Showing posts with label kiêng kỵ. Show all posts
Showing posts with label kiêng kỵ. Show all posts

Saturday, 21 June 2014

Những địa danh Nam Bộ bị ảnh hưởng bởi tục kiêng húy (Lê Trung Hoa)

Những địa danh Nam Bộ bị ảnh hưởng bởi tục kiêng húy

E-mailPrint



1.Kiêng húy là một phong tục đã có từ lâu đời trong văn hoá Việt Nam cũng như Trung Quốc. Kiêng húy là tránh nhắc đến tên những người đã chết để, theo mê tín của người xưa, khỏi bị những điều không hay xảy đến. Những tên của thần linh, vua chúa, ông bà, các bậc trưởng thượng,…đều không nên nói đến.
2.Tục kiêng húy ảnh hưởng tới những những từ thường dùng trong ngôn ngữ hàng ngày, đến việc đặt tên con cái, đến các địa danh,…Ở Nam Bộ, tục này tác động đến hàng trăm địa danh.
Cai Bường là rạch ở xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Cai Bường vốn là Cai đồn điền Nguyễn Văn Bình, dưới thời Tự Đức, có công khẩn hoang, lập ấp ở vùng này. Vì kiêng huý tên tước khi làm vua của Quang Trung (Nguyễn Quang Bình), Bình được gọi là Bường [8].
Cầu Bông bắc qua rạch Thị Nghè, nối quận 1 với quận Bình Thạnh, tp. HCM, dài 56,7m, rộng 14,82m. Ban đầu gọi là cầu Cao Miên vì cầu ở cạnh khu vực người Cao Miên là Nặc Tha cư ngụ (từ năm 1736). Sau gọi là cầu Hoa vì cạnh vườn hoa của Tả quân Lê Văn Duyệt. Từ năm 1842, vì kiêng huý bà Hồ Thị Hoa (1791-1807), mẹ vua Thiệu Trị, đổi bằng từ đồng nghĩa, thành cầu Bông.
Ba Thê là kênh nối kinh Rạch Giá – Hà Tiên với sông Hậu ở tỉnh An Giang. Ba Thê còn là tên núi ở huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, cao 210m. Cũng gọi là núi Vọng Thê. Ba Thê có tên ban đầu là Hoa Thê. Cũng vì kiêng húy nên phải gọi Ba Thê [2]. Còn Thê gốc Khmer Tà Thner, nghĩa là “ông Thner” [9].
Bu Long là núi ở tỉnh Đồng Nai. Bửu Hòa là phường của tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.Phước Bửu là thị trấn của huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Âm gốc là Bảo Long,Bảo Hòa, Phước Bảo. Nhưng vì kiêng húy bà Nguyễn Thị Ngọc Bảo (vợ chúa Trịnh Kiểm) [6] nên phải nói chệch.
Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) là một danh tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, làm trấn thủ dinh Bình Khang (vùng Khánh Hòa và Bình Thuận), năm 1698 được cử làm Thống suất chưởng cơ binh lược vùng Gia Định (đồng bằng sông Cửu Long), có công tổ chức được các đơn vị hành chính, xây dựng chính quyền các dinh, huyện, xã và chiêu tập dân nghèo khai hoang, định cư lập làng xóm. Có lẽ ban đầu ông tên Nguyễn Hữu Kính, rồi vì kiêng húy vua Trần Duệ Tông [6], phải gọi Nguyễn Hữu Cảnh.
Bình Châu là khu du lịch ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, diện tích 112,93km2, có suối nước nóng (70-800C) và rừng bảo vệ thiên nhiên. Suối được một người Pháp phát hiện năm 1905, gọi là “suối nước nóng Cù Mi”. Địa danh Bình Châu ra đời năm 1921. Thổ Châu là quần đảo thuộc huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, diện tích độ 50km2, gồm 8 hòn đảo. Đảo Thổ Châu lớn nhất với diện tích 17,5km2. Trên đảo có nhiều núi, rừng, hang, động. Thổ Châu còn là xã của huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Thổ Châu là “màu đỏ của đất”.
Châu Thành là tên hơn mười huyện ở Nam Bộ. Châu thành vốn có nghĩa là “thành phố”. Những huyện nào  bao chung quanh một thị xã hay một thành phố  đều có thể mang tên Châu Thành. Phan Châu Trinh vốn là Phan Chu Trinh, tên đường ở tp. Hồ Chí Minh. Chu bị nói trại thành Châu vì  kiêng húy chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725).
Chơn Bà Đen là tên núi và tên xã của huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh ở thời điểm thập niên 1950. Người Khmer thờ một vị nữ thần gọi là “Mẹ đen” và họ cho rằng hòn núi này là bàn chân của bà. Chơn Thành là huyện của tỉnh Bình Phước, được thành lập tháng 2-2003, diện tích 414,6km2, dân số 53.300 người (2006). Chơn Thành còn là thị trấn của huyện, có dạng gốc là Chân Thành, là “hết sức thành thật, xuất phát tự đáy lòng”.
