Showing posts with label từ ngữ nghề nghiệp. Show all posts
Showing posts with label từ ngữ nghề nghiệp. Show all posts

Sunday, 4 December 2022

Ét nào là ét nào ?

 


 

Người phụ xe, tiếng Pháp là aide-chauffeur, trong tiếng Việt còn được gọi là ét ô tô / ét tài xế / ét xe hơi. Aide tiếng Pháp chuyển sang tiếng Việt thành ét.

Aide
tiếng Pháp còn có nghĩa là trợ lý. chuyển sang tiếng Việt thành ét. Nghĩa này cũng được bảo lưu trong từ ét của tiếng Việt.

Tổ lái xe lửa chạy than ngày xưa có hai người. Một người làm công việc lái tàu (tiếng Pháp là conducteur), một người làm công việc xúc than (tiếng Pháp là chauffeur). Người Việt cũng gọi người xúc than là ét.

 

ét  Œ aide / assistant. [i]   (CHEMIN DE FER) chauffeur.[ii]

ô tô aide-chauffeur.[iii]

tài xế aide-chauffeur.[iv]

xe hơi aide-chauffeur.[v]



[i] * Cậu làm « ét » cho tớ. Nhiều Tác Giả (1964:54, Đại Đồng)

* Lãi kia là đứa vô danh, mình là người có danh lại nhào tới xin làm ét cho nó. Nguyễn Khải (1999:54)

* Cậu là “ét” cho tớ. Nguyễn Huy (2004:61, Chiến Sĩ Điện Biên)

ĐVT (1950:253), NQT (1992:171), LPT (2001:451)

[ii] *  Người « ét » cười ra vẻ không tin, lấy sẻng súc than cho vào lò, còn tôi vẫn đứng nguyên chỗ cũ đăm đăm nhìn thẳng trước mặt. Khái Hưng & Nhất Linh (1958:36, Nhất Linh)

* Tôi gọi người « ét » nhưng bác ta làm bộ không nghe thấy, cứ cắm đầu xúc than cho vào lò. Khái Hưng & Nhất Linh (1958:37, Nhất Linh)

* Người « ét »  của tôi, vội bỏ cái xẻng xúc than, níu lấy tôi nói: Nhất Linh (1973:60)

[iii] * Sốp phơ lại cao hứng vừa cầm lái vừa nói truyện với tên  « ét », nhiều lúc chực đưa cả người lẫn xe xuống ruộng. Phong Hóa Tuần Báo số 99 (1934:9, Lêta)

* Tôi nhận thấy vậy, có đùa anh « ét »  (aide) xếp chỗ: Tri Tân Tạp Chí số 58 (1942:13, Nhật-Nham)

* Bữa trước, đã có một chuyến xe lên đèo ban đêm cũng gặp ổng rồi, ổng rượt theo xe, vồ một thằng « ét » ngồi phía sau. Nguyễn Vỹ (1970a:291)

* Bữa trước, đã có một chuyến xe lên đèo ban đêm cũng gặp ổng rồi, ổng rượt theo xe, vồ một thằng “ét” ngồi phía sau. Nguyễn Vỹ (2006:267)

LPT (2001:451)

[iv] * Tài, ét thay phiên nhau quay quay ma-ni-ven.  Duyên Anh (1970t:167)

* Xe lướt ngang, anh ét lẳng lơ vẫy tay, điểm nụ cười.  Duyên Anh (1970t:167)

[v] * Anh ét cằn nhằn biểu hai ông nằm trên bao bố trải trên mấy thùng đựng nước mắm. Nguyễn Vỹ (1957c:32)

* Mới hăm mốt, làm ét xe hơi, anh mê một cô hàng xén rất xinh ở An Khê, quyết lấy cho được. Phan Tứ (2007m:955)

Saturday, 8 June 2013

Từ vựng NGHỀ LƯỚI ĐĂNG – Một vốn quý trong kho tàng NGÔN NGỮ, TRI THỨC, VĂN HÓA DÂN GIAN của ngư dân KHÁNH HÒA (Nguyễn Man Nhiên)

Từ vựng NGHỀ LƯỚI ĐĂNG – Một vốn quý trong kho tàng NGÔN NGỮ, TRI THỨC, VĂN HÓA DÂN GIAN của ngư dân KHÁNH HÒA
Nguyễn Man Nhiên
Trước đây, lưới đăng là nghề biển có quy mô lớn, có năng suất và lợi tức cao nhất trong các nghề đánh cá ở Khánh Hòa. Cùng với những tục lệ thờ cúng kỳ lạ, những tập quán kiêng cữ đặc biệt, trong quá trình giao tiếp cũng như khi hành nghề, ngư dân lưới đăng đã sáng tạo và sử dụng một hệ thống từ vựng rất phong phú và độc đáo, phản ánh đặc trưng nghề nghiệp và mang đậm sắc thái dân gian. Trải qua thời gian, hệ thống từ vựng này đã trở thành một vốn quý trong kho tàng di sản văn hóa truyền thống của địa phương.

