Friday, 7 August 2015

Hỏi – đáp về thời Âu Lạc (Nguyễn Văn Toàn - Văn Chương Việt)

Hỏi – đáp về thời Âu Lạc
Nguyễn Văn Toàn


1. Xuất xứ của Thục Phán An Dương Vương?

Thục Phán thuộc dòng dõi vua Khai Minh nước Thục thời Chiến Quốc. Thục là một quốc gia cổ ở vùng Tứ Xuyên, Trung Quốc. Xuất phát quyền lực của nước Thục là đồng bằng Thành Đô, với lãnh thổ chủ yếu nằm ở vùng Trung và Tây bồn địa Tứ Xuyên, cũng như vùng thượng thung lũng sông Hán Thủy. Dân tộc chủ yếu ở Thục là người Khương. Nước Thục bị Tần đánh bại vào năm 316 TCN. Khi đó kinh đô của Thục đặt tại Thành Đô.

2. An Dương Vương đã lưu lạc đến phía Bắc Văn Lang như thế nào?  

Sách “Ngược dòng lịch sử” của GS Trần Quốc Vượng viết rằng sau khi nước Thục bị Tần diệt, con nhỏ vua Thục là Thục Chế được lập lên ngôi, lưu vong về phía đông nam. Tuy nhiên qua thế hệ Thục Chế vẫn phải lẩn trốn trước sự truy nã của Tần và không có cơ hội khôi phục nước Thục cũ. Cuối cùng tới con Thục Chế là Thục Phán thì hình thành quốc gia nằm ở phía bắc Lạc Việt của họ Hồng Bàng. Và sau cuộc chống Tần thắng lợi đã buộc vua Hùng thứ 18 nhường ngôi, lập ra nước Âu Lạc.

Truyền thuyết Cẩu chúa cheng vùa (“Chín chúa tranh vua”) của người Tày ở Cao Bằng cũng dẫn chúng ta đến hướng nghĩ như trên về gốc tích của An Dương Vương. Theo truyền thuyết này thì Thục Phán là con Thục Chế, vua nước Nam Cương (tên mới của nước Khai Minh?). Thục Phán đã lãnh đạo nước Nam Cương hợp nhất với Văn Lang để lập ra Âu Lạc. Kinh đô xưa của nước Nam Cương vẫn còn đấu tích khá rõ nét. Đó là kinh đô Nam Bình (Cao Bằng) với thành Bản Phủ là nơi vua ở.

3. Công lao của An Dương Vương trong việc đánh bại quân Tần như thế nào?

Việc Thục Phán đánh bại quân Tần xâm lược thực chất phần lớn là do công lao của nhân dân Văn Lang. Nhân dân Văn Lang với truyền thống chống ngoại xâm (Đế Lai, giặc Ân, Thục Phán) có thể đã tạm liên minh với Thục Phán để chống kẻ thù lớn hơn. An Dương Vương, “kẻ thù của kẻ thù” đã trở thành bạn của Văn Lang trong trường hợp như vậy. Sau này, khi đã kháng chiến thắng lợi, Thục Phán còn gây áp lực để Hùng Vương nhường ngôi, xóa nước Văn Lang, lập ra nước Âu Lạc.
Thậm chí, Thần tích đền Chèm ghi Thục Phán đánh nhau với Tần Thủy Hoàng, muốn “cầu hòa” nên đem Lý Ông Trọng mà hiến để xin bãi binh. Như vậy, chứng tỏ Thục Phán đã có một sự tính toán nhất định để sử dụng thủ đoạn trong chiến tranh, một điều không bao giờ gặp vào thời Văn Lang.
Do đó, dù Thục Phán là “anh hùng đánh bại quân Tần” thì vẫn không thể xua tan tâm lý “bài ngoại” của cư dân Văn Lang vốn còn lưu giữ chế độ thị tộc rất sâu sắc. Bởi Thục Phán là thủ lĩnh ngoại tộc bị nhà Tần dồn đuổi mới chạy xuống vùng đất Văn Lang và đã cướp ngôi vua của Hùng Vương thứ mười tám. Những cuộc chiến đã diễn ra giữa hai bên Hùng – Thục được miêu tả rất nóng bỏng và sinh mạng của người Văn Lang đã bị tàn hại rất nhiều.

4. Thời điểm Thục Phán diệt nước Văn Lang?

Đại Việt Sử Ký Toàn thư chép: “Đời cháu Thục Vương là Thục Phán mấy lần đem quân sang đánh nước Văn Lang. Nhưng Vua Hùng Vương có tướng sĩ giỏi, đã đánh bại quân Thục. Vua Hùng Vương nói: Ta có sức thần, nước Thục không sợ hay sao? Bèn chỉ say sưa yến tiệc không lo việc binh bị. Bởi thế, khi quân Thục lại kéo sang đánh nước Văn Lang, vua Hùng Vương còn trong cơn say. Quân Thục đến gần, Vua Hùng trở tay không kịp phải bỏ chạy rồi nhảy xuống sông tự tử. Tướng sĩ đầu hàng. Thế là nước Văn Lang mất. Giáp Thìn, năm thứ 1 [257 TCN], vua đã thôn tính được nước Văn Lang, đổi quốc hiệu là Âu Lạc”.
Tuy nhiên, thời điểm 257 TCN không thể diễn ra việc Thục Phán diệt họ Hùng và lập nước Âu Lạc. Thời điểm này Thục Phán và đồng bào của ông ta đã nương nhờ tù trưởng Dịch Hu Thống trên đất Tây Vu, gần Văn Lang. Sau này, khi Dịch Hu Tống bị Đồ Thư giết chết, bằng sự lấn án của dòng tộc mình có thể Thục Phán đã cướp quyền lãnh đạo ở vùng đất Tây Vu và dùng vị thế này để liên kết với nhân dân Văn Lang để chống Tần. Bởi thế Sứ ký Tư Mã Thiên thì viết nước Âu Lạc lập sau năm 208 TCN.

5. An Dương Vương lập quốc theo mô hình nào?

Một điều đáng để suy nghĩ nữa là Thục Phán An Dương Vương lập quốc theo mô hình nào? Mô hình của nước Thục đã diệt vong thời Chiến Quốc hay mô hình Văn Lang? Hay là một mô hình mới?
* Mô hình nước Thục xưa được An Dương Vương áp dụng ở những chứng cứ sau:
- Việc dời đô từ vùng bán sơn địa Phong Châu (Phú Thọ) về vùng đồng bằng Cổ Loa (thuộc Hà Nội ngày nay) chứng tỏ một bước tiến vượt bậc trong việc quản lý đất nước của nước mới Âu Lạc.

- Từ việc không có thành trì, phải nhổ tre đánh giặc thời Văn Lang, nước Âu Lạc đã xây dựng thành Cổ Loa vững chắc và tinh vi với vị thế là kinh đô của cả nước, chế ra “nỏ thần” và phân biệt rạch ròi giữa vua và dân về nơi cư trú.

- Đã bắt đầu có những mưu mô chính trị xảo quyệt ở nhà nước phong kiến Âu Lạc. Như Trọng Thủy của Nam Việt phải qua làm con tin (dù với thân phận ở rể).

- Và cái tên An Dương Vương cũng có thể là niên hiệu của Thục Phán, vua nước Âu Lạc. Điều này khác hẵn với cách gọi các đời vua Hùng theo kiểu số thứ tự. Và bản thân vua Hùng cũng có nghĩa là “thủ lĩnh” được Hán hóa về sau này.
* Mô hình Văn Lang được nhìn nhận ở những chứng cứ sau:
- Bộ máy nhà nước của nước Âu Lạc không có nhiều thay đổi so với bộ máy nhà nước thời Văn Lang. Đứng đầu trong bộ máy hành chính ở trung ương vẫn là Vua và Lạc Hầu, Lạc Tướng. Đứng đầu các bộ vẫn là Lạc Tướng. Đứng đầu các chiềng, chạ vẫn là Bồ chính. Tuy nhiên, ở thời An Dương Vương quyền hành của nhà nước cao hơn và chặt chẽ hơn. Vua có quyền thế hơn trong việc cai trị đất nước.
- Con gái vua, như Mỵ Châu vẫn gọi theo cách gọi của dân gian Văn Lang. Có nghĩa là mệ, mế Châu.
- Tục ở rể vẫn thịnh hành. Bằng chứng Trọng Thủy của nước Nam Việt, một nước lớn và mạnh hơn phải sang ở rể ở Âu Lạc.
Như vậy, mô hình Âu Lạc là sự kết hợp giữa mô hình Thục và mô hình Văn Lang. Chính vì điều này, nhà nước Âu Lạc đã có sự phát triển vượt bậc trong vòng 30 năm (208 TCN – 179 TCN), đủ sức đẩy lùi những cuộc tấn công của nước Nam Việt trong một thời gian khá lâu dài.

