Những địa danh Nam Bộ bị ảnh hưởng bởi tục kiêng húy
1.Kiêng húy là một phong tục đã có từ lâu đời trong văn hoá Việt Nam cũng như Trung Quốc. Kiêng húy là tránh nhắc đến tên những người đã chết để, theo mê tín của người xưa, khỏi bị những điều không hay xảy đến. Những tên của thần linh, vua chúa, ông bà, các bậc trưởng thượng,…đều không nên nói đến.
2.Tục kiêng húy ảnh hưởng tới những những từ thường dùng trong ngôn ngữ hàng ngày, đến việc đặt tên con cái, đến các địa danh,…Ở Nam Bộ, tục này tác động đến hàng trăm địa danh.
Cai Bường là rạch ở xã Vĩnh Thạnh, huyện Lấp Vò, tỉnh Đồng Tháp. Cai Bường vốn là Cai đồn điền Nguyễn Văn Bình, dưới thời Tự Đức, có công khẩn hoang, lập ấp ở vùng này. Vì kiêng huý tên tước khi làm vua của Quang Trung (Nguyễn Quang Bình), Bình được gọi là Bường [8].
Cầu Bông bắc qua rạch Thị Nghè, nối quận 1 với quận Bình Thạnh, tp. HCM, dài 56,7m, rộng 14,82m. Ban đầu gọi là cầu Cao Miên vì cầu ở cạnh khu vực người Cao Miên là Nặc Tha cư ngụ (từ năm 1736). Sau gọi là cầu Hoa vì cạnh vườn hoa của Tả quân Lê Văn Duyệt. Từ năm 1842, vì kiêng huý bà Hồ Thị Hoa (1791-1807), mẹ vua Thiệu Trị, đổi bằng từ đồng nghĩa, thành cầu Bông.
Ba Thê là kênh nối kinh Rạch Giá – Hà Tiên với sông Hậu ở tỉnh An Giang. Ba Thê còn là tên núi ở huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang, cao 210m. Cũng gọi là núi Vọng Thê. Ba Thê có tên ban đầu là Hoa Thê. Cũng vì kiêng húy nên phải gọi Ba Thê [2]. Còn Thê gốc Khmer Tà Thner, nghĩa là “ông Thner” [9].
Bửu Long là núi ở tỉnh Đồng Nai. Bửu Hòa là phường của tp. Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai.Phước Bửu là thị trấn của huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Âm gốc là Bảo Long,Bảo Hòa, Phước Bảo. Nhưng vì kiêng húy bà Nguyễn Thị Ngọc Bảo (vợ chúa Trịnh Kiểm) [6] nên phải nói chệch.
Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) là một danh tướng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong, làm trấn thủ dinh Bình Khang (vùng Khánh Hòa và Bình Thuận), năm 1698 được cử làm Thống suất chưởng cơ binh lược vùng Gia Định (đồng bằng sông Cửu Long), có công tổ chức được các đơn vị hành chính, xây dựng chính quyền các dinh, huyện, xã và chiêu tập dân nghèo khai hoang, định cư lập làng xóm. Có lẽ ban đầu ông tên Nguyễn Hữu Kính, rồi vì kiêng húy vua Trần Duệ Tông [6], phải gọi Nguyễn Hữu Cảnh.
Bình Châu là khu du lịch ở huyện Xuyên Mộc, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu, diện tích 112,93km2, có suối nước nóng (70-800C) và rừng bảo vệ thiên nhiên. Suối được một người Pháp phát hiện năm 1905, gọi là “suối nước nóng Cù Mi”. Địa danh Bình Châu ra đời năm 1921. Thổ Châu là quần đảo thuộc huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang, diện tích độ 50km2, gồm 8 hòn đảo. Đảo Thổ Châu lớn nhất với diện tích 17,5km2. Trên đảo có nhiều núi, rừng, hang, động. Thổ Châu còn là xã của huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. Thổ Châu là “màu đỏ của đất”.
Châu Thành là tên hơn mười huyện ở Nam Bộ. Châu thành vốn có nghĩa là “thành phố”. Những huyện nào bao chung quanh một thị xã hay một thành phố đều có thể mang tên Châu Thành. Phan Châu Trinh vốn là Phan Chu Trinh, tên đường ở tp. Hồ Chí Minh. Chu bị nói trại thành Châu vì kiêng húy chúa Nguyễn Phúc Chu (1675-1725).
