris, tiếp tục học luật tại Sorbonne, hai năm sau (1920) đậu xuất sắc bằng cử nhân luật, nhưng chưa thấy nói đến những hoạt động chính trị của ông vào thời gian này. Như vậy, khó có thể nói võ đoán như Thụy Khuê rằng Thư gửi ông Outrey là của Nguyễn An Ninh viết, với một lập luận “kỳ khôi” rằng: “Outrey và Nguyễn An Ninh cùng ở Nam Kỳ nên biết rõ hành tung của nhau: Outrey biết rõ gốc gác và hành động của Nguyễn An Ninh,… khi đọc văn, y đoán chắc là của Nguyễn An Ninh, nên trong lời buộc tội ở hạ viện, Outrey đã mô tả Nguyễn Ái Quốc như Nguyễn An Ninh”(sic)!
Thụy Khuê cần biết rằng Outrey là ủy viên Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ và là đại biểu của Hội đồng thuộc địa Nam Kỳ trong Hạ viện Pháp, rồi làm Thống đốc Nam Kỳ, đang dòm ngó chức Toàn quyền Đông Dương; còn Nguyễn An Ninh khi ở trong nước mới chỉ là một học sinh Cao đẳng pháp chính thuộc Đại học Đông Dương, chưa đến 18 tuổi, hãy còn vô danh, nghĩa là chưa viết lách và chưa có hoạt động chống đối tiếng tăm gì, vậy tại sao một quan chức thực dân cao cấp như Outrey lại có thể “biết rõ gốc gác và hành tung của Nguyễn An Ninh, khi đọc văn y nhận ra ngay để có thể khẳng định Nguyễn Ái Quốc chính là Nguyễn An Ninh? (Những lập luận kiểu “tự do sáng tác” như thế này không hiếm trong bài viết của Thụy Khuê, có dẫn ra nữa cũng chỉ làm mất thêm thì giờ của độc giả).
3.2. Vậy bút danh Nguyễn Ái Quốc trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành từ bao giờ? Cần nói ngay rằng, “nhóm Ngũ Long” là do người đời sau đặt ra để tôn vinh năm nhà hoạt động yêu nước nổi tiếng có mặt tại Paris trong những năm 20 của thế kỷ trước (ví như người ta vẫn đặt: “Nam Đàn tứ hổ”, “Thăng Long tứ kiệt”,…) chứ không phải là một “nhóm” có ý nghĩa về tổ chức, hình thành và hoạt động bên nhau cùng một lúc. Mỗi người có một vai trò và nổi lên ở một giai đoạn nhưng không phải khi nào họ cũng nhất trí với nhau về xu hướng, quan điểm và phương pháp hành động.
Nguyễn Ái Quốc từ khi gia nhập Đảng Xã hội rồi trở thành người cộng sản thì xu hướng ngày càng cấp tiến, hoạt động ngày càng mạnh mẽ; Phan Văn Trường là một trí thức có quốc tịch Pháp nên chủ yếu muốn dựa vào pháp luật và báo chí công khai để đấu tranh; Phan Châu Trinh thì chủ trương cải cách ôn hòa, mềm mỏng, không muốn làm mất lòng người Pháp. Họ thường tranh luận, có khi to tiếng với nhau, từ đêm này qua đêm khác, khiến hàng xóm phải than phiền. Tranh luận mãi mà không thuyết phục được nhau cũng mệt mỏi, cuối cùng đành mỗi người tạm đi một nơi: Cụ Phan dọn về ở 21 Pernety rồi cuối năm đó xuống Marseille làm việc hơn một năm; Nguyễn Ái Quốc dọn về số 9 Ngõ Compoint, Phan Văn Trường đi Mayence, ngôi nhà ở Gobelín bỏ trống. Tuy vậy, về mặt tình cảm, họ vẫn kính trọng nhau và duy trì quan hệ với nhau hết sức tốt đẹp.
Thực tế đó cho thấy, Nguyễn Ái Quốc đã đi theo một con đường riêng, xu hướng thiên tả của anh được bộc lộ rõ ràng và mạnh mẽ trong hoạt động cũng như trong các bài viết, điều đó làm cho một số người e ngại. Phan Châu Trinh nhận xét về anh Thành là còn quá trẻ và có bầu máu quá nóng; Khánh Ký thì cho là do hoạt động của Nguyễn Ái Quốc mà cảnh sát đã làm rầy rà cho những người An Nam ở số 6 villa des Gobelins (mật báo của Devèze ngày 27/12/1920). Có thể nói, từ khi gia nhập Đảng Xã hội Pháp năm 1919, rồi sau Đại hội Tours (tháng 12/1920), trở thành người cộng sản, bút danh Nguyễn Ái Quốc ký dưới những bái báo có xu hướng xã hội chủ nghĩa, thường hay nhắc đến Quốc tế Cộng sản, đã trở thành bút danh riêng của Nguyễn Tất Thành. Đó là điều dễ thấy, không ai có thể xuyên tạc được.
4. VỀ TÁC PHẨM ĐÔNG DƯƠNG VÀ BẢN ÁN CHẾ ĐỘ THỰC DÂN PHÁP
4.1. Trong bài viết của mình, Thụy Khuê có nói đến cuốn La France en Indochine của Nguyễn An Ninh được viết và xuất bản tại Pháp tháng 4/1925, nhưng thừa nhận nay không còn dấu tích (nghĩa là Thụy Khuê cũng chưa từng nhìn thấy, chưa nói là từng đọc), chỉ còn bài viết La France et l’Indochine của ông đăng trên Europe, số 31, ra ngày 15/7/1925 cho ta biết tư tưởng đấu tranh của Nguyễn An Ninh. Thế mà Thụy Khuê đã vội phỏng đoán một cách hồ đồ rằng: “Cuốn sách mang tên Đông Dương (1923-1924) được dịch và đưa vào Hồ Chí Minh toàn tập, tập 1, phải chăng đây chính là tác phẩm La France en Indochine mà Nguyễn An Ninh đã cho in năm 1925?” (sic!).