6. Nước Âu Lạc có cương vực như thế nào?

Nước Âu Lạc chưa chia ra đơn vị hành chính, mà vẫn giữ các bộ lạc tự trị và cha truyền con nối. Đó là các bộ lạc: Mê Linh, Long Biên, Kê Tù, Khúc Dương, Tư Phố, Đô Lung, Tây Vu, Chu Diên, An Định, Vô Công, Cư Phong, Hàm Hoan, Liên Lâu, Bắc Đái, Câu Lậu, Dư Phát, Vô Biên.
7. Dân số Âu Lạc khoảng bao nhiêu?

Dân số cuối thời Âu Lạc, ở niên đại 180 trước Công nguyên, có khoảng 600.000 người.

8. Ngôn ngữ của người Âu Lạc?

Cách trung tâm Thủ đô Hà Nội khoảng 40km là Đa Chất (Đại Xuyên, Phú Xuyên) - làng đang lưu giữ một dòng ngôn ngữ cổ. Người dân ở đây có một thứ tiếng nói để trao đổi riêng với vốn từ vựng rất phong phú, ít phải vay mượn. 
Một số người đã tìm đến nghiên cứu về dòng ngôn ngữ này và đưa ra nhận định: Đây là những biệt ngữ có sự kết hợp giữa âm Nôm và âm Hán Việt. Thậm chí căn cứ vào phát tích và phả hệ của làng, một số người còn cho rằng đây là thứ ngôn ngữ thời Văn Lang - Âu Lạc còn bảo lưu được.
Nghi vấn về một nền ngôn ngữ cổ thời Văn Lang - Âu Lạc đang hiện diện ở Đa Chất có chính xác hay không? Câu hỏi này người Đa Chất và những người quan tâm đang trông chờ lời giải từ các nhà khoa học về ngôn ngữ, lịch sử và khảo cổ.

9. Thành Cổ Loa độc đáo như thế nào?

Thành Cổ Loa là tòa thành có bề dày lịch sử và sự độc đáo về sinh thái nhất tại Việt Nam. Khó có một tòa thành có nhiều sự độc đáo như thành cổ Cổ Loa. Các nhà khảo cổ học đã đánh giá đây là “tòa thành cổ nhất, quy mô lớn vào bậc nhất, cấu trúc cũng thuộc loại độc đáo nhất trong lịch sử xây dựng thành lũy của người Việt cổ”.
Gần 15.000m tường thành Cổ Loa đều được xây dựng bằng cách triệt để lợi dụng địa thế tự nhiên, đắp vòng nối với nhau nơi Trấn Nam môn, tạo thành một hình xoáy trôn ốc nên được gọi là Loa thành. Cách đắp này cổ kim, Đông Tây chưa hề có. Thành Cổ Loa theo tương truyền gồm 9 vòng xoáy trôn ốc, hơn hẳn những tòa thành khác về số vòng thành (các tòa thành sau này chỉ có nhiếu nhất là 3 vòng thành).

10. Thành Cổ Loa có vị thế như thế nào?

Thành Cổ Loa vừa là một đô thị cổ, vừa là một trung tâm quân sự, có cả làng mạc, vùng đô hội, có tất cả mọi ngành nghề. Những gì đã phát hiện cho phép xác định rằng khu vực tây nam thành là một “binh công xưởng” làm nhiệm vụ đúc mũi tên trang bị cho quân đội của An Dương Vương. Đến đây chúng ta sẽ được xem tận mắt dấu vết của lò đúc, những phần còn lại của khuôn đúc, những mũi tên đồng ba cạnh đặc trưng Cổ Loa – sản phẩm mang “thương hiệu Việt” đã từng nhiều lần gây kinh hoàng cho quân xâm lược. Ở Trung Quốc cũng có nỏ máy của Khổng Minh trong trận chiến với Mạnh Hoạch nhưng những cỗ máy bắn tên này chỉ nổi tiếng sau “nỏ thần” Cổ Loa hơn 400 năm.
11. Quy mô dân số thành Cổ Loa như thế nào?

Số liệu dân số thành Cổ Loa thời Âu Lạc, Nam Việt đến nay vẫn chưa được xác định rõ. Nhưng vào thời Hán, Cổ Loa thuộc huyện Tây Vu có 32.000 hộ, chiếm khoảng 1/3 số hộ của quận Giao Chỉ (92.440 hộ) và gần bằng số hộ của quận Cửu Chân (35.743 hộ). Cổ Loa hiện nay có tới 62 dòng họ, trong đó các họ lớn là Nguyễn, Đào, Hoàng, Trương, Lại, Đỗ, Chu, Tái, Phạm, Trần, Vũ, Chử, Lê, Hà, Đặng, Cao, Bùi, Ngô, Dương, Đồng, Vương… So với các làng xã khác thuộc đồng bằng trung du Bắc Bộ thì só lượng các dòng họ ở Cổ Loa là khá nhiều.

12. Từ Cổ Loa có thể đi đến những nơi nào bằng đường thủy?

Về phương diện giao thông đường thủy, Cổ Loa có một vị trí vô cùng thuận lợi hơn bất kỳ ở đâu tại đồng bằng Bắc Bộ vào thời ấy. Đó là vị trí nối liền mạng lưới đường thủy của sông Hồng cùng với mạng lưới đường thủy của sông Thái Bình. Hai mạng lưới đường thủy này chi phối toàn bộ hệ thống đường thủy tại Bắc bộ Việt Nam. Qua con sông Hoàng, thuyền bè có thể tỏa đi khắp nơi, nếu ngược lên sông Hồng là có thể thâm nhập vào vùng Bắc hay Tây Bắc của Bắc Bộ, nếu xuôi sông Hồng, thuyền có thể ra đến biển cả, còn nếu muốn đến vùng phía Đông Bắc bộ thì dùng sông Cầu để thâm nhập vào hệ thống sông Thái Bình đến tận sông Thương và sông Lục Nam.