A
Ăn dọn (còn gọi là dọn nghề): Khâu chuẩn bị trước khi xuất hành ra biển làm mùa, từ việc bày dọn giàn lưới ra một bãi cát rộng để tu sửa, đan vá, kết lại cho hoàn chỉnh đến việc sửa ghe, trét ghe hay xảm thuyền. Thời gian ăn dọn bắt đầu từ trung tuần tháng 11 âm lịch, tùy giàn nghề lớn nhỏ mất khoảng 15 đến 25 ngày để hoàn tất. Trong thời gian ăn dọn, bạn nghề ăn ngủ ngay ngoài bãi.
B
Bạn lưới (còn gọi là Bạn trên): thuyền viên kéo neo, kéo lưới, làm việc trên ghe là chính. Số lượng khoảng 20 - 28 người, chia đều cho 2 chiếc thuyền đăng, thuyền neo.
Bạn nằm thuyền: thuyền viên giỏi, nhiều kinh nghiệm, lo việc tát nước, nấu ăn và những việc nặng đòi hỏi tay nghề cao (như nhảy xuống nước kết giải, làm mé làm gót...). Mỗi bên thuyền đăng, thuyền neo đều có từ 1 đến 2 bạn nằm thuyền.
Bao hầu: cá cờ lớn cỡ ba bốn tạ trở lên gọi là bao hầu.
: phao lưới, giúp giàn lưới nổi theo chiều thẳng đứng từ mặt nước xuống đáy biển. Ngày xưa, bè được làm bằng những ống tre kết lại, ngày nay bè làm bằng xốp, lại dùng ống tre bọc xung quanh để bảo vệ xốp khỏi bị vỡ. Lưới đăng có 2 bè chính là bè cái và bè dọc, còn lại là những bè nhỏ. Vị trí của bè được gắn liền với dây neo, có bao nhiêu neo trên một giàn lưới thì có bấy nhiêu bè.
Bề dạu (còn gọi là bề đứng, bề thâm): chiều cao của tấm lưới tính từ mặt nước xuống đáy biển.
Bên đăng: bên thuyền đăng (đậu giữa neo thứ 10 và thứ 9 từ bè cái tính vào).
Bên đốc: bên cọc chèo bánh của ghe (bên trái).
Bên lái: bên cọc chèo mũi của ghe (bên phải).
Bên neo: bên thuyền neo (đậu bên giàn lưới hôm giữa 2 bộ neo nhì tráng tây và nhất tráng tây).
Biển đói: đánh không được cá trong nhiều ngày hoặc mất mùa cá.
Biển no: được mùa cá.
Biện: thư ký, có nhiệm vụ ghi chép, tính toán, quản lý sổ sách thu chi. Làm việc trên thuyền có biện nước, trên bờ có biện bờ.
Bộ: gọi tắt từ bộ neo. Khi khép lưới bửng nhốt cá vào rọ, mỗi bên thuyền đăng và thuyền neo kéo theo một đầu lưới rồi đi qua 5 hoặc 6 bộ để làm mé làm gót.
Bồng đỏ mũi: phần đầu mũi thuyền đăng và thuyền neo có cây xỏ mũi sơn màu đỏ.
C
Cá ăn đầu (còn gọi là cá tá): thuở nghề đăng còn sơ khai, thu nhập của ngư dân được tính theo lối ăn chia chứ không trả công ăn lương như sau này. Để chuyên chở cá về bến, các chủ đầm phải sắm hoặc thuê ghe phiên. Nếu thuê, cứ mỗi tá cá (12 con) chủ đầm thu hoạch được thì chủ ghe phiên được hưởng 1 con.
Cá chạy bãi: mấy tháng biển động sóng to gió lớn, nước đục, nhiều loại cá như cá chét, cá chột lớn cỡ bắp vế, từ ngoài khơi vô bờ lúc nước lớn, chạy dọc theo bãi để kiếm ăn.
Cá dài: tiếng nghề đăng gọi chung các loại cá thu.
Cá lái lợi: số cá ngư dân trả cho chủ nợ thay tiền lãi.
Cá lại: từ cuối tháng 4 đến tháng 9 âm lịch, các loài cá di cư từ vùng biển phía bắc bắt đầu trở vô nam, ngư dân gọi là cá lại. Mùa này cá đi chậm, gặp vật cản thường xoay tròn lòng chảo và nép vào chân các gành đảo trong lộng.
Cá lên: từ tháng Giêng đến đầu tháng 5 âm lịch, từng đàn cá nổi di cư theo mùa như cá thu, cá ngừ, cá bò... từ vùng biển phía nam bắt đầu di chuyển ra phía bắc, ngư dân gọi là cá đi hoặc cá lên. Thời gian này cá thường chạy khơi, xa gành nên đi nhanh và thẳng đường. Đây là mùa khai thác chính của nghề lưới đăng.
Cá nhập đất: cá biển có tập tính thường đi sát đáy ngày 2 lần: lúc chạng vạng và mới rạng đông.
Cá tròn: tiếng nghề đăng gọi chung các loại cá ngừ, bò, chù, chấm, dưa gang.
Các bác: là những người khuất mặt, chết ngoài biển hoặc trên đảo.
Cần khấu: cần ngắn khoảng 1m, gắn lưỡi câu lớn không ngạnh, dùng móc vào mình cá lớn cho dễ bắt.
Câu chạy: nghề câu cổ truyền, thả mồi nổi trên mặt nước, dùng xuồng kéo chạy nhanh, cá lớn rượt theo đớp sẽ bị dính câu. Nghề này hoạt động ban ngày trong lông, dùng xuồng nhỏ, trước kia gắn buồm, về sau gắn động cơ để chạy nhanh, thuận tiện lúc ngược gió. Nhợ câu ngày trước là nhợ se bằng tơ tằm, sau dùng cước 70 hoặc 80, mỗi ống 100m, cột ít nhất 2 lưỡi câu. Mồi là lông gà loại mềm, tùy theo tháng và con nước mà dùng lông màu trắng, vàng, vàng lợt, xám... Mồi lông gà kéo chạy nhanh trên mặt nước làm cá lớn lầm tưởng là cá con. Cá ăn mồi nổi là các loại cá ngừ, chù, chấm, bò, thu, cá cờ, cá gòn. Nghề lưới đăng cũng đánh bắt các loại cá này nên các xuồng câu chạy có mặt trong vùng gần sở đầm từ tháng Giêng đến tháng 6 âm lịch, hết mùa lưới họ câu tiếp đến tháng 8 âm lịch thì nghỉ.