Để tránh những kết luận liều lĩnh như trên, tôi khuyên Thụy Khuê nên đến Trung tâm lưu trữ tư liệu lịch sử Nga, vào phòng Quốc tế cộng sản, mở cặp tư liệu về Nguyễn Ái Quốc, đọc Hồ sơ số 7, sẽ thấy bản thảo bút tích, đánh máy tiếng Pháp, cuốn sách nhỏ nhan đề Đông Dương của Nguyễn Ái Quốc được lưu tại đó. Trang bìa in nền hoa văn, có chữ viết tay của thủ thư bằng tiếng Nga, dịch ra như sau:
ĐÔNG DƯƠNG
Dự thảo cuốn sách nhỏ của đồng chí Quốc
(1923-1924)
Dự thảo có 18 bài, gồm 82 trang đánh máy tiếng Pháp, với các đề mục như sau: 1. Sa géographie. Les classes. L’histoire; 2. Sa vie économique; 3. Les méfaits du militarisme; 4. Les atrocités de la civilisation; 5. Mentalité coloniale; 6. Les administrateurs; 7. Parasitisme et pétaudière; 8. Le consortium des bandits; 9. Concessions et concessionnaires; 10. Les travaux publics; 11. Corvées ou travaux forces; 12. L’obscurantisme; 13. La presse; 14. Les impôts; 15. La résistance; 16. L’Eglise; 17. La Justice; 18. L’Annam vu par les français.
Đọc qua, người đọc có thể thấy ngay tên một số đề mục có sự trùng hợp với tên một số chương của Bản án chế độ thực dân Pháp, có điều cuốn Đông Dương chỉ giới hạn tố cáo tội ác chế độ thực dân trong phạm vi xứ Đông Dương, còn Bản án đã được tác giả bổ sung và phát triển, mở rộng sự tố cáo ra các thuộc địa Á - Phi khác thành một tác phẩm đầy đặn hơn. Ông D. Hémery đã cho rằng Đông Dương chính là tiền thân của tác phẩm Bản án chế độ thực dân Pháp.
4.2. Trước khi đề cập đến tác phẩm Bản án, tưởng cũng nên nói qua về những bài viết trên báo Le Paria. Vẫn quen lối nói bất cần khảo chứng, Thụy Khuê cứ tùy tiện nói bừa: “những bài xuất hiện trên báo Le Paria và L’Humanité, phần lớn là của Nguyễn Thế Truyền; những bài trên Le Libertaire, phần lớn là của Nguyễn An Ninh; những bài ký tên Nguyễn Ái Quốc sau khi Nguyễn Tất Thành đi Nga, từ 1923 đến 1927, trên Le Paria và trên Inprékorr, báo Nga ấn bản Pháp ngữ, cũng của Nguyễn Thế Truyền” (sic)! “Nói có sách, mách có chứng”, yêu cầu đó đối với người Việt Nam, ngay cả trẻ con, ai cũng đều biết cả. Nhưng vì quá hăng hái “lập công” nên Thụy Khuê đã liều lĩnh nói bừa, vì vậy cũng chẳng đánh lừa được ai!
Cần nhắc lại rằng báo Le Paria do Nguyễn Ái Quốc tham gia sáng lập, trực tiếp làm chủ nhiệm kiêm chủ bút và viết chính, số đầu ra ngày 1/4/1922, ngay trong số 1 đã có giới thiệu về số 2: đón đọc bài “Động vật học” được viết rất hay của Nguyễn Ái Quốc, photographe - (chữ thợ ảnh được chú thích đàng hoàng như một chức danh, đó là bài viết của một thợ ảnh chứ không phải của một avocat hay licencié nào).
Còn Nguyễn Thế Truyền, như đã nói ở trên, mãi cuối năm 1922 mới kết thân với Nguyễn Ái Quốc và tham gia cộng tác với Le Paria, khi đó bút danh Nguyễn Ái Quốc từ lâu đã trở thành tên riêng của Nguyễn Tất Thành rồi. Trong 38 số báo Le Paria, có tới 37 bài của Nguyễn Ái Quốc, không kể bài dịch, với văn phong giản dị, thiết thực nhưng không kém phần trào lộng tinh tế, châm biếm sắc sảo, dồi dào tình cảm cách mạng và có tính chiến đấu cao, không thể trộn lẫn được. Chính nội dung những bài viết này, sau đã được Nguyễn Ái Quốc sử dụng lại, đưa vào tác phẩm “Bản án”.
Có điều lạ là Thụy Khuê đều vơ tất cả các bài trên Le Paria và trên các báo khác về cho Nguyễn Thế Truyền và Nguyễn An Ninh mà lại gạt Phan Văn Trường ra? Nên nhớ, mãi đến 6/12/1923, ông Phan Văn Trường mới lên tàu về nước. Dưới một bút danh mới là PHAN, ông đã viết nhiều bài cho Le Paria, theo GS Nguyễn Phan Quang, trong cuốn Luật sư Phan Văn Trường [12], các bài đó được đăng trên Le Paria các số: 11, 12, 13, 14, 16, 18-19, 21,… trong các năm 1922 - 1923.
Đối với tác phẩm Bản án, lúc đầu, Thụy Khuê khẳng định rằng đó là của Nguyễn Thế Truyền, sau có lẽ thấy nói thế không thuyết phục được ai, nên đổi giọng: “có thể được coi là một sáng tác tập thể, mà Nguyễn Thế Truyền làm chủ biên và viết lời giới thiệu”.