13. Thành Cổ Loa có những truyền thuyết nào?

Hiếm có tòa thành nào ở Việt Nam lại có nhiều truyền thuyết ly kì, hấp dẫn như thành Cổ Loa. Từ truyền thuyết định đô (truyền thuyết “Độc Nhãn Long”), xây thành (“Sự tích thành Cổ Loa”) đến truyền thuyết về sự thất thủ (truyện “truyện Nỏ thần”/“truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy) đều được dân gian lưu truyền từ đời này sang đời khác như những kí ức không thể nào quên…
So với việc Lý Thái Tổ cùng bá quan văn võ thấy rồng vàng bay lên ở thành Đại La, dời đô từ vùng Hoa Lư về đây, sau đặt là Thăng Long thì truyền thuyết về  việc An Dương Vương định đô xây thành hấp dẫn hơn rất nhiều. Truyền thuyết xưa kể rằng, An Dương Vương lệnh cho các thầy địa lý tìm khắp cõi Âu Lạc xem đâu có thế đất thịnh vượng để dựng kinh đô. Sau hàng tháng trời tìm kiếm, các thầy báo về có một nơi được coi là đỉnh của vùng tam giác châu thổ sông Hồng, là vị trí đắc địa bởi từ đây, có thể khống chế một vùng rộng lớn cả đồng bằng lẫn sơn địa. Đó chính là Cổ Loa. Khi quyết định rời đô từ Phong Châu (Lâm Thao - Phú Thọ) về, đoàn thuyền của vua chứng kiến cảnh chín con rồng quần thảo một hòn ngọc lớn. Vua cho đấy là điểm lành nên chọn đúng nơi mà chín con rồng quần thảo để xây chính điện (đền Thượng ở Cổ Loa bây giờ). Trong cuộc giao long, một con rồng khỏe nhất chiếm lĩnh được hòn ngọc và ngậm vào mồm. Nhưng nó cũng bị hỏng một mắt sau cuộc chiến đó. Bởi chính An Dương Vương đã dùng bảo kiếm của mình chọc thủng mắt rồng để quy phục bản tính hung dữ của nó.
Sau khi xây xong, thành Cổ Loa sập chỉ trong một đêm, sau phải nhờ sức thần mới diệt được gà trắng tinh mới có thể xây thành. Đó chính là “Sự tích thành Cổ Loa”.
Rồi Truyền thuyết “Mỵ Châu – Trọng Thủy” là một trong những câu chuyện có sức hấp dẫn được lưu truyền trong dân gian từ ngàn xưa. Đây cũng là tác phẩm mang dấu ấn bi kịch sớm nhất trong văn chương dân tộc. Bên cạnh bài học về việc cần đề cao cảnh giác với kẻ thù, tấm oan tình còn để lại những bài học mang giá trị nhân văn sâu sắc.
Bên cạnh đó, nước Giếng Ngọc (tương truyền là nơi Trọng Thuỷ tự tử vì hối hận) nếu đem rửa ngọc trai thì ngọc sáng bội phần. Nhân dân Cổ Loa cũng cho biết, xưa kia chúng ta phải cống nước giếng Ngọc sang Trung Quốc để rửa ngọc trai. Trong “Tang thương ngẫu lục” của Nguyễn Án và Phạm Đình Hổ thế kỷ XVIII có chép về việc Nguyễn Công Hãng sang Trung Quốc bị tướng nhà Thanh đòi nước giếng để rửa ngọc trai. Ông đã đứng đối giỏi mà phá được lệ đó.

14. Những nét văn hóa độc đáo tại Cổ Loa hiện nay?

Dân gian có câu: “Thứ nhất lễ hội Cổ Loa/Thứ hai hội Gióng, thứ ba hội Chèm”. Bắt đầu từ năm 1961, Lễ hội Cổ Loa được tổ chức vào ngày 6 tháng Giêng âm lịch, tương truyền là ngày An Dương Vương lên ngôi hoàng đế. Làng Cổ Loa gồm 12 xóm nhưng hội Cổ Loa là của chung một cụm tám làng (ngày trước gọi là Bát Xã) gồm: Ðài Bi, Sàn Dã, Cầu Cả, Mạch Tràng, Văn Thượng, Thư Cưu, Cổ Loa, Xép. Cả 8 làng này đều thờ Thục Phán nên đều tham gia tổ chức hội. Lễ hội là dịp để người dân địa phương nói riêng và người dân trên cả nước nói chung tưởng nhớ công lao của vị vua đầu tiên của nước Âu Lạc.

15. Sự phản kháng của người Văn Lang

Lịch sử ít nhắc đến sự phản kháng của người Văn Lang đối với nhà Thục. Tuy nhiên, chính sách cai trị của An Dương Vương khá chuyên chế và nhiều cuộc phản kháng đã diễn ra. Việc thành Cổ Loa “xây rồi lại sập” nhiều lần không phải là do nhà Thục không đủ kĩ thuật. Thực tế là kĩ thuật xây thành của nhà Thục rất điêu luyện và công phu. Kiến trúc kiên cố của Loa Thành sau này với thành cao, hào sâu, rộng, nhiều ụ, lũy và hàng vạn mũi tên đồng tìm được là những minh chứng điển hình.
 Sự tích thành Cổ Loa” viết thành sập là do “hàng vạn thiên binh thiên tướng” và “gà trắng tinh quấy nhiễu”. Rõ ràng các sự việc trên là không có thật. Sự thật chỉ có thể là do những nguyên nhân thực tế hơn. Đó là do người dân Văn Lang cũ bất phục tùng lẫn phá hoại trong việc phải phục dịch để xây dựng cung điện cho một bộ tộc khác. Bởi Loa Thành là một kiến trúc có sự phân biệt rạch ròi giữa vua, quan, thường dân đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Phong Châu, kinh đô của các đời vua Hùng thì không có sự phân biệt lớn về điều này. Và dĩ nhiên, sự phu phen, lao dịch nặng nề khiến cho người dân Văn Lang, nhân lực chủ yếu trong xây thành vốn không quen với công việc này cảm thấy mình đang bị áp bức và cần nổi dậy đấu tranh.
Chính vì vậy, sử thần Ngô Sĩ Liên sau này đã viết rằng: “An Dương Vương hưng công đắp thành có phần không dè đặt sức dân, cho nên thần thác vào rùa vàng để răn bảo, chẳng phải là vì lời oán trách động dân mà thành ra như thế ư?”.

16. Dấu ấn Thục Phán An Dương Vương trong lòng người Việt cổ?

Dù Thục Phán là “anh hùng đánh bại quân Tần” thì vẫn không thể xua tan tâm lý “bài ngoại” của cư dân Văn Lang vốn còn lưu giữ chế độ thị tộc rất sâu sắc. Bởi Thục Phán là thủ lĩnh ngoại tộc bị nhà Tần dồn đuổi mới chạy xuống vùng đất Văn Lang và đã cướp ngôi vua của Hùng Vương thứ mười tám. Những cuộc chiến đã diễn ra giữa hai bên Hùng – Thục được miêu tả rất nóng bỏng và sinh mạng của người Văn Lang đã bị tàn hại rất nhiều. Làm sao mối hận xâm lược có thể nguôi ngoai trong lòng cư dân Văn Lang?
Đối với cư dân vừa thoái thai khỏi chế độ thị tộc và xuất hiện sự hình thành dân tộc thì yếu tố ngoại lai thường gây ra sự khó chịu. Việc “bài ngoại” và “đào thải” của cư dân Văn Lang cũ dưới thời Thục Phán không phải là ngoại lệ. Thời Hai Bà Trưng, năm 40 – 43 SCN hai bà vẫn nhắc đến “nghiệp xưa họ Hùng” chứ không phải nghiệp xưa nhà Thục và tên nước cũng là Lĩnh Nam (tên nước cũ thời Lạc Long Quân). Chứng tỏ dấu ấn Thục Phán là rất ít ỏi trong lòng người Việt.

17. Truyện “Nỏ thần” thực chất là như thế nào?

Việc nhà Thục tung tin rằng Thần Kim Quy đến giúp sức xây thành, cho lẫy làm “nỏ thần” và ở lại 3 năm chính là một thủ thuật gây “nhiễu” tâm lý của lao dịch người Văn Lang trước khi sử dụng bạo lực áp chế họ xây thành và cai trị họ. Việc hai cha con chủ quán và đám yêu tinh bị quân của An Dương Vương giết chết trong truyền thuyết có thể là nghĩa quân của người Văn Lang bất phục tùng vì lao dịch và sự cai trị của nhà Thục.
Chúng ta đã từng suy nghĩ là chiếc “nỏ thần” vào thuở ban đầu do tướng Cao Lỗ làm ra chính là thứ vũ khí để áp chế dân chúng trước khi chống Triệu Đà không?
Chính vì nền tảng quyền lực như vậy nên Thục Phán mới đa nghi với nhân dân nhưng lại hòa hiếu với Triệu Đà để đến nỗi mất nước. Thậm chí đến con gái mình cũng xem là “giặc”. Một sự bao biện đến kinh hoàng.
Tuy nhiên, xé lớp màn sương huyền hoặc đi thì ta sẽ có một kết luận thú vị rằng: Đây lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam, một vị vua ngoại tộc đã cai trị quốc gia dựa và niềm tin thánh thần của dân tộc khác và đã tỏ ra thành công trong buổi ban đầu. Sau này, người Mông Cổ là một thí dụ điển hình của thủ đoạn chính trị này. Áp chế được các dân tộc khác bằng quân sự, chính trị nhưng lại phải sử dụng văn hóa của các dân tộc đó để dễ bề cai trị.