Câu giăng: nghề câu cổ truyền, hoạt động trong lông, mỗi giàn câu gồm 1500 - 2000 lưỡi câu cột cách nhau 7, 8 tấc, với một số phao để giữ lưỡi câu cách rạng lối 1m. Mồi là cá nục, cá cơm trỏng, mực tươi xắt miếng. Ngư dân giăng câu buổi chiều chung quanh đảo hoặc nơi có rạng lố, tùy con nước họ thăm câu thay mồi mỗi đêm 3 - 4 lần. Sau này do nạn bắn cá bừa bãi bằng chất nổ, cá ở rạng lố bị tiêu diệt, những ghe câu giăng dần dần đổi sang nghề khác.
Câu kiều: nghề câu cổ truyền, hoạt động trong lông, câu cá mà không có mồi. Ngư dân dùng nhiều giàn câu giăng, mỗi giàn cột 1000 - 1500 lưỡi câu lớn, mỗi lưỡi câu cách nhau 3 - 4 tấc, không gắn mồi, thả xuống đáy biển, lưỡi câu thòng tòn ten cách mặt đất lối 1 tấc, cá lớn nhập đất đi ngang qua vướng lưỡi câu, vùng vẫy thì các lưỡi câu gần bên móc thêm vào mình, không còn lối thoát. Về sau nghề giã cào phát triển, cào sát đáy biển, kéo bứt giàn câu kiều nên họ dẹp nghề.
Cây chong: miếng gỗ nhỏ hình đồng xu dùng để móc tua chì của mỏ neo cái với vòng nhiếp chì.
Cây gang: cây gỗ lớn dùng móc vào phần đầu dây song gang để mặt lưới tránh cọ xát với đá nhọn.
Cây giang: những thanh đà ở hai bên be thuyền.
Chao lưới: đoạn lưới rất thưa, sợi lớn, nối nạp con với giàn lưới đăng.
Chắp bả: đan lưới, vá lưới.
Chèo dọc: tức đội trưởng (nếu là chèo dọc bên ghe đăng) hoặc đội phó (nếu là chèo dọc bên ghe neo), là người chỉ huy, điều khiển, quyết định phương án đánh bắt cụ thể cho từng giác lưới.  
Chính đầm, phụ đầm: Mỗi sở đầm lớn (đầm chính) thường lãnh thêm một sở đầm nhỏ gọi là đầm phụ, vì vậy tên của các sở đầm này thường được ghép chung, ví dụ: Xưởng Dự - Táo Chỉ, Lam Dự -Châu Dự, Tiểu Cảng - Suối Châu, Thạch Dự - Bút Chử...                                                                                                                                                                                                                                                  
Chủ đầm: là người hay nhóm người được lãnh khoán hoặc trúng thầu khai thác một sở đầm đăng nào đó, còn gọi là chủ nghề, nghiệp chủ hoặc chủ nhiệm (hợp tác xã).
Chủ nậu: những người giàu có, cho các chủ phương tiện đánh bắt vay vốn và nhận bao tiêu sản phẩm (mỗi chủ nậu có thể cho vay và bao tiêu cho từ 2 đến 10 tàu đánh cá) rồi bán lại cho những người làm nghề rổi.
Chủ vựa: những người chuyên thu mua cá với số lượng lớn, sau đó bán dần cho những người làm nghề rổi.
Chuyến chính, chuyến phụ: cá lưới đăng đi phiên mỗi ngày 2 chuyến, chuyến chính về bến lúc 2 - 3 giờ chiều, chuyến phụ về bến lúc 6 - 7 giờ tối.
Chửng cá: cách chia cá giữa chủ đầm và bạn lưới thuở nghề đăng còn sơ khai.
Coi nước: quan sát số lượng cá đã có trong rọ lưới để quyết định khóa hom và thu hoạch. Người coi nước ôm ống tre hay phao bơi trong rọ lưới, dùng kính lặn nhìn sâu xuống đáy xem cá đã vào rọ thì báo hiệu cho trên thuyền đóng cửa bửng để cá không chạy thoát ra ngoài.
Con nước thủy triều: mỗi tháng thường có 3 hoặc 4 ngày nước thủy triều, cứ nước lớn một lúc rồi ròng một lúc, lừng chừng như vậy cả ngày.
Con trân (còn gọi là nhợ cúi): cuộn nhợ đan lưới có chiều dài 100 sải.
Cốt gang: là sợi dây lớn ràng, buộc quanh hòn đá kết gang. Từ cốt gang phân ra hai sợi nhánh bằng cáp là tay rượng đồi và tay rượng chì. Tay rượng đồi cột mặt trên của lưới, tay rượng chì cột mặt đáy.
Cụi lưới: lưới đã cuộn lại thành từng ôm.
Cúng cầu ngư: cúng vào lúc năng suất sở đầm quá thấp.
Cúng Dàng (còn gọi là cúng Thập nhị Nhang Dàng): lễ cúng ảnh hưởng theo tục lệ của người Chăm xưa, tổ chức vào cuối tháng Ba hoặc đầu tháng Tư âm lịch hàng năm.
Cúng hạ đăng: ngày xưa nghề đăng dùng lưới đan bằng vỏ cây mấu trên rừng hoặc bằng xơ dừa nên lưới mau hư mục, mỗi tháng sở đầm phải nghỉ một hai ngày để ráo lưới - tức vá lưới, phơi lưới. Khi bủa lại giàn lưới, phải làm lễ này.
Cúng kết gang: lễ cúng xin phép Thần linh cho cột một đầu lưới (móc gang) vào gành đá.
Cúng khai sơn: lễ cúng xin phép chư vị Thần linh cho sử dụng gành đảo để đặt gang lưới.
Cúng lịch y: hàng năm vào khoảng hạ tuần tháng 2 âm lịch (tháng này còn gió đông bắc, thỉnh thoảng biển động mạnh, cá thường đi khơi), các phường lưới đăng làm lễ dâng cúng các đồ y trang, vàng mã... để cầu xin chư vị thần linh dẫn dắt cá chạy gành sớm. Nhân dịp này ngư dân rước thầy chùa làm lễ cầu siêu và lễ phóng đăng để siêu độ vong hồn Các Bác và những đồng nghiệp tử nạn ngoài biển.
Cúng mừng rau: khi năng suất tăng vọt trong nhiều ngày, ngư dân làm gỏi cá cúng tạ ơn chư vị Thần linh (tiếng nghề đăng gọi chung các loại cá là “rau”).
Cúng ra mắt: lễ cúng xin phép Thần linh để bắt đầu hành nghề.
Cúng ráp xương quẹo: nghi thức ráp lưới thưa và lưới tư ở một góc 90 độ, chỗ sẽ đặt neo cái (so sánh chỗ ráp hai đầu lưới như cùi chỏ). Việc này do chủ nghề hoặc đại diện và ông chèo dọc thực hiện.