Nguyễn Tất Thành năm 1911. Ảnh: TL.
Thụy Khuê dẫn thêm một câu của Trần Dân Tiên: “Ông Nguyễn chỉ viết một cuốn sách duy nhất là quyển Bản án chế độ thực dân Pháp, trích trong những sách của người Pháp viết để ở thư viện quốc gia”, để rồi lu loa lên rằng: viết như thế “chứng tỏ ông chưa đọc Bản án chế độ thực dân Pháp vì “chẳng có cuốn sách nào của người Pháp lại viết về tội ác của một thành phần dân tộc mình, như thế, lưu trong thư viện để ông chép lại”(sic)!
Ô hay! Thật kỳ lạ cho tư duy của một nhà phê bình! Chẳng lẽ ở Pháp, Thụy Khuê chỉ quen biết với toàn những tên thực dân mà quên rằng nước Pháp còn là quê hương của lý tưởng Tự do, Bình đẳng, Bác ái, của những người xã hội và cộng sản, của những trí thức chân chính theo đuổi lý tưởng nhân đạo và chính nghĩa, như J. Jaurès, A. France, M. Cachin, Vigné D’Octon và rất nhiều người khác nữa. Họ viết sách, viết báo lên án tội ác của chủ nghĩa thực dân, bênh vực các dân tộc thuộc địa; Nguyễn Ái Quốc trích dẫn họ như là một cách dùng “gậy ông đập lưng ông” thì có gì là lạ? Đây là dụng ý của Nguyễn Ái Quốc, được mật thám Jean ghi lại và đưa vào mật báo ngày 19/1/1920: “Tôi không muốn tự mình viết lấy, vì như thế không có giá trị trung thực. Tôi sẽ dùng những đoạn văn trong số sách đã viết về thực dân Pháp. Tôi sẽ cố gắng làm cho đậm nét những đoạn ấy” [13].
Có thể thấy, chính Thụy Khuê chưa đọc, hơn nữa có thể còn chưa được nhìn thấy tác phẩm Bản án chế độ thực dân Phápcủa Nguyễn Ái Quốc được xuất bản năm 1925 (hay 1926?) tại Paris, nếu được nhìn qua thôi, chắc không dám liều lĩnh nói sách này là của Nguyễn Thế Truyền hoặc do ông Truyền làm chủ biên, đơn giản là vì ngay trước trang bìa bên trong, sách đã in trang trọngảnh chân dung tác giả của nó là: Nguyễn Ái Quốc! Một điều cũng hiếm thấy ở phương Tây lúc bấy giờ. Chính Nguyễn Thế Truyền trong Lời giới thiệu cũng viết: chúng tôi sẽ lần lượt đưa ra những bản án của các dân tộc là thuộc địa của Pháp trong một loạt các tập sách nhỏ mà mở đầu bằng bản án của một người An Nam: Nguyễn Ái Quốc.
Đề cập đến vấn đề tác giả của Bản án, ông Đặng Hữu Thụ, vốn người Hành Thiện, tác giả cuốn sách khá đầy đặn về Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, cho biết: “Trước khi đi Mạc Tư Khoa, ông Nguyễn Ái Quốc có viết cuốn sách lên án chế độ thực dân Pháp bằng Pháp ngữ. Ông có giao bản thảo sách cho ông Nguyễn Thế Truyền nhờ sửa chữa lại bản thảo, đề tựa và cho in tại Pháp. Sách được in năm 1926 tại Paris, có bài tựa của ông Nguyễn Thế Truyền” (tr.120). Ông Truyền nhờ ông Bửu Nghi, du học ở Pháp, là bạn thân của ông Truyền, sửa dùm các lỗi chính tả, văn phạm, lời văn; sau ông Truyền xem lại, sửa chữa lần nữa, gọt giũa câu văn, viết lại nhiều câu ý tưởng còn thiếu mạch lạc, trước khi trao cho nhà in (tr.123-124). Ông Thụ kết luận: “Vậy tác giả cuốn sách trên là ông Nguyễn Ái Quốc” (tr.125).
Thụy Khuê chắc đã đọc kỹ cuốn sách này vì đã đôi lần trích ý kiến Đặng Hữu Thụ trong bài của mình, nhưng đến đoạn này lại lờ đi không nhắc đến chỉ vì nó không có lợi cho dụng tâm đang muốn thực thi. Cách trích dẫn của Thụy Khuê là như vậy, nhiều khi cố tình cắt xén, cốt sao đạt được ý đồ của mình. Bản Việt Nam yêu cầu ca được Nguyễn Ái Quốc chuyển thành văn vần để cho những người ít chữ dễ thuộc, dễ nhớ, nhưng không thể đưa in vì ở Pháp lúc đó không có chữ in Quốc ngữ có dấu, nên Nguyễn Tất Thành phải viết tay, làm bản chụp rồi in ra. Bài ca viết theo thể lục bát, bản phô-tô trong sách của Thu Trang cho thấy Nguyễn Ái Quốc viết liền 2 câu 6/8 cùng 1 dòng. Thụy Khuê chỉ chép lại trong bài viết của mình toàn các câu 6, bỏ các câu 8, làm cho nó trở nên ngô nghê, chẳng còn vần điệu gì, cốt để hạ một câu: Nguyễn Tất Thành do sớm bỏ học, nên tiếng Pháp sơ sài, Quốc ngữ cũng kém!
Vở kịch Le Dragon en bambou (chứ không phải de bambou như Thụy Khuê viết) cũng đuợc gán cho là của Nguyễn An Ninh mà không đưa ra được chứng lý nào. Chúng ta được biết, Nguyễn Ái Quốc không chỉ viết báo chính luận mà còn sử dụng các loại hình nghệ thuật khác như truyện, ký, kịch, tranh biếm họa để phục vụ cho tuyên truyền chống chủ nghĩa thực dân. Tháng 5/1922, Chính phủ Pháp mở Hội chợ triển lãm thuộc địa tại thành phố Marseille để khoe công lao khai hóa thuộc địa và có mời vua bù nhìn Khải Định sang dự để khoe như một món hàng triển lãm. Sự kiện này làm cho những người Việt Nam yêu nước có mặt ở Pháp cảm thấy bị sỉ nhục. Một chiến dịch phản đối bùng lên, phê phán mạnh mẽ tên vua bù nhìn ươn hèn, ăn chơi trác táng.
Phan Châu Trinh viết Thất điều thư, Nguyễn Ái Quốc viết nhiều bài báo và truyện ngắn châm biếm Khải Định, trong đó có vở kịch ba hồi Con rồng tre (trước đó ông đã diễn thuyết về đề tài Sân khấu Việt Nam tại CLB Faubourg buổi sinh hoạt tháng 4/1922). Vở kịch được nhóm Faubourg đem công diễn và đã được khán giả nhiệt liệt hoan nghênh. Điều này được chính Léo Poldès, một trí thức phái tả, là chủ nhiệm CLB Faubourg thời bấy giờ thừa nhận, trong một bài viết đăng trên Tuần báo Ici Paris số 53, ra ngày 11, 12/6/1946 [14], sau khi được gặp lại Nguyễn Ái Quốc đang thăm chính thức nước Pháp thời gian đó.
Bài viết có đoạn: “Tôi đã đọc tập bản thảo. Thật là hay, thật là đẹp, lời văn vừa chải chuốt vừa gọn gàng với những cái châm biếm dí dỏm kiểu Aristophane… Thật không ngờ rằng 25 năm sau, người thợ ảnh ở ngõ hẻm Compoint, tác giảCon rồng tre, lại trở nên một vị Quốc trưởng với cái tên mới Hồ Chí Minh, Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa!”.
Đỉnh cao của sự xuyên tạc được gói lại trong phần kết luận của bài viết cuối cùng, trong đó Thụy Khuê đưa ra danh sách những bài báo ký bút danh Nguyễn Ái Quốc từ 1919 đến 1922, tất cả đều được gán cho Phan Văn Trường, Nguyễn An Ninh và nhiều nhất là cho Nguyễn Thế Truyền, không có bài nào là của Nguyễn Ái Quốc! Làm một cuộc phủ định sạch trơn như vậy, tác giả muốn nhằm mục đích gì? Thụy Khuê đã vu cáo một cách thâm độc: “Hồ Chí Minh không ngần ngại nhận mình là tác giả những bài viết và những công trình không phải của mình” vì “chính những bài báo đó đã xây dựng nên huyền thoại Hồ Chí Minh”, “đã xác định tư tưởng Hồ Chí Minh”! “Vì thế, không thể để cho lớp trẻ học mãi những điều mạo nhận”! (sic).