Sở dĩ Chân bị nói chệch thành Chơn vì kiêng húy vua Dục Đức: Nguyễn Phúc Ưng Chân.
Huỳnh Hữu Nghĩa là thị trấn của huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Họ Huỳnh có âm gốc là Hoàng. Nhưng vì kiêng húy chúa Nguyễn Hoàng (1524-1613), người có công khai sáng nhà Nguyễn ở Đàng Trong, nên phải nói là Huỳnh.
Lợi An là xã của huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Lợi Bình Nhơn là xã ở thị xã Tân An, tỉnh Long An. Bình Lợi là cầu ở tp. HCM. Phú Lợi là xã của huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Dạng ban đầu của Lợi là Lỵ. Vì kiêng húy vua Lê Lỵ phải gọi Lê Lợi, Lợi An,…
Phú Khương  là quận của tỉnh Tây Ninh, tách ra từ quận Châu Thành ngày 17-4-1959. Trụ sở huyện đóng tại Suối Đá. Ngày 13-3-1979, đổi tên huyện Phú Khương thành huyện Hòa Thành. Phú Khương còn là phường của thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Khương phải nói chệch thành Khang  vì kiêng húy Lê Khang (đời thứ hai dòng Lê Trừ) và Hiếu Khang hoàng đế (cha vua Gia Long) [6].
Yên Luông là xã của huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Hàm Luông là sông nhánh của sông Tiền, chảy qua giữa tỉnh Bến Tre và là tên cầu trên ql. 60, bắc qua sông Hàm Luông, tỉnh Bến Tre, khởi công tháng 4-2007, khánh thành ngày 24-4-2010. Cầu có tổng chiều dài gần 9km, trong đó cầu chính dài 1.200m. Tỉnh Vĩnh Long ở cuối thế kỷ 19 thường gọi là Vĩnh Luông. Âm gốc của Luông là Long, nhưng vì tên của vua Lê Thái Tông là Nguyên Long nên phải gọi là Luông.
Phước Kiển(glà xã của huyện Nhà Bè, tp. HCM. Phước Long là huyện của tỉnh Bình Phước.Kiểng Phước là xã của huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Long Phước là xã ở các huyện Bến Cầu (Tây Ninh), của huyện Long Hồ (Vĩnh Long), của huyện Long Thành (Đồng Nai),…Âm gốc của Kiểng là Cảnh. Nhưng để tránh xúc phạm đến tên vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh và Nguyễn Phúc Cảnh – con vua Gia Long), phải nói tránh.
AÂm gốc của Phước là Phúc. Nhưng tên đệm của các vua nhà Nguyễn là Phúc (NguyễnPhúc Ánh – Gia Long; Nguyễn Phúc Thì – Tự Đức) nên phải nói tránh.
Ngãi Đăng là xã của huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Ngãi Giao là thị trấn của huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngãi Hùng là xã của huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Ngãi Tứ là xã của huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. An Ngãi là xã của huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Đại Ngãi  xã của huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Mỹ Ngãi là xã của thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Tên tước và miếu hiệu của Nguyễn Phúc Thái (1648-1691) là Anh Tôn Hiếu Nghĩa nên Nghĩa phải gọi là Ngãi.
An Nhơn là xã của huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp và là xã của huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Lý Nhơn là xã của huyện Cần Giờ, tp. HCM.
Sa Nhiên là rạch ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Sa Nhiên có âm gốc là Sa Nhơn, tên thật của Nguyễn Văn Nhơn, tục danh là quan lớn Sen, vì ông giỏi nấu chè hạt sen dâng vua. Vì kiêng huý, Nhơn nói chệch thành Nhiên [8]. Có lẽ Sa là biến âm của Sen.
Vì tên tước của Nhân quận công Nguyễn Phúc Lan nên Nhân phải gọi sai lệch thành Nhơn và Nhiên.
Ở Thủ đô Hà Nội có phố Ngô Thì Nhậm. Ở tp. Hồ Chí Minh cũng có đường mang tên nhân vật lịch sử này nhưng lại gọiNgô Thời Nhiệm. Sở dĩ cùng một người nhưng có hai tên khác nhau vì ở miền Bắc không kiêng húy các vua nhà Nguyễn còn trong Nam thì có. Tên vua Tự Đức
là Hồng Nhậm, Nguyễn Phúc Thì.
Vĩnh Long là tỉnh ở Nam Bộ, được thành lập năm 1832, được đổi tên từ trấn Vĩnh Thanh, do kiêng húy tên lăng của Hiếu Minh hoàng hậu là Vĩnh Thanh lăng [7].