Cúng tạ: ngày mãn mùa cá, sở đầm làm lễ cúng tạ ơn chư vị Thần linh đã phù hộ cho ngư dân trong mấy tháng hành nghề. Biển no họ cúng trọng thể, biển đói thì cúng đơn giản hơn nhưng cũng đầy đủ phẩm vật thường lệ.
Cúng tết thuyền: lễ cúng tại thuyền đăng, thuyền neo vào ngày Tết Nguyên Đán.
Cúng tổ nghề (còn gọi là cúng Tam vị thánh tổ): lễ cúng trọng thể tại nhà chủ nghề hoặc nhà chung của phường lưới đăng (nhà đoàn).
Cữ: kích thước tiêu chuẩn của tấm lưới.
D
Dây cốt hôm: dùng cột một đầu lưới hôm qua trung gian là giây xiềng xiềng.
Dây cửa (còn gọi là dây mé nhảy): một đầu buộc vào đầu dây còn trống của bửng, một đầu buộc tại chỗ gần với góc lót. Người ta có thể đặt dây cửa theo nhiều cách khác nhau tùy theo vị trí của thuyền neo.
Dây đòi: sợi dây dài cột hòn đồi.
Dây giằng dọcdây giằng gótdây nhồi mé: 3 tên khác nhau của cùng một sợi dây giăng dọc theo chiều dài dây giềng của lưới bửng
Dây giằng hômdây giằng tây: cùng một sợi dây mà phần giữa được nối với dây giềng của lưới bửng, còn hai đầu nối trên dây nạp cái của dây cốt hôm.
Dây khóa dọc: được kéo thẳng từ đầu mút lưới bửng đến bè neo dọc.
Dây khóa hôm: nối lưới hôm bằng cách nối với giềng đồi của lưới lưng.
Dây khóa sau: dây nối vành neo, có vai trò như dây giằng tây và dây giằng hôm.
Dây khóa trước: vừa giữ điểm cuối của lưới bửng vừa chống lại những dây giềng của lưới hôm.
Dây kình: dây nối giềng kình và giềng đồi.
Dây mồi: dùng để buộc phao và mỏ neo.
Dây muối: đóng vai trò trung gian khi người ta muốn buộc chung các dây lại.
Dây song gang: dùng để buộc đầu lưới gang vào mặt lưới, gồm 2 phần: phần đầu gọi là dây cốt gang dùng để cột vào hòn đá nơi gành, phần sau gọi là tay rượng chia làm 2 nhánh: một nhánh buộc vào đầu giềng đồi của lưới gang gọi là tay rượng đồi, một nhánh buộc vào đầu giềng chì gọi là tay rượng chì.
Dây xiềng xiềng: nối với dây cốt hôm qua một ròng rọc, từ đó chia ra 2 nhánh, một nhánh móc vào giềng đồi gọi là tua đồi, một nhánh móc vào giềng chì gọi là tua chì.
Dây xôm (còn gọi là dây làm lưới): dùng cột vào 2 dây chão lớn của các đầu dây tráng. Khi kéo lưới, một trong hai thuyền dùng dây xôm như dây chão để buộc mũi bè thích hợp.
Dinh Ông: lăng thờ Ông Nam Hải (cá Voi).
Dò nước: ông chèo dọc sau khi nghe người coi nước hô “Lui” thì quan sát dòng nước chảy mà đề ra phương án đánh bắt  thích hợp.
Dời: đơn vị tính cổ truyền, 1 dời = 20 sải.
Dúng: đơn vị tính cổ truyền, cứ 5 sợi loại dài 4 sải = 1 dúng.
Đ
Đại diện: người thay mặt nghiệp chủ quản lý sở đầm ngoài biển.
Đầm đăng: vị trí đặt lưới đăng. Qua theo dõi nhiều năm, ngư dân đã xác định được một số vị trí tương đối chính xác để đặt giàn lưới đăng đánh bắt cá hiệu quả. Vì thế, tuy bờ biển dài nhưng những nơi có thể làm đầm đăng rất ít, thời kỳ cao nhất toàn tỉnh Khánh Hòa chỉ có khoảng trên 30 sở đầm, trong đó nhiều nhất thuộc hải phận Nha Trang (13 đầm). Hiện nay, TP. Nha Trang chỉ còn 5 sở đầm hoạt động là Hòn Nọc, Sông Hồng, Hòn Xưởng, Thạch Dự và Lam Dự.
Đầm hải đông: tên gọi các ngư trường phân bố dọc ven bờ biển và các gành đảo trong tỉnh (ví dụ vùng biển từ Hòn Đỏ đến mũi Cù Hin thuộc TP. Nha Trang trước đây phân chia thành các hải đông Cù Lao, hải đông Xương Huân, hải đông Bích Đầm, hải đông Trường Đông, hải đông Trường Tây). Ngày xưa, ngư dân hành nghề trong các vùng biển này phải đóng thuế gọi là thuế hải đông, do ông xã lạch ở làng thu.
Đầm úc: vùng biển gần bờ, gần cửa sông, nước không sâu.
Đi bạn: đi làm công cho chủ nghề.
Đi khơi (còn gọi là đi kinh): đánh cá ở vùng biển nước sâu, xa bờ.
Đi lộng (còn gọi là đi ốp): đánh cá ở vùng biển gần bờ.
Đi phiên: chở cá từ sở đầm về bến bằng ghe phiên. Cá lưới đăng bán ra ở ghe phiên phần lớn là cá ngon, lại là cá “tươi dong”.
Đi tớiđi tráng đôngđi xây: 3 phương án đánh bắt chính của lưới đăng. Tùy theo hướng nước chảy, người chèo dọc sẽ quyết định phương án cụ thể cho từng giác lưới. Đi tới là cách thông thường khi không gặp nước chảy (nước êm). Đi xây khi dòng nước ngoài biển chảy vô. Đi tráng đông khi dòng nước từ trong gành chảy ra.
Đường neo: Lưới đăng sử dụng rất nhiều bộ neo để giằng giữ giàn lưới. Neo lại phải thả lài ra cho vững nên sử dụng rất nhiều dây chạc hoặc dây ny-lon lớn. Cứ khoảng 10m lưới thì đặt một mỏ neo và 50m là một đường neo. Có hai cách đặt đường neo là neo chiếc và neo đôi. Neo chiếc là một neo cố định bằng một dây. Đây là đường neo sử dụng ở những phần biên lưới nơi có độ căng rất lớn. Neo đôi là một neo cố định bằng hai dây.

