Showing posts with label từ láy. Show all posts
Showing posts with label từ láy. Show all posts

Saturday, 5 October 2019

Nghĩa của từ XẨU trong XƯƠNG XÂU (Hoàng Tuấn Công - Tuấn Công thư phòng)

17 thg 8, 2019

NGHĨA CỦA “XẨU” TRONG TỪ “XƯƠNG XẨU”

Phở gánh Hà Nội
Ảnh: ST

HOÀNG TUẤN CÔNG

Có lẽ, các nhà biên soạn từ điển cho rằng, “xẩu” chỉ là yếu tố láy âm của “xương”, nên đã xếp “xương xẩu” vào diện “từ láy” và giải nghĩa như sau:
Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên): XƯƠNG XẨU I. dt. Phần xương (nói khái quát); thường dùng để ví với cái khó làm, khó ăn. Trâu bò gầy, xương xẩu nhô cả ra. Phải nhận phần đất xương xẩu nhất. II. Gầy đến mức nhô cả xương ra. Người gầy gò, xương xẩu”.

-"Từ điển từ láy dành cho học sinh" (Th.S. Bùi Thanh Tùng - Ngô Thu Phương - Nguyễn Huy Hoàn): "Xương xảu d. tt. id. Như xương xẩu"; "xương xẩu 1. dt. Xương (nói khái quát), thường dùng để ví với cái khó làm, khó ăn. 2. tt. Gầy đến mức nhô cả xương ra".
-"Từ điển tiếng Việt thông dụng" (Có chú thông tin từ láy - Vietlex): "xương xẩu (láy) d.t.; d. 1 xương của thú vật hoặc phần xương còn lại sau khi đã ăn hết thịt [nói khái quát]: con bò gầy xương xẩu nhô ra. 2 ví cái người khác đã vứt bỏ, chẳng mang lại lợi lộc bao nhiêu: ruộng ngon đã chia hết, chỉ còn toàn xương xẩu; t. gầy đến nhô xương, nổi xương lên: khuôn mặt xương xẩu".
Vậy, có phải “xẩu” láy âm của “xương” không?
Trong hàng chục cuốn từ điển tiếng Việt (kể cả từ điển phương ngữ) chúng tôi có trong tay, duy nhất “Từ điển từ và ngữ Việt Nam” (GS. Nguyễn Lân) thu thập và dành cho “xẩu” riêng một mục từ: “xẩu • dt. Như Xương <> Những xương cùng xẩu”. Câu “Những xương cùng xẩu” mà cuốn từ điển này lấy làm ví dụ, chính là trích dẫn từ bài đồng dao “Rồng rắn lên mây”: Những xương cùng xẩu”/“Những máu cùng me”.
Trong thực tế, không hẳn “xẩu” cũng giống như xương”, hoặc chính là “xương”, mà còn có nghĩa rộng hơn, được dùng để chỉ các loại “phụ phẩm” của gia súc, trâu bò sau khi mổ thịt, như xương vụn, gân thịt vụn lẫn với da, hoặc chút lòng, lá sách… bán theo mớ, nấu chung thành một món. Ví dụ món "xẩu bò nấu khế" chẳng hạn.
Xương phở
Ảnh: ST