Tân Thiềng là xã của huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Âm gốc của Thiềng là Thành. Nhưng vì vua Lê Thánh Tông tên Tư Thành nên phải tránh [6].
Thới Bình là phường của quận Ninh Kiều, tp. Cần Thơ. Thới Quản là xã của huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; Thới Tam Thôn là xã của huyện Hóc Môn, tp. Hồ Chí Minh. An Thớilà xã của huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau và là thị trấn của  huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. An Thới còn là phường của quận Bình Thủy, tp. Cần Thơ. Bình Thới  là xã của huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
Âm gốc của Thới là Thái. Nhưng vì kiêng húy chúa Nguyễn Phúc Thái (1648-1691), phải đọc chệch.
          Thoại Giang là xã của huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Thoại Sơn vốn là tên núi cao 80 m. Tên cũ là núi Sập. Về sau trở thành tên huyện của tỉnh An Giang, diện tích 458,7km2, dân số 176.000 người (2006), gồm 3 thị trấn Núi Sập, Óc Eo, Phú Hoà và 13 xã. Thoại Sơn là “núi có lăng mộ Nguyễn Văn Thoại”. Thoại Hà là sông chảy từ sông Hậu ở tỉnh An Giang đến sông Song Khê, trước cây cối um tùm, lòng sông bùn lầy, ghe thuyền không đi lại được. Năm 1818, được Nguyễn Văn Thoại (1761-1829) chỉ huy nạo vét sâu, ghe thuyền đi lại dễ dàng. Cũng gọi là Ba Rạch, Ba Lạch, Núi Sập hay kinh Rạch Giá-Long Xuyên.
 Tên gốc của Nguyễn Văn Thoại là Thụy. Vì kiêng húy Thụy Quốc Công (tên tước của Nguyễn Phước Nguyên: 1563-1635) và Vĩnh Thụy (tên tước khi làm vua của Bảo Đại) nên phải gọi chệch.
Ở Hà Nội có các tên đường Tông Đản, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông. Ở thành phố Hồ Chí Minh cũng có các tên đường này nhưng viết Tôn Đản, Trần Nhân Tôn, Lê Thánh Tôn. Âm gốc của các tên đường  này là Tông, nhưng vì kiêng húy Miên Tông (vua Thiệu Trị: 1807-1847) nên phải đọc và viết chệch.
Từ Vinh có tự dạng chữ Hán giống từ Tông, tên kiêng húy của vua Thiệu Trị nên phải gọi và viết Vang. Các xã Phú Vang,  Vang Quới Đông, Vang Quới Tây của huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre ở trong trường hợp này.
Ở tp. HCM có các đường Võ Trường Toản, Võ Duy Ninh, Võ Văn Tần,…Vì kiêng húy vua Lê Huyền Tông (Duy  ) nên họ Vũ của các nhân vật trên phải gọi là Võ.
3. Để khỏi phạm húy, người xưa có ba cách xử lý tên huý:
3.1. Nói chệch đicó 3 kiểu:
a. Giữ âm đầu và thanh: Chu (chúa Nguyễn Phúc Chu) thành châu (châu thành), Cảnh (Trần Cảnh, hoàng tử Cảnh) thành kiểng (chậu kiểng), Hoa (quí phi Hồ Thị Hoa) thành huê (Huê Kỳ), Hồng (Hồng Nhậm, tức vua Tự Đức) thành hường (hoa hường).
Kiểu này phổ biến nhất.
b. Giữ vần và thanh:
Hoa (Hồ Thị Hoa) thành ba (tài ba, chợ Đông Ba, Huế).
c. Giữ âm đầu và vần:
Thanh Hoa sửa thành tỉnh Thanh Hoá. Võ Giang kiêng húy chúa Trịnh Giang thành Võ Giàng [2].
Hai kiểu sau ít được dùng hơn.
3.2. Thay thế bằng từ đồng nghĩa:
Cầu Hoa (Bình Thạnh, tp.HCM) thành cầu Bông. Chợ Hàng Hoa (tp. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) thành chợ Hàng Bông.
Hằng (Từ dũ Phạm Thị Hằng) thành thường (thường ngày, Thường Nga). Thanh Đàm(“đầm trong”) kiêng húy vua Lê Thế Tông) sửa thành Thanh Trì (“ao trong”) [3].
3.3. Thay bằng một từ khác cũng có ý nghĩa tốt đẹp:
Huyện Mộ Hoa thành huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi).
Hai cách 2 và 3 ít phổ biến hơn cách 1. Khi viết chữ huý, phải bớt nét.
Lệ kiêng huý xuất hiện từ đời Tống (960-1279) ở Trung Quốc. Còn ở Việt Nam, tục lệ này xuất hiện từ đời Trần (1225-1400) [5].
4. Sau Cách mạng Tháng Tám, tục lệ này bị bãi bỏ ở các vùng kháng chiến và ở miền Bắc sau năm 1955. Còn ở miền Nam vẫn tiếp tục duy trì. Hơn nữa, tục này đã xâm nhập vào tiếng nói hằng ngày của mọi người nên một cách vô thức, chúng ta gián tiếp “bảo vệ” nó.