G
Gạn: động tác vừa kéo lưới vừa thu hẹp vòng rọ.
Ghe lòi: thuyền nhỏ chở cá trên sông rạch hoặc vùng biển nước không sâu.
Giã cào: nghề biển sử dụng công cụ lưới hình ống, có cánh hai bên, dùng ghe kéo để đánh bắt cá và các loại hải sản khác ở tầng đáy. Ghe giã cào hành nghề vào những tháng biển động, hoạt động cả ngày lẫn đêm, giàn lưới thả sát đáy, miệng giã rà trên mặt bùn, càn quét tất cả các loại hải sản vào một đảy lưới thật dầy. Nghề giã cào thường hoạt động ở vùng biển có mực nước sâu từ 6 hoặc 7m trở ra, ở những vùng không có rạng lố, đáy biển chỉ toàn cát và bùn.
Giác lưới: một mẻ lưới đăng, gồm các công đoạn thả lưới, nhổ lưới, thu hoạch cá.
Giàn nghề lưới đăng: một giàn nghề lưới đăng gồm 6 tấm lưới (ganglưngrọtránghômbửng) kết vào nhau bố trí thành thế trận lừa cá vô rọ. Ngoài ra còn một giàn lưới rút để sẵn trên thuyền, khi cá đã vào rọ thì thả xuống thu hoạch.
Giềng chì: dây cạp chân lưới.
Giềng đồi: dây cạp phần trên cùng của lưới, gắn với chao lưới.
Giềng kình: phần ngoài cùng của cạp giềng.
Giềng miệng: phần giữa của cạp giềng.
Gió nam đò: gió tây nam từ vùng núi huyện Ninh Hòa thổi tạt ra biển.
Gió cây khô: trận bão khủng khiếp xảy ra vào ngày 25 tháng Giêng âm lịch năm Thìn (không rõ năm nào, nhưng cũng cách đây trên cả trăm năm) khiến 32 ngư dân quê ở Phường Mới (Bình Định) bị thiệt mạng tại một điạ điểm lưới đăng thuộc Hòn Xưởng ở Bích Đầm ngoài khơi biển Nha Trang.
H
Hai lòng nước: Lưới đăng phân biệt hai loại dòng chảy ở biển là nước mặt và nước đất.
Hèo: đơn vị đo lường trong nghề đăng (1 hèo = 1 sải = 1 thước ta = 1,7m).
Hòn chì: lưới đăng dùng những hòn đá lớn nhỏ khác nhau hoặc được đúc bằng xi-măng cốt sắt để cột vào dậu lưới, giữ cho lưới không bị hổng chân khi gặp sức nước chảy mạnh.
Hòn đồi (hoặc đòi theo âm địa phương): hòn đá lớn nhất, nặng nhất trong các hòn chì, dùng để buộc hai đầu lưới của giềng miệng.
Hôi cá: gỡ cá sót trong lưới và thừa dịp ăn cắp cá.
K
Kết gang: cột các dây đầu gang lưới vào hòn đá trên gành. Khi tiến hành việc này phải làm lễ cúng gà, chè, xôi... gọi là cúng kết gang.
Kết giải: cột giàn lưới bửng vào giàn lưới hôm và cột phần đồi của giàn lưới rút vào phần đồi của các giàn lưới rọ.
Khoá mũikhóa lái: dùng một sợi dây lớn bằng bắp tay kết hình số 8 tròng vào mũi thuyền hoặc móc vào đuôi thuyền đăng và thuyền neo để giữ cho hai thuyền này không bị tách ra.
Khoang: lòng thuyền đăng ngày xưa được chia thành nhiều khoang: khoang trấu, khoang phát, khoang tráng chì, khoang lòng, khoang lòng giác, khoang đốc, bồng nhì, bồng nhứt, ngăn với nhau bằng các đà dừng và then.
Kiện: đơn vị tính cổ truyền, cứ 100 dúng = 1 kiện (kiện dây).
L
Lái phiên: tài công điều khiển ghe phiên chở cá từ sở đầm về bến.
Làm mé làm gót: người nằm thuyền cột đầu lưới bửng vào lưới rọ bằng hai dây mé và hai dây gót.
Lầm: số đếm bằng 100 (lầm mây, lầm cá).
Lặn cá đóng: nghề phụ chuyên lặn gỡ cá đóng lưới, ăn chia 5/5 với chủ đầm.
Lòng cốt: lòng thuyền đăng được đóng ghép bằng nhiều miếng ván dài. Lòng cốt là miếng ván dài nhất ở giữa thuyền.
Lỗ Lường: tiếng gọi trại bộ phận sinh dục nữ. Trước đây, một vài sở lưới đăng ở Khánh Hòa có tục thờ cúng Lỗ Lường. Tại sở đầm Hòn Đỏ (Ninh Hòa) có một cái miễu nhỏ trong thờ một khe đá gọi là Lỗ Lường, bên cạnh có để một “bộ đồ” tạc bằng gỗ như “của thật”, sơn đỏ. Theo tục lệ cổ truyền, mỗi năm phường lưới đăng tới đây hành nghề đều phải cúng vái và tiến hành nghi thức cầm bộ đồ chọc ba lần vào khe đá để cầu được trúng mùa.
Lộng (hoặc lọng theo âm địa phương): vùng biển gần bờ.
Lút ống: khi dòng nước chảy quá mạnh nhấn chìm các bè phao.