Chơn Bà Đen là tên núi và tên xã của huyện Dương Minh Châu, tỉnh Tây Ninh ở thời điểm thập niên 1950. Người Khmer thờ một vị nữ thần gọi là “Mẹ đen” và họ cho rằng hòn núi này là bàn chân của bà. Chơn Thành là huyện của tỉnh Bình Phước, được thành lập tháng 2-2003, diện tích 414,6km2, dân số 53.300 người (2006). Chơn Thành còn là thị trấn của huyện, có dạng gốc là Chân Thành, là “hết sức thành thật, xuất phát tự đáy lòng”.
Sở dĩ Chân bị nói chệch thành Chơn vì kiêng húy vua Dục Đức: Nguyễn Phúc Ưng Chân.
Huỳnh Hữu Nghĩa là thị trấn của huyện Mỹ Tú, tỉnh Sóc Trăng. Họ Huỳnh có âm gốc là Hoàng. Nhưng vì kiêng húy chúa Nguyễn Hoàng (1524-1613), người có công khai sáng nhà Nguyễn ở Đàng Trong, nên phải nói là Huỳnh.
Lợi An là xã của huyện Trần Văn Thời, tỉnh Cà Mau. Lợi Bình Nhơn là xã ở thị xã Tân An, tỉnh Long An. Bình Lợi là cầu ở tp. HCM. Phú Lợi là xã của huyện Định Quán, tỉnh Đồng Nai. Dạng ban đầu của Lợi là Lỵ. Vì kiêng húy vua Lê Lỵ phải gọi Lê Lợi, Lợi An,…
Phú Khương là quận của tỉnh Tây Ninh, tách ra từ quận Châu Thành ngày 17-4-1959. Trụ sở huyện đóng tại Suối Đá. Ngày 13-3-1979, đổi tên huyện Phú Khương thành huyện Hòa Thành. Phú Khương còn là phường của thị xã Bến Tre, tỉnh Bến Tre. Khương phải nói chệch thành Khang vì kiêng húy Lê Khang (đời thứ hai dòng Lê Trừ) và Hiếu Khang hoàng đế (cha vua Gia Long) [6].
Yên Luông là xã của huyện Gò Công Tây, tỉnh Tiền Giang. Hàm Luông là sông nhánh của sông Tiền, chảy qua giữa tỉnh Bến Tre và là tên cầu trên ql. 60, bắc qua sông Hàm Luông, tỉnh Bến Tre, khởi công tháng 4-2007, khánh thành ngày 24-4-2010. Cầu có tổng chiều dài gần 9km, trong đó cầu chính dài 1.200m. Tỉnh Vĩnh Long ở cuối thế kỷ 19 thường gọi là Vĩnh Luông. Âm gốc của Luông là Long, nhưng vì tên của vua Lê Thái Tông là Nguyên Long nên phải gọi là Luông.
Phước Kiển(g) là xã của huyện Nhà Bè, tp. HCM. Phước Long là huyện của tỉnh Bình Phước.Kiểng Phước là xã của huyện Gò Công Đông, tỉnh Tiền Giang. Long Phước là xã ở các huyện Bến Cầu (Tây Ninh), của huyện Long Hồ (Vĩnh Long), của huyện Long Thành (Đồng Nai),…Âm gốc của Kiểng là Cảnh. Nhưng để tránh xúc phạm đến tên vua Trần Thái Tông (Trần Cảnh và Nguyễn Phúc Cảnh – con vua Gia Long), phải nói tránh.
AÂm gốc của Phước là Phúc. Nhưng tên đệm của các vua nhà Nguyễn là Phúc (NguyễnPhúc Ánh – Gia Long; Nguyễn Phúc Thì – Tự Đức) nên phải nói tránh.
Ngãi Đăng là xã của huyện Mỏ Cày, tỉnh Bến Tre. Ngãi Giao là thị trấn của huyện Châu Đức, tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu. Ngãi Hùng là xã của huyện Tiểu Cần, tỉnh Trà Vinh. Ngãi Tứ là xã của huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long. An Ngãi là xã của huyện Long Điền, tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu. Đại Ngãi là xã của huyện Long Phú, tỉnh Sóc Trăng. Mỹ Ngãi là xã của thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Tên tước và miếu hiệu của Nguyễn Phúc Thái (1648-1691) là Anh Tôn Hiếu Nghĩa nên Nghĩa phải gọi là Ngãi.