                                      TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Danh mục các đơn vị hành chính Việt NamHN, Nxb Thồng kê, 2008.
2.Đặng Hoàng Thám, Núi Cây Đao, kỳ bí trên Hoa Thê Sơn, Kiến thức ngày nay, số 695, ngày 1 – 12- 1909, 79, 80, 85.
3.Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2002.
4.Lê Hồng Chương, Từ điển đơn vị hành chính Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, HN, 2007.
5.Lê Trung Hoa, Cửa sổ tri thức, tập 1, Nxb Trẻ, 2005.
6.Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb Văn hóa, HN, 1997.
7.Nguyễn Duy Oanh, Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (1757-1945), Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Sài Gòn.
8.Nguyễn Thị Ngọc Bích, Khía cạnh năn hoá của địa danh ở tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ, Văn hóa học, Trường ĐHKHXH-NV, tp. HCM, 2008.
9.Trương Vĩnh Ký, x. Lê Hương, Người Việt gốc Miên, tr. 253 – 264. Thái Văn Chải dịch các địa danh gốc Khmer trong sách này.

Monday, 2 July 2012

Lại “kiêng húy”! (Cao Tự Thanh)

Lại “kiêng húy”!


Tiên sinh cho em hỏi là chữ Châu – Chu ở tiếng Hán là hai chữ khác nhau mà sao tiếng Việt dùng khi thì Chu khi thì Châu lộn tùng phèo. Em biết là ngày xưa kỵ húy nên đọc trại đi. Riết rồi người ta quen nên thành phương ngữ luôn, giống như Huỳnh – Hoàng, Võ – Vũ, Nghĩa – Ngãi… Nhưng chữ Châu – Chu lại không phải như vậy?

Mới ra Sài Gòn về thì thấy cái này chỗ quick comment, vừa bực mình vừa buồn cười nhưng vì đã hơi say nên chưa tiện trả lời. Trước hết cứ coppy lại cái entry a02 để người hỏi xem đã, rồi sẽ nói rõ vụ Châu – Chu.
_____

Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… với vấn đề “kiêng húy”
 