18. Mỵ Châu có phải là giặc?

Trong truyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, khi Thục Phán - An Dương Vương bị quân Nam Việt của Triệu Đà truy đuổi, thần Kim Quy đã nổi lên và nói: “Giặc ở sau lưng nhà vua đó”. An Dương Vương nghe thấy liền rút kiếm chém đầu Mỵ Châu.
Với hành động đó An Dương Vương rõ ràng đã xem con gái Mỵ Châu là giặc. Nhưng đây là sự bao biện và cay cú của An Dương Vương khi thất trận. Đáng tiếc là trong suốt hai ngàn năm, khi nhắc đến câu truyện này dân gian và kể cả SGK lại thiêu diệt những điều hoang đường như ngọc trai biển Đông rửa tại Giếng Ngọc (nơi Trọng Thủy tự vẫn) thì ngọc sáng bội phần để chứng minh cho tính trong sạch của Mỵ Châu.
Thật ra, so với trách nhiệm của Mỵ Châu chỉ gói gọn một trong hai chữ “lầm”, “vô ý” như nhà thơ Tố Hữu đã chỉ ra thì trách nhiệm của An Dương Vương nặng nề hơn nhiều.
Bên cạnh đó, đặc trưng của Nhà nước xâm lược và lập quốc trên lãnh thổ của một dân tộc khác thường không xem trọng ý thức quốc gia dân tộc cao độ. Khi chọn nhân dân và quyền lợi, họ thường chọn quyền lợi cá nhân và dòng tộc. Chính vì nền tảng quyền lực như vậy nên Thục Phán mới cai trị tàn khốc với nhân dân nhưng lại hòa hiếu với Triệu Đà. Sau này các tướng của nhà Thục đều bị Trọng Thủy gièm pha với An Dương Vương và họ đều bị giết chết hoặc đuổi đi. Tướng thân thuộc đã vậy, huống gì là nhân dân, lực lượng chủ chốt để kháng chiến chống ngoại xâm.

19. Trọng Thủy tự vẫn theo Mỵ Châu, có hay không?

Nam Việt diệt Âu Lạc năm 179 TCN. Theo truyền thuyết Trọng Thủy cũng tự vẫn ngay sau khi diệt xong Âu Lạc. Nhưng theo sử sách ông có người con tên là Triệu Hồ sau đó nhiều năm. Như vậy Trọng Thủy có chết theo Mỵ Châu khi Âu Lạc mất nước hay không?
Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, Trọng Thủy có người con trai là Triệu Hồ, sau này trở thành người nối ngôi Triệu Đà vào năm 137 TCN và qua đời năm 124 TCN, thọ 52 tuổi. Như vậy Triệu Hồ sinh năm 175 TCN.
Với chứng cứ nói trên có thể xác định Trọng Thủy còn sống ít nhất tới 174 TCN. Như vậy, không có chuyện sau khi diệt xong Âu Lạc, Trọng Thủy lại tự vẫn theo Mỵ Châu như truyền thuyết được.
Bởi vậy, Khâm định Việt sử thông giám cương mục của nhà Nguyễn chỉ nhắc tới việc Trọng Thủy đi ở rể và tráo nỏ thần, không nói tới việc ông tự vẫn chết theo Mỵ Châu.

20. Kiệng kỵ ở Cổ Loa hiện nay là gì?

Ở Cổ Loa hiện nay có tục kiêng nuôi gà trắng, tục đãi dâu không đãi rể, tục kiêng tên Phán gọi chệch thành Phớn.
Những phong tục địa phương này còn mang nặng thái độ về luân lý đạo đức. Chẳng hạn người dân địa phương biểu lộ thái độ khinh bỉ sự phản phúc của Trọng Thủy trong tục đãi dâu không đãi rể như người con rể không được tự do ăn nằm với vợ ở nhà bố mẹ vợ, người ta sợ rằng như vậy sẽ làm ăn xúi quẩy vì quan niệm rằng chính vua Thục xưa quá tin Trọng Thủy cho ở rể nên sau này mất nước.

Huế, ngày 5/6/2013

Nguyễn Văn Toàn
Số lần đọc: 5428

Wednesday, 5 August 2015

Xung quanh câu chuyện nỏ thần (Trịnh Sinh - Biên Phòng)

24/04/2013 14:56
Nước Âu Lạc của An Dương Vương vừa ra đời đã phải chống chọi với cuộc xâm lược của Triệu Đà. Cuộc chiến với Triệu Đà được coi là cuộc chiến đầu tiên bảo vệ lãnh thổ. Trong cuộc chiến bi hùng đó, nổi lên vị tướng tài Cao Lỗ với vũ khí nỏ thần vô cùng lợi hại.
Cao Lỗ có thư tịch chép là Cao Nỗ. Thư tịch và truyền thuyết kể lại, ông quê ở thôn Đại Trung, xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây vẫn còn đền thờ ông. Trong Đại Việt sử ký toàn thư, có viết: “Rùa vàng bèn trút chiếc móng trao cho An Dương Vương và nói: Nước nhà yên hay nguy đều do số trời, nhưng người cũng nên phòng bị; nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn thì không phải lo gì. An Dương Vương sai bề tôi là Cao Lỗ làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ”.
Với trọng trách vua trao cho, Cao Lỗ đã chế tạo ra được nỏ thần. Theo thư tịch ghi lại thì nỏ này - một phát bắn ra làm cho vạn người chết. Có sách thì cho rằng, một phát giết hai trăm giặc. Rõ ràng điều này chứng minh rằng, đây là một vũ khí tiên tiến nhất thời đại bấy giờ. Nếu nói theo ngôn ngữ quân sự, thì Cao Lỗ là vị tướng quân khí đầu tiên trong lịch sử dựng nước của dân tộc, có công lao rất lớn. Bởi vậy, mà cuộc hội thảo về ông ngày 16-1-2013, tại Bảo tàng Lịch sử quốc gia đã được Chủ tịch nước Trương Tấn Sang và khá nhiều vị tướng quân đội đã bạc đầu tham dự. Trong hội thảo này, có khá nhiều tham luận của nhiều ngành khoa học khác nhau cùng đánh giá về tướng tài Cao Lỗ. Ngoài công lao chế tạo ra nỏ, không những vinh danh cho tộc người Lạc Việt, ông còn có công khuyên giải An Dương Vương kế sách chống giặc phương Bắc, nhưng không được tin dùng. 
 
Mũi tên đồng 3 cạnh và nỏ thần.
Qua câu chuyện kể trong Đại Việt sử ký toàn thư về công lao, số phận của Cao Lỗ, có nhiều bài học được rút ra trong cuộc hội thảo. Đó là bài học sử dụng nhân tài của An Dương Vương: Giá mà không nghe lời xiểm nịnh, giữ lại người tài thì có lẽ lịch sử đã có những bước đi khác; giá mà không có việc để mất lẫy nỏ thần vào tay giặc trong vụ án tình Mỵ Châu - Trọng Thủy thì xã tắc không đến nỗi “cơ đồ đắm bể sâu”. Nhưng trên hết, đó là bài học phải dựa vào dân, chứ không phải bằng vũ khí cũng như thành cao, hào sâu.
Câu chuyện kể về vị tướng tài Cao Lỗ đã hơn hai ngàn năm qua, nhưng mỗi người dân đất Việt vẫn luôn tưởng nhớ đến ông. Theo thống kê, riêng quê hương Cao Đức của ông cũng đã có 8 làng lập đền thờ. Hằng năm, vào mùng 10 tháng 3 âm lịch (trùng với ngày Giỗ tổ Hùng Vương), cả 8 làng rước kiệu, bài vị về làng mở hội. Các triều đại phong kiến cũng đã chính thức ban 22 đạo sắc phong cho tướng Cao Lỗ. Sắc phong sớm nhất có niên đại năm 1796, thời Lê Trung Hưng và muộn nhất năm 1924, thời Nguyễn. Cùng với thờ tự là lễ hội liên quan đến nghiệp võ như “múa mo, múa mộc”, “múa bông đánh bệt”, võ vật...
Khảo cổ học đã chứng minh được cái lõi sự thật của câu chuyện Cao Lỗ và nỏ thần. Lẫy nỏ đã được phát hiện trong thời gian này, làm bằng đồng thau trong văn hóa Đông Sơn. Cùng với lẫy nỏ là mũi tên đồng 3 cạnh, sắc bén, có sức sát thương cao. Thậm chí, có cả một kho tên đồng ở địa điểm Cầu Vực ven sông Hoàng Giang, gần chân thành ngoại. Từ các di vật có thực là tên và nỏ, đã chứng minh đây là vũ khí độc đáo của người Việt. Thứ vũ khí ghê gớm ấy đã được “thiêng hóa”, “phóng đại hóa” trong truyền thuyết và cả thư tịch, đủ biết cái sự khiếp sợ của kẻ địch đối với thứ vũ khí do người Việt sáng tạo ra sao. Qua hiện vật khai quật được ngày nay, có thể chứng minh số lượng tên bắn ra một lúc ít ra là 2 chiếc. Truyền thống tạo ra cung tên của người Việt còn sớm hơn thời Cao Lỗ đến gần 2.000 năm với những mũi tên bằng đá của văn hóa Phùng Nguyên.
Cái kho chứa hàng vạn mũi tên Cầu Vực, nằm ở ngoài thành Cổ Loa, ven sông Hoàng Giang, đã chứng tỏ người Việt có cách đánh phòng thủ từ xa, từ ven sông (có tác dụng như hào thành tự nhiên) để kết hợp với thủy chiến, cũng là một thế mạnh của chiến tranh sông nước mà hình các chiếc thuyền lớn trên trống đồng đã cho thấy điều này. Khảo cổ học cũng chứng minh thời của tướng Cao Lỗ, rùa là loài vật thiêng, có thắt lưng của thủ lĩnh được gắn 8 tượng rùa (di tích Làng Cả, Việt Trì). Xương rùa tìm thấy nhiều trong các làng cổ. Có lẽ vì thế mà rùa đã được “thiêng hóa” thành thần Kim Quy (rùa vàng) giúp An Dương Vương xây thành, lại trao móng cho tướng Cao Lỗ để chế tạo nỏ thần.
Hai ngàn năm trôi qua, nhưng lịch sử và truyền thuyết về Cao Lỗ, về nỏ thần, về rùa vàng vẫn còn quyện vào nhau. Thế mới biết, người Việt có một đời sống văn hóa tinh thần vô cùng phong phú, gắn liền với đạo lý “uống nước nhớ nguồn”, luôn khắc sâu ghi nhớ công lao của tiền nhân đối với Tổ quốc.
PGS.TS Trịnh Sinh