Nghĩa riêng của “xẩu” được thể hiện rõ nhất là khi chỉ phần xương bao gồm nhiều loại, đang còn dính chút thịt, bạc nhạc, gân, da...mà người ta thường hầm để lấy nước dùng. Sau đó, phần “xẩu” đã hầm nhừ lại trở thành món gặm riêng. 
  Trong bài “Phở”, Nguyễn Tuân đã ngạc nhiên khi nhận ra “xẩu” không phải là “tiếng đệm” (tức láy âm) của “xương”. Ông viết: “Vì hay la cà với phở, mà tiếng nói của tôi được chính xác và giầu có thêm lên. Trước kia tôi cứ tưởng chữ “xương xẩu” là một tiếng đôi, và chữ “xẩu” chỉ là một tiếng đệm. Ông hàng phở đã làm cho từ ngữ tôi hôm ấy thêm lên một danh từ: xẩu khác với xương, dùng để chỉ những cái đầu xương phở có dính thịt và gân róc chưa hết. Tôi đã thấy những người phu xe kéo vào hiệu phở gọi một chén rượu với một bát “xẩu”...”
Dân nhậu hoặc những người khoái món “xẩu” (phụ phẩm của nồi nước dùng) còn đặt thêm cho nó những cái tên nghe thật kinh khủng: "hài cốt", “bốc mả”!
Nhiều cuốn từ điển thu thập và giải nghĩa “xương xẩu” phần nào cho thấy tính chất hợp nghĩa của “xương” và “xẩu”:
-Việt Nam tự điển (Lê Văn Đức): “xương xẩu • dt. (đ) Tiếng gọi chung bộ xương: Xương-xảu gì nhỏ quá. • tt. Cứng rắn, rắn-rỏi: Vẻ mặt xương-xảu”.
-Từ điển tiếng Việt (Văn Tân chủ biên): “xương xẩu • t. 1 Có nhiều xương <> Cá này xương xảu lắm. 2 Gầy gò quá <> Người xương xảu. 3 Đem lại quá ít quyền lợi, khó khai thác <> Mảnh đất xương xảu”.
-Từ điển tiếng Việt (Vietlex): xương xẩu I d. 1 xương của thú vật hoặc phần xương còn lại sau khi đã ăn hết thịt [nói khái quát]: con bò gầy, xương xẩu nhô ra ~ xương xẩu vãi đầy ra chiếu. Đn: xương xóc. 2 ví cái người khác đã vứt bỏ, chẳng mang lại lợi lộc bao nhiêu: ruộng ngon đã chia hết, chỉ còn toàn xương xẩu.II t. gầy đến nhô xương, nổi xương lên: “Mắt Nghĩa tối sầm lại khi nhìn kỹ vào gương mặt ông Xung quắt lại xương xẩu.” (Dương Hướng).
-Đại từ điển tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên): “xương xẩu • I dt. Xương của thú vật hoặc xương vứt bỏ lại sau khi ăn nói chung: Con bò gầy quá, chỉ toàn xương xẩu <> vứt xương xẩu ra hố rác. • II tt. 1 Gầy guộc, dường như giơ hết xương ra: người xương xẩu gầy gò. 2 Thuộc loại vứt bỏ, không mang lại lợi lộc gì: Những việc xương xẩu mới đến lượt mình <> Người ta chỉ bỏ lại những mảnh ruộng xương xẩu thôi”.
Như vậy, trong từ “xương xẩu”, thì “xương” nghĩa là phần cứng làm khung, cốt cho da thịt, thân thể, vật thể…; “xẩu” cũng có nghĩa là xương, hoặc là những bộ phận cứng, dai, “khó nhằn” giống như xương nói chung. Theo đó, “xương xẩu” không phải là từ láy, mà là từ ghép đẳng lập, được hợp nghĩa bởi hai từ “xương” và “xẩu”.

                                                            HTC/8/2019

Wednesday, 2 October 2019

Tứ tung là gì (Hoàng Tuấn Công - Tuấn Công thư phòng)


30 thg 9, 2019

“TỨ TUNG” LÀ GÌ?

Thủ ấn trong "Tứ tung ngũ hoành"
Ảnh: ST

HOÀNG TUẤN CÔNG

Từ điển từ láy tiếng Việt” (Viện Ngôn ngữ - Hoàng Văn Hành chủ biên) xem “tứ tung” là từ láy, và giải nghĩa: “TỨ TUNG tt. Khắp mọi nơi mọi chỗ, không theo một trật tự nào. Nhà dột tứ tung”.
Thực ra, “tứ tung” là nói tắt từ thành ngữ “Tứ tung ngũ hoành” 四縱五橫. Sách “Ngọc Hạp thông thư (tác giả Hứa Chân Quân; Đam Liên dịch - NXB Hồng Đức, 2017) viết: “gặp việc cấp bách không thể đợi được ngày tốt đến thì chọn một giờ cát lợi để làm, gọi là phương pháp Tứ tung ngũ hoành.”.