Trước nay, không ít người vẫn coi hiện tượng các từ Việt Hán có hai âm đọc song vẫn không thay đổi ý nghĩa từ vựng và chức năng ngữ pháp như Hoàng – Huỳnh, Phúc – Phước, Vũ – Võ… là kết quả của việc kiêng húy các vua chúa phong kiến. Đáng tiếc là đến nay quan niệm sai lầm ấy vẫn được nhiều trí thức trong đó có cả một số nhà ngôn ngữ học chính thức thừa nhận và công khai phổ biến. Cho nên cần phải có một sự đính chính trước khi người ta kéo nhau đi tìm tên vợ con và bà con nội ngoại của các vua chúa để giải thích bằng được và bằng hết những Cương – Cang, Cảnh – Kiểng, Chính – Chánh hay Uy – Oai, Tiến – Tấn, Tùng – Tòng…
Nếu thống kê chi tiết toàn bộ những An – Yên, Bách – Bá, Càn – Kiền, Chân – Chơn, Dũng – Dõng, Đương – Đang, Giới – Giái, Hợp – Hiệp, Khỉ – Khởi, Lã – Lữ, Mệnh – Mạng, Nhật – Nhựt, Trường – Tràng, Thịnh – Thạnh, Súy – Soái, Vũ – Võ…, thì con số các từ Việt Hán bị đọc chệch âm nói trên sẽ vượt xa tất cả đồng thời chẳng có gì ăn khớp với những cái tên vua chúa Việt Nam (chẳng hạn gần đây có người cho rằng vì kiêng húy các chúa Trịnh Tùng, Trịnh Cương nên dân Việt ở miền Bắc đọc Tùng, Cương ra Tòng, Cang như tam tòng, tam cang (1), song người ta không hiểu vì sao hai ông chúa ấy lại cứ để yên cho thiên hạ lếu láo đọc tên Trịnh Kiểm là Kiểm không có chút gì là kiêng húy…). Thứ nữa, quan sát địa bàn phân bố của các cặp âm bị đọc chệch ấy qua chứng cứ lịch sử là các địa danh Việt Nam, có thể thấy rằng phần lớn những Phúc Yên, Vĩnh Phúc, Thái Lai, Nghĩa Xá là ở miền Bắc còn Phước An, Bình Phước, Tân Thới, Quảng Ngãi là ở miền Nam, điều này cho thấy đây là sản phẩm của một tiến trình lịch sử. Sau cùng, sự chệch âm ở nhiều cặp vần loại Chính – Chánh, Đỉnh – Đảnh, Lĩnh – Lãnh, Sinh – Sanh (Anh = Inh), Du – Do, Phù – Phò, Vũ – Võ (O = U) hay Uy – Oai, Súy – Soái, Thụy – Thoại (Oai = Uy)… lại mang tính hệ thống khác hẳn việc kiêng húy vài ba cái tên vua chúa lẻ tẻ, tình hình này chỉ có thể là kết quả của các quy luật ngữ âm. Tóm lại, hiện tượng đọc chệch hay nói chính xác là chuyển âm nói trên không thuộc về phạm trù sở thích tự trọng lố lăng của các vua chúa ngày trước và nhiệt tình tôn quân lạc lõng của các nhà Kiêng Húy học hiện đại, mà là một vấn đề ngôn ngữ học trên hai phương diện phương ngữ và ngữ âm.
Thời Bắc thuộc, dân Việt học chữ Hán như một sinh ngữ, nghĩa là phải đọc đúng theo cách phát âm (âm chuẩn) đương đại ở Trung Hoa. Nhưng từ khi nước ta giành được độc lập thế kỷ X trở đi, cách đọc ấy đã bị tách rời với những thay đổi ngữ âm ở Trung Quốc. Cái ranh giới Việt Hán – Hoa Hán trên lãnh vực này dần dần xuất hiện và định hình: về cơ bản người Việt vẫn bảo lưu cách đọc thời Đường (Đường âm) trong khi qua các thời Tống Nguyên Minh Thanh người Trung Quốc đã lần lượt trải qua nhiều cách đọc khác. Chẳng hạn vào khoảng cuối Minh đầu Thanh, ngôn ngữ Trung Quốc đã bắt đầu mất phụ âm đầu D khiến Dân (nhân dân), Diểu (xa) chuyển thành Mín, Miểu hay hiện nay thì nó đã hoàn toàn mất phụ âm đầu Đ để Đả (đánh), Đông (phía đông) trở thành Tả, Tung đẩy một bộ phận lớn những Tiểu (nhỏ), Tịch (chiều tối) qua dãy phụ âm đầu X như Xẻo, Xi song người Việt vẫn đọc là Dân, Diểu, Đả, Đông, Tiểu, Tịch… như thường. Cố nhiên sự thay đổi nói trên không diễn ra một cách đồng bộ và thống nhất ở Trung Quốc, chẳng hạn khi tiếng Bắc Kinh – Quan thoại hiện nay đã mất hẳn phụ âm cuối -m để Điểm tâm (Ăn sáng) chuyển thành Tẻn xin, thì người Quảng Đông vẫn nói là Tỉm xắm, hay họ nói Tài xỉu (Đại tiểu = lớn nhỏ) chứ không phải là Ta xẻo, tóm lại có thể tìm thấy vô số khác biệt tương tự giữa tiếng Bắc Kinh – Quan thoại với các phương ngữ ở Hải Nam, Quảng Đông, Phước Kiến, Triều Châu mà ở đây tạm gọi là nhóm phương ngữ Hoa Nam. Và nếu nhớ lại tình hình chia cắt đất nước thế kỷ XVII-XVIII đã làm tiếng Việt ở Đàng Trong – Đàng Ngoài phát triển khác nhau một cách đáng kể, nếu nhớ lại thực tế đa dân tộc ở thương cảng Hội An đã làm hình thành ở đây một thứ ngôn ngữ lai pha trộn cả tiếng Việt lẫn các phương ngữ Hoa Nam (2), nếu nhớ lại sự kiện nhóm di thần phản Thanh phục Minh Hoa Nam do Trần Thượng Xuyên, Dương Ngạn Địch cầm đầu tới tỵ nạn chính trị được cho vào khai phá Biên Hòa, Mỹ Tho cuối thế kỷ XVII, nếu nhớ lại việc Tao đàn Chiêu Anh Các ở Hà Tiên thu hút nhiều văn nhân Hoa Nam tới ngâm vịnh xướng họa đầu thế kỷ XVIII…, người ta sẽ thấy ở đây một đợt tiếp xúc ngôn ngữ Việt Hoa có quy mô và phạm vi rộng lớn, có thể nói là quan trọng bậc nhất sau khi người Việt giành được độc lập thế kỷ X. Đây mới thực sự là lý do làm phát sinh hệ thống những Huỳnh, Phước, Võ… trong cách đọc Việt Hán ở Đàng Trong mà đặc biệt là trên địa bàn từ Quảng Nam tới Nam Bộ, cách đọc chịu ảnh hưởng Minh âm, Thanh âm qua trung gian là nhóm phương ngữ Hoa Nam. Quá trình tiếp thu, cải biến, chấp nhận… những cách đọc mới này của người Việt nhìn chung rất phức tạp, vì từ thế kỷ XIX trở đi thì việc đất nước được thống nhất trở lại đã xóa bỏ đi phần nào những khác biệt ngôn ngữ trước đó, mặt khác ngay trong nhóm phương ngữ Hoa Nam cũng có những khác biệt dẫn tới sự đấu tranh với nhau đ