Monday, 3 August 2015

Truyện Mỵ Châu-Trọng Thủy có những chi tiết hoang đường? (Nguyễn Văn Toàn - Giáo Dục)


Truyện Mỵ Châu-Trọng Thủy có những chi tiết hoang đường?

(GDVN) - Trong truyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, khi An Dương Vương bị quân Nam Hán truy đuổi, thần Kim Quy đã nổi lên và nói: “Giặc ở sau lưng nhà vua đó”. An Dương Vương nghe thấy liền rút kiếm chém đầu Mỵ Nương. Với hành động này, An Dương Vương rõ ràng đã xem con gái Mỵ Nương là giặc.

LTS: Trước thực trạng nhiều người cho rằng sách giáo khoa hiện nay không tường minh tên giặc, TS báo Giáo dục Việt Nam đã nhận được khá nhiều ý kiến phản hồi theo nhiều chiều hướng khác nhau. Để rộng đường cho dư luận, chúng tôi trích đăng bức thư của độc giả Nguyễn Văn Toàn (Phú Hiệp, TP Huế).

Mơ hồ về tên giặc

SGK và kể cả giáo trình đại học & cao đẳng môn lịch sử Việt Nam đều có ghi chép chuyện Thánh Gióng đánh đuổi giặc Ân vào thời Hùng Vương. Vậy giặc Ân là giặc nào? Điều này cho đến nay vẫn chưa xác định được một cách chính xác.

Trong cuốn “Đại Việt Sử Ký Toàn thư Quyển I do Ngô Sỹ Liên biên soạn) có viết: “Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang. Đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn”. 

Rõ ràng, nếu cương vực Văn Lang bao trọn lãnh thổ cư trú của Bách Việt (phía nam sông Dương Tử trở xuống) thì giặc Ân có thể là triều Ân Thương của Trung Quốc. Bởi Văn Lang với cương giới phía bắc gần với Ân Thương của tộc người Hán. Như vậy, tất nhiên phải chịu họa xâm lấn từ triều đại này.
Giặc Ân vẫn chưa được xác định một cách chính xác.

Thiết nghĩ, những người biên soạn SGK và giáo trình đại học & cao đẳng nên nghiên cứu sâu hơn về vấn đề cương vực của Nhà nước Văn Lang để gọi cho đúng tên lũ giặc xâm lược bị Thánh Gióng đuổi đánh. Chứ không nên gọi giặc Ân là một thứ giặc “huyền thoại” theo kiểu cái gì mơ hồ thì… tạm gác lại và đưa vào chú thích.

“Bỏ qua” nhiều loại giặc

Nếu tìm hiểu kỹ, nhiều loại giặc khác trong thời cổ đại của dân tộc như Đế Lai và Thục Phán cũng không được SGK đề cập đến. Đây là “lỗ hổng” đáng tiếc cho lịch sử Việt Nam và khiến người học thụ động tiếp thu kiến thức một chiều theo kiểu “dạy gì, hiểu nấy” hay theo kiểu “sau này lớn rồi sẽ biết”.

Trong truyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy”, khi An Dương Vương bị quân Nam Hán truy đuổi, thần Kim Quy đã nổi lên và nói: “Giặc ở sau lưng nhà vua đó”. An Dương Vương nghe thấy liền rút kiếm chém đầu Mỵ Nương.

Với hành động này, An Dương Vương rõ ràng đã xem con gái Mỵ Nương là giặc. Nhưng đây là sự bao biện và cay cú của An Dương Vương khi thất trận. Đáng tiếc là trong suốt hai ngàn năm, khi nhắc đến câu chuyện này dân gian và kể cả SGK lại thêu dệt những điều hoang đường như ngọc trai biển Đông rửa tại Giếng Ngọc (nơi Trọng Thủy tự vẫn) thì ngọc sáng bội phần để chứng minh cho tính trong sạch của Mỵ Châu.

Thật ra, chỉ cần chứng minh rõ trách nhiệm Mỵ Châu đến đâu trong việc mất nước Âu Lạc vào tay Triệu Đà là đủ. Không nên sử dụng những điều hoang đường để chứng minh. Điều này khiến cho trẻ em khi học đến truyện này cảm thấy như muốn chứng minh một sự thật nào đó thì nhất thiết phải đầu rơi, máu chảy.
Quá khứ là giá đỡ và chiếc la bàn định vị cho hiện tại và tương lai. Một dân tộc không tường minh quá khứ của chính mình, dân tộc ấy không thể biết được mình đang đứng ở đâu trong cái thế giới vốn không có điểm chung về văn hóa – lịch sử. 

Do đó, việc xác định đúng và đủ tên giặc trong lịch sử cổ đại Việt Nam tuy là một vấn đề chỉ đơn thuần là “xác định” nhưng cũng chẳng phải là vấn đề dễ dàng. Chẳng hạn Đế Lai tuy là rõ ràng là giặc, cai trị tàn bạo Lĩnh Nam và bị Lạc Long Quân đánh đuổi nhưng lại là cha của Đức Mẹ Âu Cơ nên sử sách ta đã bỏ qua và không nhắc đến. Bên cạnh đó, do Thục Phán là vua Âu Lạc, được công nhận là một triều đại Việt Nam nên chẳng sử sách nào nói thẳng về việc nhân vật này đã xâm lược Văn Lang cũng như sự cai trị tàn bạo của vị vua này.

Truyện “Mỵ Châu – Trọng Thủy” được dân gian thêu dệt nhiều chi tiết hoang đường.