Lưới bửng: loại lưới thưa, chiều dài khoảng 38 hèo (65m), giăng từ neo thứ 10 bên đăng chếch sang phía lưới hôm tạo thành một góc hình tam giác, có chừa một khoảng trống (cửa bửng) cho bầy cá vào rọ.
Lưới cản: nghề biển nhỏ, đánh bắt vào ban đêm khi các loại cá thu, cá bò… đi ở lưng chừng nước. Ngư dân thả lưới xuống cách mặt nước chừng bảy tám sải hoặc sâu hơn theo chiều nước chảy. Cá không thấy bóng lưới, đâm đầu vào rồi tự quấn mình vào lưới.
Lưới quát: nghề lưới quát giống lưới rùng nhưng giàn lưới lớn hơn, khi kéo lưới vào gần bờ, một người lặn tóm chân chì và tóm hai đầu lưới rồi kéo lên ghe chứ không kéo lên bãi như lưới rùng.
Lưới quây: nghề biển di chuyển khắp nơi, chuyên đánh các loại cá đi nổi trên mặt nước như cá Ngừ, cá Ồ, cá Chù, cá Chấm... Lưới quây là lưới đi tìm cá, khác với lưới đăng là loại lưới cố định, đóng tại những địa điểm cố định chờ cá đến.
Lưới rùng: nghề biển cổ truyền sử dụng giàn lưới hình ống có cánh hai bên, vây bắt cá kéo vào bờ.
Lưới rút: tấm lưới lớn có hình thang, dài khoảng 40 sải, rộng 40 sải, để sẵn trên thuyền. Khi cá đã vô rọ thì trên thuyền cho đóng lưới bửng và thả giàn lưới rút xuống để bắt.
M
Mành: loại nghề đánh cá biển dùng công cụ như chà rạo thả xuống biển tạo thành bóng râm hoặc ban đêm dùng ánh sáng đèn măng-sông, đèn điện để nhử cá tập trung lại rồi dắt chúng vào lưới, phổ biến nhất là các nghề mành đèn, mành chong pha xúc, mành mực, mành trủ. Đối tượng đánh bắt là các loài cá, mực thích theo bóng râm của rạng hoặc chà rạo, hoặc thích theo ánh sáng đèn như cá nục, cá cơm, cá chù, cá ồ, cá sơn đỏ, mực thẻ, mực đất, mực trũng... Mùa chính nghề mành từ tháng 3 đến tháng 7 âm lịch, mùa phụ từ tháng 8 đến tháng 9 âm lịch.
Mành chà: nghề biển cổ truyền, hoạt động ban ngày, đánh bắt các loại cá nhỏ như cá nục, cá cơm, cá sơn, cá thằn lằn, mực vv... Người ta thả chà bằng lá dừa kết lại thành nhiều bó to, để cá tụ dưới bóng lá. Cá luôn luôn đứng hóng mồi dưới dòng nước. Ngư dân thả lưới dưới dòng nước, ghe đậu trên hướng nước chảy, từ từ gạn giàn mành lên ngược giòng nước bao đàn cá. Hai đầu lưới vừa giáp cây chà, một người lội xuống nước, khuấy động đuổi cá chạy xuôi giòng nước chun vào đảy.
Mành chong (còn gọi là mành đèn): hoạt động ban đêm, đánh các loại cá nhỏ. Khi lưới đã thả xong, ngư dân chong đèn măng-sông hoặc đèn điện trên bè phao lớn thả trên mặt nước cho cá tụ dầy dưới ánh sáng, kéo bè đèn đến chỗ thả lưới, cá theo ánh sáng đi vào miệng mành. Các động tác thả lưới, đặt đèn, bơi thúng dắt đèn đều phải tuyệt đối nhẹ nhàng. Khi thúng dắt cá xuống được 1/4 giàn lưới thì bắt đầu kéo lưới.
Mành đăng: nghề biển cổ truyền tương tự lưới đăng nhưng là nghề nhỏ, có thể xê dịch và đánh cá ở những nơi nước không quá sâu. Thường thường ngư dân ghe mành hành nghề tại vùng hậu bối (sở phụ) của đầm đăng với điều kiện trả cho chủ đầm một số tiền trong suốt mùa cá.
: một trong hai kẽ lù (điểm nối) của giềng miệng (phần giữa của cạp giềng).
: đầu mút giềng đồi của lưới bửng.
Miễu Hội Đồng: ngôi miễu thờ chư vị Thần linh biển cả do ngư dân lập trên đảo gần chỗ đặt giàn lưới đăng.
Muôn: số đếm bằng 10.000.
N
Nạp cái: dây ny-lon lớn nối từ kết gang ra đến bè cái. Đây là sợi dây dài nhất và chịu lực mạnh nhất trong giàn lưới đăng. Một dây khác chạy song song để chia lực với nạp cái gọi là nạp con.
Neo: lưới đăng sử dụng rất nhiều loại neo. Ngoài 4 neo chính là neo cái, neo cổ, neo dọc, neo ngang, còn có 6 neo phụ là nhất rượng, nhì rượng (ở giữa lưới rọ), nhất tráng tây, nhì tráng tây, nhất hôm, nhì hôm (ở lưới hôm) và hàng chục neo lưng giữ giàn lưới lưng. Ngày xưa neo làm bằng gỗ, hiện nay phần nhiều làm bằng sắt đúc, có hình lưỡi cày.
Neo rạng lộng: loại neo này chỉ có một mỏ neo, dùng để thả vùng đáy biển có đá ở sát gành.