ể giành ảnh hưởng một cách tự phát trên địa bàn nói trên. Tuy nhiên, cần nhấn mạnh rằng trong đợt tiếp xúc ngôn ngữ này người Việt hoàn toàn bình đẳng về chính trị và văn hóa với Trung Hoa, nên ngoại trừ một vài trường hợp cá biệt, toàn bộ sự chuyển âm nói trên chỉ diễn ra trong khuôn khổ ngữ âm vốn có của các từ Việt Hán. Chẳng hạn hệ thống phụ âm đầu Việt Hán vẫn được giữ vững, nó đẩy những Mín, Miểu, Tả, Tung, Xỉu, Xi trở lại mảng từ Hoa Hán du nhập theo con đường khẩu ngữ, và ngay mảng từ ấy cũng phải Việt hóa theo ngữ pháp Việt như nhỏ xíu (Xíu = Tiểu = nhỏ), đồ xịn (Xịn = Tân = mới) mới bước được vào ngôn ngữ Việt Nam ở địa phương.
Điều đáng phàn nàn là nhiều trong các trí thức coi Huỳnh, Phước, Võ… là “kiêng húy” hiện nay đã không biết chữ Hán mà lại không chịu tìm hiểu cả lịch sử việc kiêng húy nên cứ suy diễn rồi phát ngôn không cần địa chỉ nếu không nói là vô trách nhiệm! Thứ nhất, Hán tự có nhiều chữ hoàng, phúc, vũ… và không phải chữ nào cũng chuyển âm thành huỳnh, phước, võ…, chẳng hạn không ai nói kinh hoàng, thần Thành hoàng thành kinh huỳnh, thần Thành huỳnh cả, mà chữ bị đọc chệch âm ra huỳnh (họ Huỳnh) là chữ hoàng (vàng) lại không phải là tên Nguyễn Hoàng – tên ông Thái tổ của nhà Nguyễn này là hoàng (vàng) + chấm thủy. Thứ hai, đã gọi là húy vua chúa thì dân đen có thể vì muốn làm giặc nên không thèm kiêng, chứ quan lại hay đám kẻ sĩ toan làm quan lại thì nhất định phải kiêng cho sáng đạo cương thường, thế nhưng đầu thế kỷ XVIII Đô đốc Hà Tiên Mạc Thiên Tích vẫn hiên ngang đặt tên con trưởng của mình là Mạc Tử Hoàng với chữ hoàng (vàng) + chấm thủy hiện vẫn còn trên bia mộ Mạc Tử Hoàng ở núi Lăng, Hà Tiên: rõ ràng dân Việt Nam ở Đàng Trong thế kỷ XVII – XVIII chẳng phải kiêng húy tên vua chúa nào cả. Thứ ba, đã gọi là chữ húy thì hoặc là không được dùng, tức không được viết ra (đối với chữ trọng húy) hoặc là phải viết thêm nét bớt nét đổi nét, thế nhưng mấy trăm năm nay dân Việt ở miền Nam vẫn viết Hoàng, Phúc, Vũ… như người miền Bắc hay người Trung Hoa, Nhật Bản, Triều Tiên và viết khắp nơi, vậy việc họ đọc chúng là Huỳnh, Phước, Võ… chỉ là vấn đề ngữ âm. Thứ tư, là triều nào húy nấy, chẳng hạn anh em Thái Đức – Quang Trung không hơi đâu kiêng húy các chúa Nguyễn còn cha con Gia Long – Minh Mạng chẳng ngu gì kiêng húy các vua Lê chúa Trịnh, nếu thần dân nào cứng cổ kiêng húy không hợp thời thì giữ cho còn nguyên được đầu cũng đã khó chứ đừng nói tới chuyện rủ rê quần chúng cùng kiêng. Thứ năm, đã gọi là “quốc húy” thì phải có thông báo bằng văn bản cụ thể theo đúng thủ tục hành chính và có hiệu lực pháp lý hẳn hoi cho dân biết dân làm, không phải chuyện bí mật quốc gia hay hoạt động bí mật để thông báo nội bộ hay rỉ tai nhau trong giới quan lại mà kiêng húy. Và riêng dân Nam Bộ thì đến 1861 có nhận được chỉ dụ cuối cùng của Tự Đức phổ biến về 47 chữ “quốc húy” (từ 1862 – 1867 Nam Kỳ đã bị Pháp chiếm làm thuộc địa rồi), trong đó có 20 chữ đã được Minh Mạng thông báo trong chỉ dụ kiêng húy vào loại đầu tiên của triều Nguyễn năm 1825. Ai muốn biết rõ về 47 chữ ấy xin cứ tìm bộ Đại Nam Thực lục của Quốc sử quán triều Nguyễn mà đọc, xem có những Hoàng (vàng), Phúc, Vũ, Cảnh, Cương, Chính… và hàng trăm chữ khác mà các nhà Kiêng Húy học trước nay vẫn gán bừa cho tổ tiên ta không.
Đi tìm lai lịch cụ thể của từng âm Việt Hán đọc chệch so với Đường âm là một công việc phức tạp, nếu chưa định hướng được thì đừng nên thao tác. Chẳng hạn nhiều người Nam Bộ trước đây vẫn đọc Hớn Cao tổ, Hớn Sở tranh hùng chứ không đọc là Hán Cao tổ, Hán Sở tranh hùng, mà việc chuyển An – Ơn như San – Sơn, Đàn – Đờn thì lại chưa đủ để coi là có hệ thống. Nhưng vì ngữ âm Nam Bộ vẫn nhất hóa cặp phụ âm cuối -n, -t vào với cặp -ng, -c (như ran rát nói là rang rác) – với lối phát âm ấy mà đọc phò Hán, hảo hán thì nghe kỳ quá nên người ta phải chuyển âm để kiêng một sự húy trong đời thường đấy, các học giả thích kiêng húy vua chúa đừng đi tìm ở cái “quốc húy” nào đó trong cung đình cho mất công!
Tháng 11. 1993