Hay như Mỵ Châu rõ ràng không phải là giặc. Nhưng Thần Kim Quy lại bảo là giặc và An Dương Vương tin theo. Điều đó có nghĩa mọi việc đều do An Dương Vương và hậu nhân sau này của nhân vật này bày vẽ ra để bao biện cho sự thất bại, nhưng suốt hai ngàn năm chẳng ai chú ý đến chi tiết này. Bởi không có chuyện là thánh thần mà không biết rõ sự tình và không trừng trị An Dương Vương vì những gì nhân vật này đã gây ra. Ngược lại Mỵ Châu vừa mang tiếng là giặc vừa phải chịu cái chết thương tâm. Như thế là sự công bằng chăng?
Thậm chí, nhiều sử sách còn cho rằng Triệu Đà cũng được xếp vào hàng vua nước Việt và nhiều vùng ở phía Bắc còn thờ Triệu Đà và Trọng Thủy. Như vậy, nếu theo quan điểm “thắng làm vua, thua làm giặc” thì không phải An Dương Vương sau khi thất trận là giặc hay sao? Nếu đã gọi Triệu Đà xâm lược Âu Lạc là giặc thì tại sao không gọi An Dương Vương là giặc? Bởi hai nhân vật này đều là “ngoại tộc” so với dân tộc Việt (một Khương, một Hán).
Do đó, đừng nói là việc quên nêu tên giặc sẽ gây ra hệ lụy lớn mà ngay cả việc xác định không xác đáng vấn đề “ai là vua, ai là giặc” cũng có thể làm méo mó đi lịch sử của dân tộc vốn còn nhiều sự hồ nghi, mơ hồ

Sunday, 2 August 2015

Hội thảo “Cao Lỗ - danh tướng thời dựng nước” (Khánh Huyền - Quân Đội Nhân Dân)

Hội thảo “Cao Lỗ - danh tướng thời dựng nước”
QĐND - Thứ tư, 16/01/2013 | 14:29 GMT+7
QĐND Online – Hội thảo “Cao Lỗ - danh tướng thời dựng nước” đã tập trung làm sáng tỏ những cống hiến, thân thế, sự nghiệp và đóng góp của danh tướng Cao Lỗ đối với dân tộc Việt Nam, do Bộ VH,TT&DL và Tỉnh ủy, UBND tỉnh Bắc Ninh; Hội Khoa học lịch sử Việt Nam tổ chức vào ngày 16-1, tại Hà Nội. Đến dự hội thảo có Chủ tịch nước Trương Tấn Sang; Thượng tướng Nguyễn Văn Rinh – nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng; Trung tướng Võ Văn Tuấn – Phó Tổng Tham mưu trưởng QĐND Việt Nam và nhiều đại biểu.
Phát biểu tại Hội thảo, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang nhấn mạnh: “Tôi cho rằng, đây một cuộc hội thảo rất có ý nghĩa, là dịp để tôn vinh, thể hiện lòng biết ơn đối với các bậc tiền nhân đã có công trong lịch sử dựng nước, giữ nước của dân tộc, đồng thời rút ra những bài học lịch sử cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta ngày nay. Tôn vinh công đức của Tướng quân Cao Lỗ, của những bậc tiền nhân có công với dân, với nước là đạo lý truyền thống của dân tộc ta, là nền tảng văn hóa tinh thần làm nên sức mạnh vô địch, sức sống trường tồn của đất nước ta”.
Nói về công lao của bậc tiền nhân này, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang khẳng định: Cao Lỗ Vương là một Danh tướng đã giúp Vua Thục Phán – An Dương Vương dựng nên nhà nước Âu Lạc, đã hiến kế với nhà vua dời Đô xuống đồng bằng và giúp nhà Vua xây thành Cổ Loa; đã chế ra Nỏ Liên Châu, được xem là “nỏ thần” “linh quang thần cơ” – vũ khí thần dũng vô địch để giữ nước Âu Lạc với lời nói được truyền tụng “Giữ được nỏ thần thì giữ được thiên hạ, mất nỏ thần sẽ mất cả thiên hạ”. Người có tầm nhìn xa, tỉnh táo, cảnh giác và đầy bản lĩnh để can ngăn nhà Vua không sa vào quỷ kế của kẻ thù, dù vì điều đó mà bị Vua xa lánh. Nhưng khi đất nước bị xâm lược, Tổ quốc lâm nguy, Người lại ra phò Vua cứu nước, tử tiết trước trận tiền, để lại danh thơm muôn thuở cho hậu thế. Danh tướng Cao Lỗ là một vị anh hùng dân tộc, biểu tượng của bản lĩnh, trí tuệ và sức mạnh Việt Nam trong thời đầu dựng nước, được nhân dân ta sùng kính, thờ phụng ở nhiều nơi trong suốt hàng nghìn năm lịch sử. 
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang phát biểu tại Hội thảo “Cao Lỗ - danh tướng thời dựng nước”
Theo Giáo sư Phan Huy Lê – Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, Cao Lỗ là người kiên quyết chống ngoại xâm, có tầm xét đoán tinh tường, thấy rõ âm mưu của Triệu Đà, đã từng khuyên can nhà vua không được mắc mưu kẻ thù. Nhưng rất tiếc là An Dương Vương đã bị những mưu toan quỷ quyệt của đối phương làm cho mất cảnh giác, lại bị nội thần gièm pha, đuổi Cao Lỗ và Nồi Hồi ra khỏi kinh thành. Khi thành Cổ Loa bị quân Triệu vây hãm và tấn công, Cao Lỗ và Nồi Hồi lại tự nguyện trở lại tham gia chiến đấu. Theo truyền thuyết vùng Cổ Loa thì Cao Lỗ đã hy sinh trong trận chiến ở Cửa Bắc và đến nay, tại khu vực này vẫn còn ngôi miếu thờ vị danh tướng trung thành, quả cảm được nhân dân đời đời tôn vinh. Cũng có truyền thuyết nói Cao Lỗ bị thương nặng, nhưng ôm đầu chạy qua Ái Mộ (Bồ Đề, Long Biên, Hà Nội) về đến Lục Đầu mới chết. Từ thời Trần, vị danh tướng họ Cao đã được phong là Quả Nghị Cương Chính Uy Huệ Vương.
Nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc chế tạo, sử dụng vũ khí cung nỏ thời An Dương Vương, PGS.TS Lê Đình Sỹ-Đại tá, nguyên Phó Viện trưởng Viện Lịch sử Quân sự Việt Nam cho biết: Điều quan trọng nhất để tạo nên sức thần của nỏ Liên Châu chính là Cao Lỗ đã biết kỹ thuật chế ra những chiếc lẫy nỏ có chốt giữ liên hoàn để có thể một lần bóp cò bắn ra nhiều mũi tên xé gió có sức xuyên tốt, không những giết được nhiều giặc mà còn làm cho chúng khiếp sợ, quân địch rối loại, tan rã. Đó là điều bí mật thứ binh khí do Cao Lỗ sáng chế. Chế tạo thành công và sử dụng có hiệu quả nỏ Liên Châu là một trong những cống hiến lớn nhất của danh tướng Cao Lỗ trong sự nghiệp giữ nước thời An Dương Vương.
“Câu chuyện lịch sử về thời kỳ An Dương Vương nói chung và về danh tướng Cao Lỗ nói riêng mãi mãi còn được truyền tụng trong Truyện Rùa vàng (hay còn gọi là Truyện Mỵ Châu- Trọng Thủy)- một trong những sử thi dân gian Việt Nam nổi tiếng. Nội dung của truyện này là một bi kịch lịch sử, ấy là việc An Dương Vương đã lầm lỡ trúng vào kế ly gián của kẻ thù và tin vào những lồi sàm tấu của gian thần, rồi xa lánh, đày đọa những bậc nhân tài như danh tướng Cao Lỗ”, PGS.TS Nguyễn Minh Tường - Viện Sử học Việt Nam cho biết.
Bao quanh nhân vật Cao Lỗ còn nhiều huyền thoại, truyền thuyết thần thánh hóa một nhân vật được cộng đồng nhân dân quý mến, tôn thờ.
Những kết quả khai quật khảo cổ học trên đất Cổ Loa đã cung cấp nhiều thông tin khoa học để giải mã những bí ẩn của huyền thoại. Một hố mũi tên đồng Cổ Loa với hàng vạn chiếc được tình cờ phát hiện ở khu vực Cầu Vực năm 1959. Những dấu tích trong quá trình khai quật ở khu vực phía sau đền An Dương Vương đã tìm thấy cả một hệ thống lò đúc mũi tên đồng với những khuôn đúc ba mang bằng đá.
Thành Cổ Loa kiên cố, mũi tên đồng lợi hại, lực lượng chiến đấu mạnh nhưng bị hãm vào thế bao vây, bị tách khỏi nhân dân thì cuộc chiến đấu bị cô lập và thất bại là khó tránh khỏi. Những sai lầm của Vua Thục Phán – An Dương Vương là bài học về nhận thức đối với kẻ xâm lược, sử dụng người hiền tài.
Bài, ảnh: KHÁNH HUYỀN 

Saturday, 1 August 2015

Chuyện tìnhTrọng Thủy - Mỵ Châu (Lê Phước RFI)


Trọng Thủy - Mỵ Châu và bài học cảnh giác xâm lược
Chuyện tìnhTrọng Thủy - Mỵ Châu DR


    «Tôi kể người nghe chuyện Mỵ Châu», xin mượn câu thơ nổi tiếng này của nhà thơ Tố Hữu để bắt đầu một câu chuyện mang đẫm màu sắc huyền thoại của lịch sử Việt Nam trong buổi đầu dựng nước : Chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu. Cũng như tất cả các dân tộc trên thế giới, lịch sử Việt Nam thường có những câu chuyện mang màu sắc huyền thoại. 