An Nhơn là xã của huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Tháp và là xã của huyện Thạnh Phú, tỉnh Bến Tre. Lý Nhơn là xã của huyện Cần Giờ, tp. HCM.
Sa Nhiên là rạch ở thị xã Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp. Sa Nhiên có âm gốc là Sa Nhơn, tên thật của Nguyễn Văn Nhơn, tục danh là quan lớn Sen, vì ông giỏi nấu chè hạt sen dâng vua. Vì kiêng huý, Nhơn nói chệch thành Nhiên [8]. Có lẽ Sa là biến âm của Sen.
Vì tên tước của Nhân quận công Nguyễn Phúc Lan nên Nhân phải gọi sai lệch thành Nhơn và Nhiên.
Ở Thủ đô Hà Nội có phố Ngô Thì Nhậm. Ở tp. Hồ Chí Minh cũng có đường mang tên nhân vật lịch sử này nhưng lại gọiNgô Thời Nhiệm. Sở dĩ cùng một người nhưng có hai tên khác nhau vì ở miền Bắc không kiêng húy các vua nhà Nguyễn còn trong Nam thì có. Tên vua Tự Đức
là Hồng Nhậm, Nguyễn Phúc Thì.
Vĩnh Long là tỉnh ở Nam Bộ, được thành lập năm 1832, được đổi tên từ trấn Vĩnh Thanh, do kiêng húy tên lăng của Hiếu Minh hoàng hậu là Vĩnh Thanh lăng [7].
Tân Thiềng là xã của huyện Chợ Lách, tỉnh Bến Tre. Âm gốc của Thiềng là Thành. Nhưng vì vua Lê Thánh Tông tên Tư Thành nên phải tránh [6].
Thới Bình là phường của quận Ninh Kiều, tp. Cần Thơ. Thới Quản là xã của huyện Gò Quao, tỉnh Kiên Giang; Thới Tam Thôn là xã của huyện Hóc Môn, tp. Hồ Chí Minh. An Thớilà xã của huyện Cái Nước, tỉnh Cà Mau và là thị trấn của huyện Phú Quốc, tỉnh Kiên Giang. An Thới còn là phường của quận Bình Thủy, tp. Cần Thơ. Bình Thới là xã của huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre.
Âm gốc của Thới là Thái. Nhưng vì kiêng húy chúa Nguyễn Phúc Thái (1648-1691), phải đọc chệch.
Thoại Giang là xã của huyện Thoại Sơn, tỉnh An Giang. Thoại Sơn vốn là tên núi cao 80 m. Tên cũ là núi Sập. Về sau trở thành tên huyện của tỉnh An Giang, diện tích 458,7km2, dân số 176.000 người (2006), gồm 3 thị trấn Núi Sập, Óc Eo, Phú Hoà và 13 xã. Thoại Sơn là “núi có lăng mộ Nguyễn Văn Thoại”. Thoại Hà là sông chảy từ sông Hậu ở tỉnh An Giang đến sông Song Khê, trước cây cối um tùm, lòng sông bùn lầy, ghe thuyền không đi lại được. Năm 1818, được Nguyễn Văn Thoại (1761-1829) chỉ huy nạo vét sâu, ghe thuyền đi lại dễ dàng. Cũng gọi là Ba Rạch, Ba Lạch, Núi Sập hay kinh Rạch Giá-Long Xuyên.
Tên gốc của Nguyễn Văn Thoại là Thụy. Vì kiêng húy Thụy Quốc Công (tên tước của Nguyễn Phước Nguyên: 1563-1635) và Vĩnh Thụy (tên tước khi làm vua của Bảo Đại) nên phải gọi chệch.
Ở Hà Nội có các tên đường Tông Đản, Trần Nhân Tông, Lê Thánh Tông. Ở thành phố Hồ Chí Minh cũng có các tên đường này nhưng viết Tôn Đản, Trần Nhân Tôn, Lê Thánh Tôn. Âm gốc của các tên đường này là Tông, nhưng vì kiêng húy Miên Tông (vua Thiệu Trị: 1807-1847) nên phải đọc và viết chệch.