(1) Xem Phan Trọng Hiền, Tên húy và việc phạm húy, báo Phụ nữ Thànn phố Hồ Chí Minh số ra ngày 20. 11. 1993. Tuy nhiên đây rõ ràng là một sự suy diễn khiên cưỡng, vô căn cứ và rất tùy tiện. Thứ nhất, hiện tượng đọc chệch Tùng, Cương ra Tòng, Cang kia chủ yếu xảy ra ở miền Nam chứ không phải ở miền Bắc. Thứ hai, chẳng có bằng chứng lịch sử dù là gián tiếp hay nhỏ mọn nào cho phép nghĩ rằng vào thế kỷ XVI – XVIII thần dân của triều Lê trung hưng bị bắt buộc phải kiêng húy các chúa Trịnh: ngay cả các bộ chính sử được biên soạn bởi các sử thần của Lê Trịnh cũng viết thẳng tên các chúa Trịnh từ Trịnh Kiểm trở đi, chứ chẳng hề tỏ ra tôn kính đặc biệt gì các chữ ấy trên văn bản cả. Thứ ba, tác giả của phát hiện độc đáo nói trên dường như không biết cả chữ Hán lẫn quy ước trong gia tộc họ Trịnh, nên đã đánh đồng tên Trịnh Tùng với Tòng trong tam tòng và tên Trịnh Cương vớiCang trong tam cang, chứ thật ra tên hai ông chúa này được viết với bộ mộc. Nếu đọc Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim, người ta sẽ thấy ngay tất cả các chúa Trịnh đều có tên viết với bộ mộc và tất cả các chúa Nguyễn đều có tên viết với bộchấm thủy. (2) Xem thêm Hoàng Thị Châu, bài trong Đô thị cổ Hội An, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1991, tr
. 161 – 166
_____