Tuy nhiên, như bạn đọc đã thấy, âm mưu “lật đổ thần tượng” của Thụy Khuê đã thất bại thảm hại. Ở thời đại thông tin phát triển rộng rãi như hiện nay, mọi nguồn lưu trữ đã được bạch hóa, đến những tài liệu được coi là tối mật của Mỹ cũng đã được Wikileaks tung lên mạng, trình độ nhận thức của đa số người đọc ngày nay cũng đã khác xưa; thủ đoạn vu cáo, bịa đặt, xuyên tạc, tung hỏa mù,…của thời chiến tranh lạnh mà Thụy Khuê quen dùng đã trở nên cũ kỹ, rất gây phản cảm cho người đọc. Viết văn, viết báo - dù là tiểu trí thức - thường bao giờ cũng phải lấy sự thật làm đầu, theo đuổi chân lý, chính nghĩa; nếu cứ ngụy tạo một cách trơ trẽn, để lộ một nhân cách tầm thường, thì chẳng đánh lừa được ai.
5. THAY LỜI KẾT LUẬN
Mấy bài báo ở thời kỳ đầu khi Nguyễn Ái Quốc mới bước lên vũ đài chính trị chỉ là số rất nhỏ trong hàng vạn bài báo và tác phẩm Hồ Chí Minh viết sau này, nó chẳng có vai trò như Thụy Khuê suy diễn, nếu như có sự lầm lẫn một đôi bài nào đó thì chính là lỗi ở các sử gia, các nhà sưu tầm, cả Pháp lẫn Việt, chứ không liên quan gì đến Hồ Chí Minh. Huyền thoại Hồ Chí Minh đâu có thể hình thành từ vài bài báo? Đó là sản phẩm của một đời đấu tranh vào sinh ra tử, phải vượt qua bao thử thách hiểm nguy, phải đối phó với bao kẻ thù hung bạo, trong một bối cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp, để lèo lái con thuyền cách mạng Việt Nam cập bến bờ độc lập, tự do; đó cũng là sản phẩm của cuộc đời một chính khách trong sạch và liêm khiết có một không hai như Hồ Chí Minh. Đóng góp vào sự hình thành huyền thoại đó còn phải nói đến vai trò của các bạn bè Pháp, kể cả mật thám Pháp, như P. Arnoux,…
Tư tưởng Hồ Chí Minh là cả một hệ thống quan điểm về con đường cách mạng Việt Nam từ độc lập dân tộc đi tới xây dựng thành công một nước Việt Nam “hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”. Tư tưởng đó là kết quả của quá trình học tập, thâu hóa tinh hoa tư tưởng nhân loại, của các vĩ nhân như Khổng tử, Jésus, Marx, Tôn Dật Tiên,… để từ đó thăng hoa lên thành tư tưởng Hồ Chí Minh. Trả lời câu hỏi của một phóng viên: ông là ai, theo chủ nghĩa cộng sản hay chủ nghĩa Tôn Dật Tiên? Hồ Chí Minh từng trả lời: “Tôi vẫn là tôi ngày trước - một người yêu nước. Tôi hiến dâng cả đời tôi cho Tổ quốc tôi”. Tên gọi Nguyễn Ái Quốc đã kết tụ đầy đủ lý tưởng, bản chất, mục tiêu chiến đấu, phẩm chất đạo đức của cuộc đời Hồ Chí Minh.
Hồ Chí Minh không “vơ vào” cho mình một chút gì cả! Sinh thời, Người thẳng thắn từ chối mọi danh hiệu mà người đời khen tặng. Có một nhà văn nước ngoài gọi Người là nhà thơ, Người khoát tay: nhà thơ gì tôi, chẳng qua là trong tù, đi ngang được ba bước, đi dọc được sáu bước, không biết làm gì thì làm thơ, thế thôi. Tôi chỉ là người có chút duyên nợ với báo chí, gọi tôi là nhà cách mạng chuyên nghiệp là đúng nhất. Cũng cần nhắc lại: Hồ Chí Minh là nhà lãnh đạo Việt Nam duy nhất không có huân chương, người không tán thành dựng tượng đồng, bia đá, bảo tàng,… cho mình khi nhân dân còn thiếu bệnh viện, trường học.
Giáo sư Nguyễn Mạnh Tường, một trí thức chân chính, vì chính kiến riêng mà phải chịu một cuộc sống đau khổ hơn ba mươi năm, như một kẻ bị trục xuất ra khỏi cộng đồng (Un excommunié). Cuối đời, năm 1989, ông được học trò và người thân mời trở lại thăm nước Pháp, vào đúng lúc sự biến Đông Âu đang xảy ra. Phóng viên báo Le Monde đã phỏng vấn ông. Theo tâm lý thường tình, người ta nghĩ ông sẽ thực hiện “un coup pied de l’âne” (cú đá của con lừa thừa cơ người khác đang gặp khó khăn). Nhưng nhân cách của một trí thức chân chính không cho phép ông hành xử như vậy.
- PV: Ngài thấy chủ nghĩa cộng sản bây giờ thế nào?
- GS Nguyễn Mạnh Tường: Trước hết các ông đừng lẫn lộn chủ nghĩa cộng sản, mà nhiều trí thức Pháp đã coi là hi vọng cuối cùng của loài người, với những người đã thực hiện nó.
- PV: Vậy ngài thấy các lãnh tụ cộng sản thế nào?
- GS NMT: Cũng như vậy, các ông chớ xếp chung các lãnh tụ cộng sản vào một gói. Làm sao có thể đặt ngang hàng Ceaucescu với Hồ Chí Minh? Các ông đều biết Cụ Hồ đến khi chết vẫn chỉ có hai bộ quần áo kaki đã sờn và một đôi dép lốp cao su đã vẹt gót.
- PV: Liệu Việt Nam có như Đông Âu không?
- GS NMT: Đảng cộng sản Việt Nam cũng có những sai lầm, nhưng không ai quên công lớn của Đảng đã lãnh đạo nhân dân giành lại độc lập, thống nhất, giải phóng dân tộc [15].
Tôi muốn dẫn một người nữa, GS Hoàng Xuân Hãn, một học giả đáng kính, được coi như là lương tâm của trí thức Việt kiều ở hải ngoại. Một phóng viên của Diễn đàn (Paris), trong một lần trao đổi với GS về sự đánh giá của ông đối với công lao của Đảng cộng sản Việt Nam, nhất là của Chủ tịch Hồ Chí Minh, đã được nghe ông tâm sự: “Bây giờ lòng người còn phân tán, hận thù còn quá nhiều, nên sự đánh giá còn lệch lạc. Nhưng với con mắt của người nghiên cứu lịch sử dân tộc, bác tin rằng vài chục năm nữa, có lẽ sớm hơn, người ta sẽ nhìn nhận công lao của cụ Hồ”. Rồi ông nói cụ thể hơn: “Cũng những anh thanh niên ấy mà bác đã quan sát, vì đã dạy học họ trong mấy năm, nhưng không tập hợp nhau được, hay tập hợp được cũng chẳng làm nên việc gì, thế mà hôm trước hôm sau, họ thay đổi hẳn”.
Theo lời phóng viên được đối thoại thì ý này của GS Hoàng Xuân Hãn trùng hợp với nhận xét của viên tướng chỉ huy quân đội Nhật ở Đông Dương thời đó, trên đường từ Hà Nội vào Sài Gòn ngay sau ngày 19/8/1945, ông ta cũng nhận thấy “những đôi mắt, những ánh mắt” trên khuôn mặt người Việt Nam chỉ “hôm trước, hôm sau” đã “hoàn toàn khác hẳn” (do GS Vĩnh Sính thuật lại). Sau khi ôn lại những cố gắng liên tiếp của các thế hệ cha ông từ cuối thế kỷ XIX, tìm đường giải phóng đất nước mà không thành, GS Hãn kết luận: “Vì chưa bao giờ trong lịch sử của mình, dân ta phải đương đầu với một quốc gia xâm lược mà thế lực, trình độ phát triển, hơn hẳn ta đến như vậy” [16]. Vậy mà cụ Hồ đã thành công. Có lẽ, đó cũng là nhận thức chung của những trí thức Việt kiều có lương tri ở hải ngoại hiện nay.
Hàng chục năm nay, đã có không ít kẻ xấu xa bị thất bại ê chề trong âm mưu “lật đổ thần tượng”. Họ phải biết rằng Hồ Chí Minh, cũng như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi,…là những thần tượng muôn đời của dân tộc, nên một vài đứa con lạc bầy, dù có hò hét điên cuồng đến đâu, cũng không thể nào đánh đổ được. Mong rằng Thụy Khuê sẽ không ăn phải đũa của những kẻ “bội tín”, sẽ tiếp bước lớp trí thức tinh hoa ở hải ngoại, có những đóng góp tích cực vào sự nghiệp đoàn kết, hòa hợp dân tộc và phát triển đất nước.