    Đó chính là một trong những phần tinh túy và thiêng liêng nhất, nó góp phần tạo nên một sợi dây vô hình buộc chặt tâm hồn con người vào đất nước quê hương mình. Thế nhưng, giá trị lớn nhất của lịch sử là « ôn cố tri tân », tức để cho hậu thế xem xét mà rút ra những bài học kinh nghiệm cho cuộc sống. Trong chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu, gấp sách lại, xin đừng tự hỏi rằng có những chỗ đáng tin hay không đáng tin, mà điều quan trọng là nên tự hỏi rằng : Câu chuyện đó muốn kí thác điều gì cho hậu thế ?
    Chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu gắn liền với lịch sử ngàn năm Bắc Thuộc của nước Việt Nam thuở trước, bởi sự kiện An Dương Vương mất nước đã bắt đầu thời kỳ Bắc thuộc của lịch sử Việt Nam. Câu chuyện này được sách sử ghi lại như thế nào ?
    Đại Việt sử ký toàn thư thời Hậu Lê
    Đầu tiên đến với bộ Đại Việt sử ký toàn thư, là bộ quốc sử bằng chữ Hán viết theo thể biên niên, ghi chép lịch sử Việt Nam từ thời Kinh Dương Vương năm 2879 trước Công nguyên (TCN) đến năm 1675 đời vua Lê Gia Tông nhà Hậu Lê (1428-1879). Bộ sử này được khắc in toàn bộ và phát hành lần đầu tiên vào năm Đinh Sửu, niên hiệu Chính Hoà năm thứ 18, triều vua Lê Hy Tông, tức là năm 1697, được xem là bộ chính sử Việt Nam xưa nhất còn tồn tại nguyên vẹn đến ngày nay, do nhiều đời sử quan trong Sử quán triều Hậu Lê biên soạn.
    Về chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu, Đại Việt sử ký toàn thư chép như sau: “ Bấy giờ Thục Vương đắp thành ở Việt Thường, rộng nghìn trượng, cuốn tròn như hình con ốc, cho nên gọi là Loa Thành (Nay còn di tích ở huyện Đông Anh, Hà Nội), lại có tên là thành Tư Long (người nhà Đường gọi là thành Côn Lôn (Côn Lôn: Tên dãy núi Trung Quốc ở miền Tân Cương - Tây Tạng, vì thành rất cao). Thành này cứ đắp xong lại sụt, vua lấy làm lo, mới trai giới khấn trời đất và thần kỳ núi sông, rồi khởi công đắp lại.
    Bính Ngọ, năm thứ 3 (255 TCN), mùa xuân, tháng 3, chợt có thần nhân đến cửa thành, trỏ vào thành, cười mà nói rằng: " Đắp đến bao giờ cho xong! ". Vua mời vào điện hỏi, thần nhân trả lời:" Cứ đợi giang sứ đến ". Rồi cáo từ đi ngay.
    Sáng hôm sau, vua ra cửa thành, quả thấy có con rùa vàng bơi trên sông từ phía đông đến, xưng là giang sứ, nói được tiếng người, bàn được việc tương lai. Vua mừng lắm, để vào mâm vàng, đặt mâm lên trên điện. Vua hỏi về nguyên nhân thành sụp, rùa vàng đáp: " Đó là do tinh khí núi sông vùng này bị con vua trước phụ vào để báo thù nước, nấp ở núi Thất Diệu. Trong núi có con quỷ, đó là người con hát thời trước chôn ở đấy hóa làm quỷ. Cạnh núi có cái quán, chủ quán tên là Ngộ Không, có một đứa con gái và một con gà trắng, đó là dư khí của tinh, phàm người qua lại, ngủ đêm ở đấy, đều phải chết vì bị quỷ làm hại. Chúng có thể gọi nhau họp đàn lũ, làm cho sụp thành. Nếu giết con gà trắng để trừ tinh khí ấy, thì thành tự nhiên được bền vững ». Vua đem rùa vàng đến quán ấy, giả làm người ngủ trọ. Chủ quán nói : " Ngài là quý nhân, xin đi ngay, chớ lưu lại đây mà bị họa". Vua cười nói : "Sống chết có mệnh, ma quỷ làm gì nổi ?  ".
    Rồi ngủ lại quán. Đến đêm nghe tiếng tinh quỷ từ ngoài đến gọi mở cửa, rùa vàng liền quát mắng, quỷ không vào được, đến khi gà gáy thì lũ quỷ tan chạy hết. Rùa vàng xin vua đuổi theo. Tới núi Thất Diệu thì tinh khí biến mất, vua trở về quán. Sáng sớm, chủ quán tưởng vua đã chết rồi, gọi người đến để khâm liệm đem chôn. Thấy vua vẫn vui vẻ cười nói, chủ quán liền sụp lạy nói: " Ngài làm sao được như thế, tất phải là thánh nhân! ". Vua xin con gà trắng giết để tế. Gà chết, con gái chủ quán cũng chết theo. Vua liền sai người đào núi, thấy có nhạc khí cổ và xương người, đem đốt thành tro, rải xuống sông, yêu khí mới mất hẳn.
    Từ đấy, đắp thành không quá nửa tháng thì xong. Rùa vàng cáo từ ra về. Vua cảm tạ, hỏi rằng:" Đội ơn ngài thành đắp đã vững, nếu có giặc ngoài đến, thì lấy gì mà chống giữ ? " Rùa vàng bèn trút chiếc móng trao cho vua và nói: " Nước nhà yên hay nguy đều do số trời, nhưng người cũng nên phòng bị; nếu có giặc đến thì dùng móng thiêng này làm lẫy nỏ, nhằm vào giặc mà bắn thì không phải lo gì  ". Vua sai bề tôi là Cao Lỗ (có sách chép là Cao Thông) làm nỏ thần, lấy móng rùa làm lẫy, đặt tên là Linh Quang Kim Trảo Thần Nỏ”.