朱珠周洲舟

Trong Hán tự có cả chục chữ có âm đọc là chu – châu, ở đây chỉ nói về vài chữ thường đọc là châu nhất ở Việt Nam. Năm chữ nói trên theo thứ tự là chu (màu đỏ) bị đọc chệch như châu bản, chu (ngọc) bị đọc chệch như châu báu, chu (chung quanh) đọc là châu như châu vi, Châu Thành, chu (cù lao, bãi đất) đọc là châu như châu thổ, Á Châu và chu (thuyền) đọc là châu như châu tiếp (thuyền và mái chèo).

Tất cả những từ (chữ) có thanh bằng trong chữ Hán ở Trung Quốc được chia xếp vào ba mươi bộ vần Bình thanh, 15 bộ Thượng bình thanh, 15 bộ Hạ bình thanh.Chữ chu 1, chu 2 thuộc vần Thất ngu, phải đọc là chu, chu 3 và chu 4, chu 5 thuộc vần Thập nhất vưu, phải đọc là châu/chưu. Cơ chế lẫn lộn ở đây rất phức tạp, nhưng đại thể có thể nói thế này:

1. Nếu lấy độ tròn môi làm tiêu chí, thì khi phát âm những âm như thu, xu, vu chúng ta tròn môi nhiều nhất, kế tới những âm như âu, lâu, ngâu, sau cùng là những âm như lưu, mưu, sưu. Tức là những âm loại âu lâu ngâu nằm giữa, có thể bị lệch về hai phía, và ngược lại, các âm u, ưu đều rất dễ bị đồng hóa thành âu. Nhưng trong phương ngữ Bắc thì cũng chỉ đến thế, chứ gần như không có chuyện ưu thành u hay ngược lại, ví dụ Ngưu lang có thể thành Ngâu lang nhưng không thể thành Ngu lang, Chu bản có thể thành Châu bản chứ không thể thành Chưu bản.
2. Tuy nhiên sự khác biệt trong phát âm theo phương ngữ lại góp phần làm phức tạp thêm sự lẫn lộn nói trên. Ví dụ phương ngữ Bắc có khuynh hướng bảo lưu tiếp hợp chặt nên hay kéo ưu thành iêu như mưu mô thành miêu mô, bảo lưu thành bảo liêu, còn phương ngữ Nam có khuynh hướng giải tiếp hợp chặt thì hay giản hóa thành mu mô, bảo lu (nói rộng ra thì những hiện tượng con hu – hươu, uống rụ – rượu trong phương ngữ Nam cũng chính là sản phẩm của khuynh hướng phát âm này).
3. Một yếu tố khác không thể bỏ qua là thói quen. Ví dụ từ Việt Hán không có vần im, mảng từ thuần Việt mới có vần này, nhưng chúng ta vẫn quen đọc Kim mộc thủy hỏa thổ chứ không đọc là câm mộc… Chính yếu tố xã hội này đã khiến các trí thức biết chữ Hán phải bất lực trước nhiều sai lầm của số đông trong việc phát âm và thậm chí cả sử dụng các từ Việt Hán từ xưa đến nay.
4. Đã nói tới thói quen thì cũng không thể loại trừ yếu tố ngẫu nhiên. Ai họcLuận ngữ cũng biết câu Khổng Tử than thở “Ta chưa thấy ai hiếu đức như hiếu sắc”, chữ hiếu này viết với mã chữ Hán là hảo (đẹp), nhưng khi dùng làm động từ (lấy làm đẹp, ưa thích) thì đọc là hiếu (phương ngữ Nam còn đọc là háo), xưa nay ai học Luận ngữ cũng đọc như thế cả. Tương tự, tiêu dao có khi đọc là tiêu diêu, mà ao và iêu có bộ vị phát âm xa nhau chứ không gần như u – âu – ưu, nên không thể loại trừ khả năng trong từ Việt Hán cũng như thuần Việt vẫn tồn tại những âm đọc cổ xưa ngẫu nhiên còn rơi rớt lại mặc dù tuyệt đại đa số những âm cùng hệ thống đã thay đổi. Các trường hợp như nguyệt (tháng) đọc là ngoạt, thuyết (nói) đọc là thốt, hoàn (viên), hoàn (trở lại) đọc là hườn hay huờn chính thuộc loại này.
5. Tên chúa Nguyễn Phước Châu là chữ châu 3 có thêm bộ chấm thủy, chữ nảy ít thấy trong các từ điển từ thư Trung Quốc, không rõ phiên âm thế nào, nhưng có lẽ âm chính là châu và bị nhà Nguyễn coi là chữ trọng húy nên phải đọc chệch thành chu, vì thế nên làm “liên lụy” tới cả chữ châu 3 có tự hình gần giống.
_____
Nói thêm về bộ vần (vận bộ). Các từ điển Hoa Hán sau 1949 gần như hoàn toàn không đề cập tới vấn đề này, các tác giả từ điển Hán Việt ở Việt Nam từ Đào Duy Anh trở đi cũng thế, nên trong nhiều trường hợp không giúp được người đọc phân biệt chính xác đâu là chính âm và đâu là biến âm của một chữ. Ví dụ chu 1 và chu 2 thuộc vần Thất ngu thì chính âm là chu, đọc châu là biến âm, nhưng ngày xưa đi thi làm thơ nếu đề ra buộc phải làm với bộ vần Thập nhất vưu mà gieo vần bằng những chữ này là lạc vận, thơ có hay cũng bị đánh rớt.
Trước cũng nghĩ tới khả năng chệch âm kiểu thọ – thụ là theo bộ vần, vì thụ (cây) có khi đọc là thọ, nhưng thọ (sống lâu) không bao giờ đọc là thụ, vì hai chữ này thuộc hai bộ vần khác nhau. Có điều khảo sát sâu hơn thì lại không chỉ như thế, vì bảo trong bảo vệ và bảo trong bảo vật cùng vần hạo, nhưng bảo trong bảo vật có khi đọc là bửu, như bửu bối bửu kiếm vân vân, chứ không ai đọc bửu vệ bửu trì cả. Cho nên đành phải tính thêm yếu tố thói quen, mà yếu tố này có khi bắt đầu từ sự ngẫu nhiên…
Đúng là bể học không có bờ!


Tháng 12. 2008