Ngà: tấm gỗ hình trăng khuyết sơn đỏ đóng ở mũi thuyền đăng.
Nghề bọt nước: chỉ nghề biển giã.
Ngọc cốt: bộ xương cá Voi (cá Ông), còn gọi là cốt Ông Nam Hải. Ngư dân một số tỉnh ven biển Trung bộ và Nam bộ hiện nay vẫn còn giữ tục thờ cúng cá Ông. Khi cá Ông “lỵ” (chết) ngoài biển, ngư dân đưa xác vào bờ, đăng lại để thịt rã hết rồi vớt xương cho vào hòm (quách) đem để trong Lăng để phụng thờ.
Nhà chồ: nhà cao cẳng như nhà sàn, dựng bằng tre, gỗ... trên bãi cát, mặt nước ven sông, biển.
Nhà đoàn: một gian nhà rộng do sở đăng cất, vừa làm nơi thờ cúng, vừa làm kho chứa tất cả dụng cụ làm nghề.
Nhổ lưới: kéo giàn lưới rút lên để thu hoạch.
Nhờ Ông Bà: lời nói cửa miệng của ngư dân địa phương mỗi khi được mùa cá.
Nhợ: cuộn sợi mấu để đan lưới đăng dài 20 sải.
Nước đất (còn gọi là nước dưới): dòng chảy dưới đáy biển.
Nước giữa: ngoài dòng chảy trên mặt biển và dưới đáy biển, thỉnh thoảng lại có dòng chảy thứ ba xuất hiện giữa hai dòng này.
Nước lừa: lúc sắp trở trời, nước ở đáy biển chuyển động mạnh làm cho nước trên mặt dao động bất thường.
Nước mặt: dòng chảy trên mặt biển.
Nước ra: nước từ trong gành chảy ra.
Nước vô: nước từ ngoài biển chảy vô.
O
Ông Nam Hải: Từ bao đời nay, người dân làm nghề biển giã rất sùng kính cá voi, coi đó là một vị thần tối cao luôn cứu giúp họ khi gặp hoạn nạn trên biển cả. Cá voi được dân gian gọi bằng nhiều danh xưng trân trọng như: Ông Khơi, Ông Lộng, Ông Sứa hoặc Ông Nam Hải, được các vua nhà Nguyễn sắc phong là Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân Thượng Đẳng Thần.
Ống: trước đây phao của lưới đăng làm bằng ống tre. Các phao cột vào các giàn lưới gang, lưng, rọ, hôm gọi chung là ống lưới đăng, các phao của giàn lưới tráng gọi là ống tráng, các phao của giàn lưới bửng gọi là ống lưới bửng. Các bè phao cũng được làm bằng ống tre kết lại, bè neo cái gồm khoảng 14 - 16 ống tre, bè neo dọc từ 10 - 12 ống tre.
P
Phái: gọi tắt từ phái bướm, là biên bản ghi số lượng cá thu hoạch được tại sở đầm, gởi theo ghe phiên mỗi chuyến chở cá về bến.
Phăn cá thu: nghề phụ, neo thuyền vào một giàn lưới quanh vòng rọ rồi cứ quăng câu phăn nhanh về để câu cá thu. Nghề phăn không phải ăn chia, chỉ cần xin phép đội trưởng, vì nó cũng giúp cho người chỉ huy biết trong rọ lưới có cá khi nước đục
Q
Qua lồ: như quá giang, chỉ người rảnh việc hoặc tình cờ đúng dịp  đi theo ghe để phụ kéo lưới, xong việc được thưởng công ít nhiều tùy theo kết quả của giác lưới (thường là một cặp cá tròn hay một con cá dài).
R
Rạn: vùng đá ngầm hoặc những ám tiêu san hô dưới biển, nơi sinh sống và kiếm ăn lý tưởng của rất nhiều loại cá (ở vùng biển Vạn Ninh có các địa danh Rạn Trào, Rạn Tướng)
Ráo lưới: ngày xưa lưới đăng đan bằng sợi dừa, sợi mấu nên rất nặng, thấm nước, mau mục. Vì thế mỗi tháng sở đầm nghỉ đánh cá một hai ngày để vá lưới và phơi lưới, gọi là ráo lưới.
Ráp xương quẹo: nghi thức ráp giàn lưới thưa với lưới tư ở một góc 90 độ, chỗ sẽ đặt neo cái (như hai đầu xương cánh tay ráp ở cùi chỏ). Ngư dân lưới đăng xem việc này rất hệ trọng đến kết quả đánh bắt trong mùa cá sắp đến nên làm lễ cúng gọi là cúng ráp xương quẹo, lễ vật có chè, xôi, gà..., tổ chức ngay trong thời gian ăn dọn.
Rau: tiếng nghề đăng gọi chung các loại cá. Khi bạn lưới ôm ống nổi lội xem cá trong rọ, trên thuyền hỏi: “Rau nhiều ít?” hoặc lúc được năng suất cao trong nhiều ngày, sở lưới đăng làm gỏi cá cúng thần linh gọi là cúng mừng rau.
Rổi: những người gánh cá đi bán dạo. 
Rổi bờ: những người mua bán cá trên bờ. Họ mua lại của các chủ tàu - thường là với số lượng nhỏ, các chủ nậu, vựa hoặc của những người rổi nước rồi đem bán lại. Những người đem  cá đi bán ở các chợ lân cận trong vùng gọi là rổi bán lẻ, những người chuyển cá đi bán ở các chợ nơi xa gọi là rổi đường dài.