[1]
Những hoạt động của Phan Châu Trinh tại Pháp 1911-1925 (tr.128) và Nguyễn Ái Quốc tại Paris (1917-1923), tr.47.
[2]
D. Hémery: Ho Chi Minh, de l’Indochine au Vietnam, Descouvertes Gallimard, Paris, 1990. p. 42.
[3]
Michèle Zecchini: Le Calligraphe (Người viết chữ đẹp). Tạp chí Planète-Action, số 3/1970, p. 24-28.
[4]
Daniel Hémery: Jeunesse d’un colonisé, Genese d’un exil, Ho Chi Minh jusqu’en 1911. Approches-Asie, No 11/1992. Xem phần Documents Annexes, No 15, Déclarations de Nguyen Tat Dat, 19 mars 1920. p. 144.
[5]
Xem D. Hémery: Sđd, phần Documents, các số 6, 7, 9 tr. 131, 132, 134.
[6]
Dẫn lại theo Thu Trang-Gaspard: Ho Chi Minh à Paris, p. 69.
[7]
Dẫn theo Alain Ruscio: “Le délégué de l’Indochine”(Nguyen Ai Quoc), Intervention au Congrès de Tours, 27 décembre 1920, trong cuốn Le Journal L’HUMANITÉ et l’Indochine coloniale 1904-1954 + quelque textes d’Histoire. Về bài phát biểu của Nguyễn Ái Quốc Discours au Congrès de Tours, (extrait du procès-verbal sténographié), xin xem “Hồ Chí Minh - écrits”, Édition en langues étrangères, Hanoi-1976, p.11-13.
[8]
D. Hémery: Ho Chi Minh, De l’Indochine au Viet Nam, sđd, tr. 33.
[9]
Trong Hồi ký 41 năm làm báo, Hồ Hữu Tường có kể: Lúc đầu, các cụ chọn bút hiệu Nguyễn Ố Pháp (có nghĩa là Nguyễn ghét Pháp); bút danh này bị các bạn Pháp phản đối, coi là sô vanh, cực đoan nên mới đổi ra là Nguyễn Ái Quốc. Giai thoại này cần được thẩm tra lại, vì đến nay vẫn chưa tìm được bài báo nào ký bút danh Nguyễn Ố Pháp trên các báo ở Paris trước năm 1919; theo thống kê của A. Ruscio trong “La question coloniale dans L’Humanité (1904 - 2004)”- La Dispute, Paris, 2005, cũng không thấy có. Bút danh này chỉ thấy xuất hiện trên Le Paria các số 31 (11, 12/1924), số 32 (2/3/1925 và số 33 (4/1925). Số kép 36+37 (10, 11/1925), có đưa tin Nguyễn Ố Pháp dự Đại hội lần thứ ba Quốc tế những người lao động trong ngành giáo dục, họp ở Paris sau chuyển sang Bruxellles tháng 8/1925, thời gian này Phan Châu Trinh, Phan Văn Trường đã về nước, còn Nguyễn Ái Quốc đã rời Paris từ 6/1923 và lúc đó đang ở Quảng Châu.
[10]
Thu Trang (Công Thị Nghĩa): Nguyễn Ái Quốc tại Paris, Nxb Chính Trị Quốc Gia, H-2002, tr. 94-95.
[11]
Đặng Hữu Thụ: Thân thế và sự nghiệp nhà cách mạng Nguyễn Thế Truyền, Paris, 1993, chương I, phần gia thế.
[12]
GS Nguyễn Phan Quang-Phan Văn Hoàng: Luật sư Phan Văn Trường, Nxb TP Hồ Chí Minh, 1995, tr.78 và 169.
[13]
Dẫn lại theo Thu Trang: Nguyễn Ái Quốc tại Paris, sđd, tr.128.
[14]
Léo Poldès: “Le Mystère de Ho Chi Minh”, Ici Paris Hebdo, No 53, 11,12/6/1946.
[15]
Dẫn lại theo Bee.net.vn ngày 4/12/2010.
[16]
Nguyễn Ngọc Giao: Hoàng Xuân Hãn: con người và chính trị, bài đăng Diễn Đàn số 53-54, ngày 6/7/1996.