“Tứ tung ngũ hoành” dùng phép niệm chú (念咒), thủ quyết (手決), kèm “không thư” 空書 (tức dùng ngón tay hoặc kiếm, vạch, viết chữ vào không trung) trong thuật “Kỳ môn độn giáp” 奇門遁甲[1].
Hán ngữ đại từ điển cho biết, “Kì môn độn giáp” là thuật số lấy “ất, bính, đinh” (,,) trong “thập can” (十干) làm “tam kỳ” (三奇), lấy “bát quái” (八卦) biến tướng thành “hưu, sinh, thương, đỗ, cảnh, tử, kinh, khai” (,生傷,,,,) làm “bát môn” (八門), nên gọi “kì môn” (奇門); trong “thập can” (十干), thì can “giáp” () là tối tôn quý, nhưng không hiển lộ; “lục giáp” (六甲) thường ẩn giấu ở “mậu, kỉ, canh, tân, nhâm, quí” (, , , ,, ), nên gọi “lục nghi” (六儀); “tam kỳ”, “lục nghi” phân bố cửu cung, mà “giáp” không độc chiếm “nhất cung”, nên gọi là “độn giáp” (遁甲). Những người theo thuật số này tin rằng, “Kỳ môn độn giáp” có thể tính toán để biết được cát hung, hoạ phúc.
Phép “Tứ tung ngũ hoành” áp dụng khi có việc cần phải ra đi, không thể chọn được ngày giờ hoặc hướng xuất hành tốt, thì đứng nghiêm trang giữa cổng, quay mặt ra, tặc lưỡi 36 lần, rồi dùng ngón tay trỏ vạch lên không trung 4 đường dọc (tứ tung 四縱), lại vạch tiếp 5 đường ngang (ngũ hoành 五橫), gọi là “cửu tự quyết” 九字決, hay “cửu tự chân ngôn” 九字真言 (gồm: ,,,,,,,,lâm, binh, đẩu, giả, giai, trận, liệt, tiền, hành). Vạch xong, niệm thần chú để xin thần linh phù hộ, ngăn trừ tà ma ác quỷ quấy nhiễu dọc đường, giúp cho thượng lộ bình an, đi đến nơi về đến chốn. Lời chú như sau:
 “Tứ tung ngũ hoành, ngô kim xuất hành, Vũ Vương vệ đạo, Xi Vưu[1] tỵ binh, đạo tặc bất đắc khởi, hổ lang bất đắc xâm, hành viễn quy cố hương. Đương ngô giả tử, bội ngô giả vong, cấp cấp như Cửu thiên Huyền nữ luật lệnh” ( : “四縱五橫, , , , 盜賊 , , , , , 如九天 ”. Nghĩa là: “Tứ tung ngũ hoành, nay ta xuất hành, vua Vũ bảo vệ trên đường, giặc giã lui binh, đạo tặc không được hành sự, ác thú không được xâm hại, đi xa về gần, kẻ chống lại ta sẽ bị chết, kẻ phản ta sẽ bị diệt vong. Cấp cấp như Cửu thiên Huyền nữ luật lệnh”.
Nói xong thì xuất hành, đi thẳng, không quay đầu lại.
Phép “Tứ tung ngũ hoành” được áp dụng trong nhiều việc. Ví dụ: Cầu hôn, thì viết chữ “hợp, dùng vào lúc nam nữ, bạn bè qua lại với nhau. Chợ búa thì viết chữ “lợi, dùng khi buôn bán, trao đổi. Xuất hành thì viết chữ “thông, dùng khi đi ra ngoài hoặc trên đường đi...
Tứ tung ngũ hoành