Rổi nước: những người chèo thuyền ra xa cảng cá, đón các tàu đánh cá trở về mua cá của họ ngay trên biển đem về đất liền bán lại cho những người làm rổi bờ.
Rượn: kề bên neo cổ là 2 neo nhứt rượn, nhì rượn. Sở dĩ có tên như thế vì 2 neo này không bao giờ đứng yên mà cứ giựt lên, giựt xuống như heo nái rượn đực.
S
Sương lưới: ráp các tấm lưới theo chiều dài.
T
Tiền bối: người thuộc lớp trước, có công sáng lập nghề lưới đăng hoặc khai khẩn các sở đầm.
Thả neo dắt: Để giăng lưới từ gành ra khơi, cần phải kéo một sợi dây được cố định ngoài biển bằng một chiếc neo lớn nhất gọi là neo dắt. Độ dài của dây neo dắt tương ứng với chiều dài giàn lưới.
Thiên: số đếm bằng 1000.
Thu: gọi tắt từ cá thu, thuộc loài cá nổi di cư theo mùa, đối tượng khai thác chính của nghề lưới đăng. Cá thu có nhiều loại: thu ảo, thu chấm, thu ngàng, thu hủ, thu lộng, thu mùa..., nhiều kích cỡ: thiên cố đại, thị đại, dài kịch, dài đại, dài trung, dài hàng, dài tiểu.
Thuyền đăng (còn gọi là ghe đăng): loại thuyền lớn đặc dụng, đóng bằng gỗ tốt, chiều dài trung bình khoảng 18m, có trọng tải trên dưới 10 tấn, di chuyển bằng chèo, đậu ở vùng tiếp giáp giữa lưới lưng, lưới rọ và lưới bửng. Thuyền đăng chở lưới đăng và một nửa số thuyền viên. Thuyền đăng khác thuyền neo ở chỗ có gắn miếng gỗ sơn đỏ gọi là ngà ở mũi thuyền.
Thuyền neo (còn gọi là ghe neo): một trong hai thuyền đặc dụng của lưới đăng. Thuyền neo thường ngắn và nhỏ hơn một chút so với thuyền đăng, đậu ở vị trí tiếp giáp giữa lưới bửng và lưới hôm, trên thuyền chở toàn bộ neo và số thuyền viên còn lại.
Thuyền phiên (còn gọi là ghe phiên): loại thuyền có trọng tải vừa (trên dưới 5 tấn), xưa là thuyền buồm kết hợp với chèo, nay là thuyền máy để chạy cho nhanh, lo việc chuyên chở cá từ sở đầm về chợ để bán (mỗi ngày từ 2 đến 3 chuyến). Thuyền phiên có thể tự đóng, mua lại hoặc thuê vì đây không phải thuyền đặc dụng.
Thuyền thúng (còn gọi là thúng chai): phương tiện di chuyển cơ động trên biển, hình cái thúng, chu vi trên dưới 5m, đan bằng nan tre già trét dầu rái.
Trệt: các tấm lưới kết thành một giàn lưới đăng. Tùy theo vị trí của giàn lưới trên biển, người ta chia ra trệt gang, trệt lưng, trệt rọ, trệt tráng, trệt hôm.
Trệt hom (hoặc hôm theo âm địa phương): đoạn lưới giăng từ bè dọc về hướng đảo, dài khoảng 45 hèo (= 76,5m)
Trệt gang: đoạn đầu của giàn lưới đăng kết vào hòn đá trên gành, còn gọi là gang lưới.
Trệt lưng: đoạn lưới kéo từ chỗ kết gang ra đến thuyền đăng, dài từ 180 hèo đến 360 hèo (= 300 - 600m) tùy mùa đánh cá lên hay cá lại. Mục đích của lưới lưng là chặn đường bầy cá đang đi tới dọc theo gành đá, buộc chúng chuyển hướng vào rọ lưới đã đón sẵn.
Trệt rọ: đoạn lưới kéo từ thuyền đăng đến bè cái, dài khoảng 50 hèo (= 85m).
Trệt trán (hoặc tráng theo âm địa phương): đoạn lưới giăng từ bè cái đến bè dọc, dài khoảng 17 hèo (= 28m).
V
Vạn: làng chài dọc theo vịnh biển, cửa sông.
Vào giềng: nối giàn lưới với các dây giềng.
Vuốt nạp: nối nạp cái với dây giềng.
X
Xã lạch: người quản lý và thu thuế nghề biển ở mỗi thôn làng.
Xỏ lái: thanh gỗ làm sống đuôi thuyền.
Xỏ mũi: thanh gỗ làm sống mũi thuyền.
Xô lưới: thả lưới rút xuống.
Xôm: động tác tiến tới của thuyền đăng. Khi người coi nước hô “Lui” thì thuyền neo lui còn thuyền đăng đi tới cho giàn lưới bửng cong lại, nhập vào giàn lưới hôm.
Xuồng sai: loại xuồng chèo nhỏ, cơ động, dùng để di chuyển khi chỉnh neo, sửa nạp hoặc thông tin liên lạc tại đầm, có khi còn dùng để bạn nghề chèo vào làng đảo chơi vào ban đêm.

Nguyễn Man Nhiên
Ngày đăng: 21.03.2007