Monday, 12 May 2014

ĐI THEO TÀU LÀ MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG (Ngô Minh)

KÍNH CÁO VIỆC BỊ GỠ BÀI

"QUÀ TẶNG XỨ MƯA post bài ĐI THEO TÀU LÀ MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG được đông đảo bạn đọc tán đồng nhiệt liệt. Số truy cập 18 tiếng sau khi đăng bài, đến 13 giờ ngày 17/5/2013 là 1.600 lượt. Nhưng bài viết đã bị Admin Vnweblogs và an ninh mạng gỡ khởi giao diện. Họ đã thông báo với Ngô Minh một cách tử tế. Ngô Minh xin cám ơn. Mời đọc giả muốn đọc bài viết ĐI THEO TÀU LÀ MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG, truy cập trên quechoa.vn. KÍNH CÁO"

Thời buổi này mà còn bưng bít thông tin nữa, bà con nào chưa đọc bài đó, xin mời:

----

ĐI THEO TÀU LÀ MẤT NƯỚC, MẤT ĐẢNG

Ngô Minh

Mấy hôm nay tôi vô cùng bức xúc với việc, ngày 13-5, 32 tàu cá Trung Quốc đã kéo đến vùng biển phía tây nam quần đảo Trường Sa của Việt Nam. Đoàn tàu “đánh cá” của bọn Đại Hán này hoàn toàn nằm trong thềm lục địa của Việt Nam. Ấy thế mà Việt Nam không một lời lên tiếng*. Nghĩa là Trung ương đã để mặc lãnh hải cho bọn Trung Quốc muốn làm gì thì làm. Uất quá, buộc phải lên tiếng.

Trong lịch sử Việt Nam, nước ta bị giặc Tàu đô hộ ngàn năm, nhưng từ Đinh, Lê, Lý, Trần, Lê, Nguyễn , không có triều đại nào đi theo Tàu, bán đất nước cho Tàu. Nhiều triều đại còn xưng “ĐẾ” ngang với Thiên Triều. Nam quốc sơn hà Nam đế cư/Tuyệt nhiên định phận tại Thiên Thư-“Đế”, con trời do Sách Trời định , ngang hàng với Đế Tàu, chứ không phải vua do Tàu phong…. Hay như Nguyễn Huệ tự xưng là Hoàng đế Quang Trung.

Bọn Lê Chiêu Thống, Trần Ích Tắc ôm chân giặc Tàu để mong chúng giúp giành ngôi để làm tôi mọi cho Tàu, bị lịch sử lên án ngàn đời. Lịch sử Việt Nam thời cận đại có ba triều đại Lê Trịnh, Tây Sơn và Nguyễn, đối nghịch lăm le tiêu diệt lẫn nhau, gây cuộc chiến tranh cốt nhục tương tàn hàng thế kỷ, tuy nhiên có điều là cả ba cùng một ý nguyện tìm cách đòi lại phần đất bị mất bởi Trung Quốc, đòi lại 10 châu thuộc phủ An Tây, Hưng Hóa, là địa phận tỉnh Điện Biên, Lai Châu hiện nay . Ðại Nam Nhất Thống Chí xác nhận rằng 6 châu bị mất vào nhà Thanh gồm : Tung Lăng, Hoàng Nham, Hợp Phì, Lễ Tuyền, Tuy Phụ, Khiêm. Riêng 4 châu còn lại thì đời đầu Nguyễn thuộc phủ An Tây, đến thời Thiệu Trị trích lấy đất lập Châu Lai, tiền thân của tỉnh Lai Châu, năm Tự Ðức thứ 4 [1851] trích lấy châu Quỳnh Nhai và châu Luân cho lập phủ Ðiện Biên, tiền thân của tỉnh Ðiện Biên ngày nay. Đó mới là người Việt Nam

Đau đớn thay, từ giữa thế kỷ XX đến nay, nước ta dưới thời CHỦ NGHĨA CỘNG SẢN, với khẩu hiệu “Bốn phương vô sản đều là anh em”, ngây thơ “đi theo” Trung Quốc đã bị mất đất, mất người nhiều lần. Chúng lấm chiếm biên giới lấy mất Mục Nam Quan, lấy mất 2/3 Thác Bản Dốc. Theo nhà báo Huy Đức trong tác phẩm ”Bên thắng cuộc”, thì Trung Quốc đã dừng mọi thủ đoạn để lấn chiếm 50.000 m2 Việt Nam dọc biên giới. Năm 1974, giặc Tàu chiếm Quần đảo Hoàng Sa, 1988, chúng đánh chiếm đảo Gạc Ma thuộc Trường Sa của Việt Nam. Các chiến sĩ Hải Quân Việt Nam là đội quân thiện chiến vừa mới thắng Mỹ, nhưng “lệnh trên” để “giữ tình hữu nghị”, không được bắn trả, chỉ ôm lá cờ chịu chết , chịu mất đảo . Đau đớn thay. Việt Nam chiến tranh 20 năm, trên 5 triệu người cả hai miền Nam-Bắc bi chết, để thực hiện âm mưu “đánh Mỹ đến người Việt Nam cuối cùng” của Mao Trạch Đông. Hiện nay, sâu trong lãnh thổ Việt Nam, hàng ngàn lính Tàu gian manh đã đứng chân trên đất Tây Nguyên với kế hoạch khai thác boxite ký kết giữa Tổng Bí thư 2 đảng. Boxite là thứ rẻ độn, mua đâu cũng có hàng tỷ tấn, tại sao chúng đòi cho bằng được Tây Nguyên? Vì ai chiếm được Tây Nguyên thì kẻ đó chiếm được Đông Dương. Quân tàu cũng đang chiếm cứ 300.000 ha rừng đầu nguồn phía Bắc, do bọn quan tỉnh tham lam bán đất cho chúng. Nếu chiến tranh xẩy ra thì đất ấy là hậu cứ của Tàu.