Từ Vinh có tự dạng chữ Hán giống từ Tông, tên kiêng húy của vua Thiệu Trị nên phải gọi và viết Vang. Các xã Phú Vang, Vang Quới Đông, Vang Quới Tây của huyện Bình Đại, tỉnh Bến Tre ở trong trường hợp này.
Ở tp. HCM có các đường Võ Trường Toản, Võ Duy Ninh, Võ Văn Tần,…Vì kiêng húy vua Lê Huyền Tông (Duy Vũ ) nên họ Vũ của các nhân vật trên phải gọi là Võ.
3. Để khỏi phạm húy, người xưa có ba cách xử lý tên huý:
3.1. Nói chệch đi, có 3 kiểu:
a. Giữ âm đầu và thanh: Chu (chúa Nguyễn Phúc Chu) thành châu (châu thành), Cảnh (Trần Cảnh, hoàng tử Cảnh) thành kiểng (chậu kiểng), Hoa (quí phi Hồ Thị Hoa) thành huê (Huê Kỳ), Hồng (Hồng Nhậm, tức vua Tự Đức) thành hường (hoa hường).
Kiểu này phổ biến nhất.
b. Giữ vần và thanh:
Hoa (Hồ Thị Hoa) thành ba (tài ba, chợ Đông Ba, Huế).
c. Giữ âm đầu và vần:
Thanh Hoa sửa thành tỉnh Thanh Hoá. Võ Giang kiêng húy chúa Trịnh Giang thành Võ Giàng [2].
Hai kiểu sau ít được dùng hơn.
3.2. Thay thế bằng từ đồng nghĩa:
Cầu Hoa (Bình Thạnh, tp.HCM) thành cầu Bông. Chợ Hàng Hoa (tp. Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang) thành chợ Hàng Bông.
Hằng (Từ dũ Phạm Thị Hằng) thành thường (thường ngày, Thường Nga). Thanh Đàm(“đầm trong”) kiêng húy vua Lê Thế Tông) sửa thành Thanh Trì (“ao trong”) [3].
3.3. Thay bằng một từ khác cũng có ý nghĩa tốt đẹp:
Huyện Mộ Hoa thành huyện Mộ Đức (Quảng Ngãi).
Hai cách 2 và 3 ít phổ biến hơn cách 1. Khi viết chữ huý, phải bớt nét.
Lệ kiêng huý xuất hiện từ đời Tống (960-1279) ở Trung Quốc. Còn ở Việt Nam, tục lệ này xuất hiện từ đời Trần (1225-1400) [5].
4. Sau Cách mạng Tháng Tám, tục lệ này bị bãi bỏ ở các vùng kháng chiến và ở miền Bắc sau năm 1955. Còn ở miền Nam vẫn tiếp tục duy trì. Hơn nữa, tục này đã xâm nhập vào tiếng nói hằng ngày của mọi người nên một cách vô thức, chúng ta gián tiếp “bảo vệ” nó.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Danh mục các đơn vị hành chính Việt Nam, HN, Nxb Thồng kê, 2008.
2.Đặng Hoàng Thám, Núi Cây Đao, kỳ bí trên Hoa Thê Sơn, Kiến thức ngày nay, số 695, ngày 1 – 12- 1909, 79, 80, 85.
3.Đinh Xuân Vịnh, Sổ tay địa danh Việt Nam, Nxb ĐHQG Hà Nội, 2002.
4.Lê Hồng Chương, Từ điển đơn vị hành chính Việt Nam, Nxb Từ điển Bách khoa, HN, 2007.
5.Lê Trung Hoa, Cửa sổ tri thức, tập 1, Nxb Trẻ, 2005.
6.Ngô Đức Thọ, Nghiên cứu chữ húy Việt Nam qua các triều đại, Nxb Văn hóa, HN, 1997.
7.Nguyễn Duy Oanh, Tỉnh Bến Tre trong lịch sử Việt Nam (1757-1945), Phủ Quốc vụ khanh đặc trách Văn hóa, Sài Gòn.
8.Nguyễn Thị Ngọc Bích, Khía cạnh năn hoá của địa danh ở tỉnh Đồng Tháp, Luận văn thạc sĩ, Văn hóa học, Trường ĐHKHXH-NV, tp. HCM, 2008.
9.Trương Vĩnh Ký, x. Lê Hương, Người Việt gốc Miên, tr. 253 – 264. Thái Văn Chải dịch các địa danh gốc Khmer trong sách này.