Vì “Tứ tung ngũ hoành” tạo thành 4 đường dọc và 5 đường ngang đan vào nhau, nên nó đem đến cho người ta cảm giác về sự lung tung, lộn xộn, tứ phía, dọc ngang, chỗ nào cũng có. Theo đây, từ một câu thần chú, “tứ tung ngũ hoành” đã biến thành một thành ngữ trong tiếng Việt, được hiểu là sự lộn xộn, bừa bãi (một nghĩa không có trong tiếng Hán). Cách nói tắt “tứ tung”, thay vì “Tứ tung ngũ hoành” cũng giống như nói tắt “hằng hà” 恆河, thay vì “Hằng hà sa số” 恆河沙數. Theo đây, “Tứ tung ngũ hoành” có tác dụng nhấn mạnh hơn là cách nói tắt “tứ tung”:
-Từ điển Lê Văn Đức: “tứ tung • trt. Lộn-xộn, bừa-bãi, cùng khắp: Ăn sung ngồi gốc cây sung, Ăn rồi lại ném tứ-tung ngũ-hoành (CD)”.
-Từ điển Đào Văn Tập: “tứ tung • Vương vãi, bừa bãi ra mỗi chỗ một ít <> đồ đạc vứt tứ tung. Tứ tung ngũ hoành: cng.; ăn sung ngồi gốc cây sung, ăn rồi lại ném tứ tung ngũ hoành”.
Sách “Từ điển thành ngữ tục ngữ ca dao Việt Nam” (Việt Chương-NXB Đồng Nai, 1998) giải thích: “Tứ tung ngũ hoành” là “nói đến những hành động dọc ngang theo ý riêng của mình cho thoả chí bình sanh”. Tuy nhiên, “tung hoành” 縱橫, hay “Tung hoành ngang dọc” khác với “tứ tung” hay “Tứ tung ngũ hoành”. Dường như Việt Chương đã nhầm lẫn, hoặc đồng nghĩa hai thành ngữ này làm một.
 Theo Hán ngữ đại từ điển, tung hoành 縱橫hướng tunghướng hoành; nam-bắc là tung, đông-tây là hoành. “Tung hoành” là “dọc ngang”, đông- tây, nam-bắc, tạo cảm giác xông pha tứ phía, không có gì ngăn cản nổi. Trong Hán ngữ, “tung hoành” 縱橫 có một số nghĩa như: vẻ tạp loạn (雜亂貌 - tạp loạn mạo); phân tán, phát tán (分散貌 - phân tán mạo); hùng kiện, không bị câu thúc (雄健奔放 - hùng kiện bôn phóng). Trong tiếng Việt, “ngang dọc”, “dọc ngang”, hay “Tung hoành ngang dọc” cũng được dùng với nghĩa “hoạt động một cách mạnh mẽ và ngang dọc theo ý muốn, không gì ngăn cản nổi” (Từ điển Vietlex).
Như vậy, “tứ tung” 四縱, là nói tắt từ thành ngữ “Tứ tung ngũ hoành” 四縱五橫, vốn là phép niệm chú trong thuật “Kì môn độn giáp”. Về sau, “tứ tung” được dùng như một từ độc lập, với nghĩa như Từ điển tiếng Việt (Vietlex) đã giảng: “tứ tung 四縱 t. 1 [kng] ở bất cứ chỗ nào, khắp mọi nơi. Đn: lung tung. 2 [kng] lộn xộn, bừa bãi, chỗ nào cũng thấy có [thường nói về đồ đạc]. Đn: lung tung”, chứ không phải “từ láy”.

HTC/9/2019

Chú thích:
[1] Có thuyết lại cho rằng, “Tứ tung ngũ hoành” xuất phát từ “Bảo Phác Tử” 抱朴子, của Cát Hồng 葛洪 thời Đông Tấn.
[2] Truyền thuyết thời cổ đại Trung Hoa cho rằng, “Xi Vưu” 蚩尤 là tên vị đầu lĩnh tộc người Cửu Lê, biết dùng kim loại để chế tác binh khí, đánh nhau với Hoàng Đế ở Trác Lộc, bị giết chết. Trong tiếng Hán, “xi vưu” 蚩尤 còn được dùng để gọi những kẻ độc ác (惡人的代稱 – ác nhân đích đại xưng).