Ở trên là nói về đất. Bây giờ xin nới về người. Ngoài việc hàng triệu người hy sinh trong “chiến tranh lạnh” để bảo vệ Trung Quốc và “phe XHCN”, 74 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam Cộng hòa hy sinh ở Hoàng Sa, 64 chiến sĩ Hải Quân Việt Nam hy sinh ở Gạc Ma, còn một kiểu “mất người” tàn bạo khác do đi theo Tàu. Đó là thảm họa Cải cách ruộng đất theo mô hình thổ địa cải cách của Mao Trạch Đông , cuộc cải cách ruộng đất ở miền Bắc được tổ chức với tinh thần đấu tranh giai cấp triệt để với sự chỉ huy trực tiếp của cố vấn Trung Quốc với phương châm: “Trí, phú, địa, hào đào tận gốc trốc tận rễ”. Kết quả từ 1953- 1956 đã phá nát hệ thống thiết chế văn hóa nông thôn Việt Nam, làm cho nông thôn tan nát. Theo thông kế chưa đầy đủ, cả nước , Đội CCRĐ đã bắt tù đày đọa 5% nông dân, nghĩa là gần 500.000 người bị bắt tù, bị đấu tố, nhục mạ. Đội CCRĐ đã giết 15 vạn địa chủ, thực ra là những người có tài kinh doanh, biết sử dụng ruộng đất hiệu quả, nên đời sống cao hơn người khác và cả những chí sĩ yêu nước bị ghép vào tội “Quốc dân đảng”, bị quy địa chủ bị bắt tù rồi chết oan trong tù như Hoàng Giáp Nguyễn Khắc Niêm ở Hà Tĩnh.

Sau CCRĐ là Cải tạo Công thương nghiệp tư doanh ở miền Bắc năm 1956 và ở miền Nam sau năm 1975, cũng là cách làm theo Mao Trạch Đông và Stalin, đã phá nát nền công nghiệp non trẻ của Việt nam, đẩy các chủ doanh nghiệp tài giỏi đến cùng quẫn phải đi bán hàng rong hoặc vượt biên, làm mồi cho cá trên đại đương.

Về văn hóa, chính trị, 2 lần làm theo lệnh Trung Quốc, làm cho hàng ngàn vạn trí thức lớn Việt Nam bị bắt bớ, tù đày, bị quản thúc. Đó là vụ Nhân Văn-Giai phẩm và vụ Chống xét lại. Vụ Nhân Văn Giai phẩm bắt đầu diễn ra đấu tố năm 1958. Hàng trăm văn nghệ sĩ , trí thức lớn như Nguyễn Mạnh Tường, Trần Đức Thảo, Trần Dần, Văn Cao, Lê Đạt, Nguyễn Hữu Đang… và những người liên quan vị bắt tù, bị treo bút hoặc mất việc. Có người như ông Nguyễn Hữu Đang- nhà văn hóa lớn, Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên ngôn Độc lập Quảng Trường Ba Đình 2-9 1945, bị tù ở nhà tù heo hút ở sát biên giới Trung Quốc, dài đến mức ông không biết có một cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc do không quân Mỹ tiến hành. Nhà văn Lê Hoài Nguyên tên thật là Thái Kế Toại, nguyên Đại tá công an, công tác tại A25 (chuyên theo dõi văn nghệ sĩ và văn hóa) sau này đã có chuyên luận dài về Nhân Văn Giai Phẩm, đã nhận định: VỤ NHÂN VĂN–GIAI PHẨM TỪ GÓC NHÌN MỘT TRÀO LƯU TƯ TƯỞNG DÂN CHỦ, MỘT CUỘC CÁCH MẠNG VĂN HỌC KHÔNG THÀNH. Ông Thái Kế Toại cho rằng, NVGP không phải là một vụ án gián điệp phản động. Các văn nghệ sỹ trí thức NVGP không có mục đích lật đổ chế độ. Họ chỉ mong muốn ĐCSVN, chính phủ sửa chữa những sai lầm và xây dựng ngay một nền dân chủ pháp trị, một đời sống tinh thần có tự do tư tưởng, một đời sống văn học nghệ thuật tự do sáng tạo”. Vụ án đã tiệt tiêu một thế hệ văn nghệ vàng của Việt Nam.

Vụ án Xét lại hiện đại cũng xuất phát từ việc đi theo và làm theo Trung Quốc. Vụ này có hai giai đoạn : giai đoạn đầu , bắt đầu từ đầu những năm 1960, đối tượng đấu tố là các văn nghệ sĩ có các tác phẩm yêu đương, buồn rất người, theo cách của các tác phẩm Khi đàn sếu bay qua, Người thứ 41.v.v.. ở Liên Xô sau chiến tranh thế giới thứ 2, như : Mở hầm của Nguyễn Dậu, Mùa hoa dẻ của Văn Linh.v.v..Các văn nghệ sĩ và các giáo viên dạy văn cấp 3 bị quy là xét lại phải kiểm điểm. Có người mất việc trong cơ quan nhà nước. Vụ án xét lại lớn thứ hai được gọi là Vụ án Tổ chức chống Ðảng, chống Nhà nước, đi theo chủ nghĩa xét lại hiện đại và làm tình báo cho nước ngoài” do Trưởng Ban Tổ chức Trung ương Lê Đức Thọ và Bộ trưởng Công an Trần Quốc Hoàn trực tiếp chỉ đạo, là vụ bắt giam lâu năm không xét xử nhiều nhân vật quan trọng trong nội bộ Đảng và bộ máy chính quyền tại miền bắc Việt Nam từ năm 1967, với cáo buộc là đi theo Chủ nghĩa Xét lại. Vụ án bắt đầu từ việc, tại đại hội lần thứ 20 Đảng Cộng sản Liên Xô, Khrushchyov TBT Đảng CS Liên Xô đã đọc báo cáo về Tệ sùng bái cá nhân của I.V. Stalin. Ông chủ trương chung sống hòa bình với thế giới Tư bản (“Các nước không cùng lập trường chính trị có thể sống chung”). Đường lối của Khrushchyov bị Mao Trạch Đông, chống lại và gọi là “Chủ nghĩa Xét lại”. Việt Nam đi theo Mao nên cũng triển khai bắt giam và giết hại “bọn xét lại trong nước”. Ước lượng trong Vụ án Xét lại Chống Đảng, khoảng 300 người bị bắt trong đó có 30 nhân vật cao cấp. Đây là thế hệ trí thức, cán bộ cấp cao có trình độ nhất Việt Nam thời bấy giờ. Có nhà phân tích cho rằng, vụ án xét lại này cũng là do Lê Đức Thọ muốn dùng “hiểm họa xét lại” để hạ bệ tướng Võ Nguyên Giáp. Dù phân tích theo hướng nào thì những vụ án như thế cũng là do Trung Quốc chỉ đạo nhằm tiêu diệt giới trí thức hàng đầu Việt Nam.

Trung Quốc là quốc gia do bọn bành trướng Đại Hán thống trị. Chúng không bao giờ là “anh em hòa hảo” với ai mà coi các nước lân bang là miếng mồi để chiếm đất. Chúng đã chiếm Tây Tạng, gây hấn với Mông Cổ, Liên Xô , Ấn Độ, Việt Nam …Theo tướng Nguyễn Trọng Vĩnh, một trong số ít người Việt nam hiểu Trung Quốc nhất, thì chúng không bao giờ có truyền thống văn hóa với Việt Nam, không chung ý thức hệ với Việt Nam (Lãnh đạo Trung Quốc đã từ lâu rời bỏ ý thức hệ Mác-Lê Nin, để trở thành một tập đoàn Hán tộc tham lam, muốn đầu độc cả thế giới bằng hàng hóa độc hại và chiến tranh, lấn đất, lấn biển). Cho nên đi theo Tàu là chết !

o0o

Chỉ có 2 lần lãnh đạo Việt Nam không nghe theo Trung Quốc và đã giành thắng lợi vang dội : Đó là Chiến dịch Điện biên Phủ ( 1954) và Chiến dịch Tổng tiến công và nổi dậy năm 1968 và Chiến dịch Hổ chí Minh năm 1975. Trong Chiến dịch Điên Biên Phủ, Đại tướng Võ Nguyễn Giáp đã không nghe theo sự chỉ đạo của cố vấn Trung Quốc, dù kế hoạch của cố vấn đã được Bộ chỉ huy chiến trường phê duyệt, đã thay đổi cách đánh từ “Đánh nhanh tiến nhanh” của Trung Quốc thành “Đánh chắc, tiến chắc” của Việt Nam . Nên kéo pháo vào rồi lại kéo pháo ra. Kết quả là Võ Nguyên Giáp đã đúng. Việt Nam đã thắng Pháp và thắng cả mưu mô của Trung Quốc. Còn thời đánh Mỹ, TBT Lê Duẩn đã không nghe theo Mao Trạch Đông “Đánh Mỹ đến người Việt nam cuối cùng”, nên đã tổ chức các cuộc tấn công năm 1968, 1972, 1975 và đã giành thắng lợi. Việt Nam đã thắng Mỹ và thắng cả mưu mô thâm hiểm của Trung Quốc.

Nhân dân Việt Nam, đặc biệt là giới trí thức hiểu rất rõ bản chất thâm hậu của bọn Tàu. Nhưng đáng buồn thay , một số lãnh đạo Đảng CS Việt Nam lại mơ hồ ( hay giả vờ mơ hồ ?) về người bạn “16 chữ vàng”, “4 tốt “ lừa mị, để hướng đất nước theo chúng. Một số học giả chính trị của Quân Đội nhân dân Việt Nam mà tiêu biểu là Đại tá, Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú Trần Đăng Thanh thuộc Học viện Chính trị của Bộ Quốc phòng, người đã đăng đàn bảo vệ quan điểm “đi theo Trung Quốc” để “bảo vệ cái sổ hưu”. Họ cho rằng: “Trung Quốc có đánh ta, nhưng là ân nhân của nước ta”. Thậm chí họ còn vạch chiến lược huấn luyện tác chiến của Quân đội Việt Nam với đối tượng tác chiến là Quân Mỹ chứ không phải quân Trung Quốc. Tôi cho rằng, đó là nhận định sai lầm, có nguy cơ dẫn đến mất nước và mất cả đảng ( đối với những người cộng sản chân chính). Vì ta đánh Mỹ là bảo vệ Trung Quốc và phe XHCN, không có nợ nần gì chúng. Nếu có chút nợ nần thì cuộc chiến xâm lược Việt Nam mà Trung Quốc phát động tháng 2- 1979 và cuộc chiến Gạc Ma 1988, hàng chục vạn người Việt Nam dọc biên giới đã bị giết hại, không những xóa sạch nợ nần, mà chúng còn gây nợ máu đối với nhân dân Việt Nam rất lớn. Thế thì làm sao gọi là “ân nhân” hỡi ông Phó Giáo sư, Tiến sĩ, Nhà giáo Ưu tú ” bảo vệ cái sổ hưu”?

Cả ngàn năm Bắc thuộc, đất nước ta nghèo, không biết gì thế giới bên ngoài, mà các triều đại tuyệt đối không theo Trung Quốc, không bị Trung Quốc đồng hóa. Ngày nay Việt Nam có thế lực và tiềm năng rất lớn để giữ độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ trước bọn bành trướng Đại Hán, vì chúng ta có Nhân Dân cực kỳ yêu nước, Quân đội nhân dân thiện chiến, có điểm tựa là khối ASAEN với 10 nước liền kề, lại còn có các nước bè bạn khắp năm châu như Nga, Ấn Độ, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc, Mỹ…Nếu chúng ta biết khai thác những lợi thế đó thì bọn Đại Hán không làm gì được ta.

Trung Quốc là nước láng giềng. Chúng ta phải tôn trọng và ứng xử hữu hảo theo luật lệ thế giới. Nước Việt Nam là nước độc lập có chủ quyền, nếu Trung Quốc gây hấn ở Biển Đông hay biên giới, nhân dân Việt Nam biểu tình phản đối sao lại “bắt tù “ nhân dân ? Phải ngay lập tức triệu đại sứ Trung Quốc tới, trao công hàm, nói với họ rằng, nếu các ông sống hữu hảo, đừng xâm phạm lãnh hải Việt Nam thì nhân dân Việt Nam sẽ không biểu tình chống Trung Quốc. Sao không nói với họ như thế, lại đi đàn áp nhân dân mình ? Nước có chủ quyền gì mà lạ thế !

Có người bảo:” Đi với Trung Quốc thì mất nước, nhưng còn đảng” . “Đi với Mỹ thì mất đảng, nhưng còn nước”. Nên các vị lãnh đạo ĐCS Việt Nam đã chọn con đường đi theo Trung Quốc, vậy còn đất nước và nhân dân thì sao ? Đây là một thực tế rõ ràng, 86 triệu dân Việt Nam ai cũng biết, chứ không phải là luận điệu của “bọn thù địch”. Người viết bài này là một người từng đi đánh Mỹ, vào Đảng nhân dân Cách mạng miền Nam, là nhà văn sống bằng lương tâm và lao động của mình, không bao giờ bị bọn thù địch nào mua chuộc nổi .

Vì thế tôi cầu mong các vị hãy tỉnh trí lại , và khắc sâu vào tâm can : Đi với Trung Quốc, nghe theo Trung Quốc sẽ mất nước và mất cả đảng !

……………………….

* Sự lên tiếng như ông Lương Thanh Nghị vẫn lên tiếng đã nhàm, rập khuôn và giả tạo, dân không còn coi đó là “sự lên tiếng” nữa. (QC)