    Các bộ sử sau Đại Việt sử ký toàn thư
    Đại Việt Sử ký toàn thư đã ghi lại câu chuyện như vậy, và các thế hệ sử gia đời sau cũng tiếp nối, ghi lại câu chuyện nhuốm màu thần thoại này một cách tương tự.
    Một bộ sử đồ sộ khác của Việt Nam ra đời hồi thế kỷ 19 là Khâm định Việt Sử Thông Giám Cương mục do Quốc sử quán Triều Nguyễn (1802-1945) biên soạn chép rằng: “ Tháng ba, Năm Bính Ngọ 255 TCN,Thục An Dương Vương năm thứ 3, đắp xong Loa thành. Vua Thục đắp thành ở Phong Khê, rộng đến nghìn trượng, xoáy tròn như hình trôn ốc, nên gọi là Loa thành, lại gọi là thành Tư Long ”.
    Đi vào chi tiết, chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu được ghi lại trong bộ sử này không có gì khác biệt so với bộ Đại Việt Sử ký toàn thư ra đời cách đó hai thế kỷ. Thế nhưng, có một nét đáng chú ý là các sử gia triều Nguyễn, khi kể lại câu chuyện này, đã ghi rất rõ : Chép theo sử cũ, mà sử cũ cụ thể là sử nào thì họ không nói rõ. Điều đó muốn nói rằng, dù câu chuyện có nhiều chi tiết hư cấu, nhưng các sử gia này xin chép lại « theo sử cũ » để cho hậu thế được biết.
    Đến bộ Việt Sử Tiêu Án ra đời năm 1775 của Ngọ Phong Ngô Thì Sĩ, chuyên bàn luận về những câu chuyện lịch sử còn nhiều nghi vấn, thì câu chuyện xây thành Cổ Loa và nỏ thần được ghi lại giống y như chuyện của Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, nhưng cũng dẫn chuyện bằng ba chữ: “ Sử cũ chép…”, và còn thể hiện quan điểm rõ ràng về những chi tiết không có thật: “ Việc ma làm đổ thành, có thể tin được không? Phàm vật gì trái thường thì gọi là yêu, yêu khí thắng thì tất phải có nương tựa vào cái gì đó, nhưng mà nương tựa vào con gà và người con gái mà làm đổ được thành, thì không có lẽ nào ”.
    Năm 1919, Lệ Thần Trần Trọng Kim làm quyển Việt Nam Sử Lược, dành một chương cho Nhà Thục của Thục Phán An Dương Vương, trong đó cũng ghi lại câu chuyện Thục Phán An Dương Vương xây thành Cổ Loa, rồi đến chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu, với nội dung cũng không có gì khác so với Đại Việt Sử Ký Toàn Thư. Tuy nhiên, sử gia Trần Trọng Kim cũng ghi rõ: “ Tục truyền rằng…”, đã cho thấy quá rõ ý của ông.
    Còn nhiều chi tiết cần khảo cứu thêm
    Không chỉ chuyện xây dựng Loa Thành và chuyện Nỏ Thần mang nhiều chi tiết khó tin, mà đến một số chi tiết trong chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu cũng còn cần phải khảo cứu thêm. Chẳng hạn như chi tiết quan trọng nhất thể hiện sự chung thủy trong mối tình này là việc Trọng Thủy nhảy xuống giếng chết để tạ tình của Mỵ Châu, cũng còn nhiều bàn cãi.
    Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trọng Thủy có người con trai là Triệu Hồ, sau này trở thành người nối ngôi Triệu Đà vào năm 137 TCN và qua đời năm 124 TCN ở tuổi 52. Căn cứ vào năm mất và số tuổi thọ được ghi, ta thấy Triệu Hồ sinh năm 175 TCN. Ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư về cuộc đời Trọng Thủy có chỗ không lô-gich: Một mặt Trọng Thủy được xác định chết khi diệt xong Âu Lạc vào năm 208 TCN, thế mà con trai ông lại sinh vào năm 175 TCN, tức sau khi ông mất đến 33 năm. Liệu ông có còn người con nào khác chăng? Theo khảo cứu của tác giả bài viết này, thì sách sử chỉ thấy nói đến người con trai mang tên là Triệu Hồ nói trên của Trọng Thủy.
    Sử ký của Tư Mã Thiên đời nhà Hán được viết từ năm 109 TCN đến 91 TCN cho biết, Nam Việt của Triệu Đà đánh bại Âu Lạc của Thục Phán An Dương Vương vào khoảng năm 179 TCN. Tuy vậy, nếu Trọng Thủy chết theo Mỵ Châu lúc này thì ông cũng không thể là cha của Triệu Hồ, vì khoảng cách từ khi ông qua đời tới khi Triệu Hồ ra đời là 4 năm. Còn nếu như giả thiết năm sinh của Triệu Hồ là 175 TCN là đúng, thì ta có thể xác định Trọng Thủy còn sống ít nhất tới năm 175 TCN chứ không tự sát vì Mỵ Châu vào năm 208 TCN.
    Mặt khác, qua kết quả khảo cổ mộ Triệu Văn Vương (cháu nội của Triệu Đà, là vua thứ hai của Nam Việt) được khai quật ở Quảng Châu thuộc Quảng Đông Trung Quốc, Triệu Hồ được xác định là người qua đời ở tuổi khoảng từ 35-40 tuổi, không phải là người ngoài 50 tuổi như ghi chép của Đại Việt sử ký toàn thư. Nếu Triệu Hồ mất năm 124 TCN và chỉ sống có 35-40 năm, thì Trọng Thủy còn sống ít nhất tới năm 164 TCN-159 TCN và mất trước năm 137 TCN (năm mất của Triệu Đà), chứ không phải mất vào cái năm đánh bại Âu Lạc 208 TCN, tức cũng không thể nhảy xuống giếng tạ tình Mỵ Châu cho được.
    Một chi tiết khác đáng chú ý nữa là, Khâm định Việt sử thông giám cương mục nhà Nguyễn chỉ nhắc tới việc Trọng Thủy lừa Mỵ Châu để phá nỏ thần, rồi theo dấu lông ngỗng mà truy sát cha con An Dương Vương, chứ không nói tới việc Trọng Thủy tự vẫn chết theo Mỵ Châu và cũng không nói tới tuổi thọ của Triệu Hồ.
    Bài học mất nước thời dựng nước
    Đến đây ta có thể thấy rằng, dù có bỏ qua những chi tiết huyền thoại không thể chứng minh, thì chuyện tình Trọng Thủy-Mỵ Châu vẫn còn nhiều chi tiết chưa thống nhất. Vậy thì các sử gia đời trước đã trang trọng chép lại chuyện tình đầy nét huyền thoại này với mục đích là để cho hậu thế có thể « ôn cố tri tân », ngẫm nghĩ việc xưa mà rút ra bài học cho cuộc sống hiện tại.
    Cũng cần nói thêm, hẳn không khỏi có những mối nghi ngại khi sử dụng tài liệu truyền thuyết. Thực ra, giới nghiên cứu đã nhiều lần có những phân tích đầy tính thuyết phục về giá trị sử liệu của truyền thuyết dân gian, đặc biệt đối với những giai đoạn lịch sử người Việt chưa có chữ viết như thời Hùng Vương - An Dương Vương. Như vậy, trong các truyền thuyết lịch sử, bao giờ bên trong vỏ bọc hoang đường thần thoại cũng chứa đựng cái cốt lõi chân thực của những sự kiện, những vấn đề lịch sử có thực.
    Vậy thì, khi bỏ qua những chi tiết phép màu, chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu chứa đựng những cốt lõi lịch sử nào ? Ở đây, có hai sự thực lịch sử được phơi bài : Chuyện cái nỏ của người Âu Lạc và chuyện An Dương Vương mất nước.
    Bàn về « nỏ thần » của người Việt, có lẽ vì người Việt khi ấy sử dụng rất hiệu quả vũ khí tên là «nỏ », bởi thế mà kẻ thù phương Bắc có phần khiếp sợ chăng ?
    Về vấn đề này, sử gia Trần Thị Mai, Phó giáo sư, Tiến sỹ lịch sử Việt Nam, trưởng Phòng sau đại học Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn thành phố Hồ Chí Minh, cho rằng :
    «Nỏ là vũ khí để săn bắn thú rừng làm nguồn thức ăn. Nỏ là vũ khí để tự vệ khi đi nương, đi rẫy, đi rừng. Nỏ là vũ khí để tự vệ chống xâm lăng. Trong cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược nhà Tần (214 - 208 TCN) và trong cuộc kháng chiến chống lại đội quân xâm lược của Triệu Đà (206-179 TCN), nỏ là ưu thế quân sự của người Việt. Để chống lại đội quân xâm lược của Triệu Đà, tướng sĩ Âu Lạc đã sử dụng nỏ liên châu, một loại nỏ đã được cải tiến có thể bắn được nhiều mũi tên cùng lúc. Nhờ đó, thành Cổ Loa đã được bảo vệ vững chắc trong hơn 20 năm trước sức tấn công của quận đội nhà Triệu. Kết quả khai quật khảo cổ học tại Cổ Loa bởi các nhà khảo cổ học Việt Nam vào năm 1959 đã tìm thấy lẫy nỏ và hơn 10.000 mũi tên đồng, minh chứng cho kỹ thuật chế tác nỏ và khả năng sử dụng nỏ cùng mũi tên đồng của quân dân Âu Lạc thuở ấy ».
    Như vậy, câu chuyện cái nỏ là có thật, « nỏ thần » trong truyền thuyết Trọng Thủy-Mỵ Châu là để chỉ tài dùng nỏ « thần kỳ » của người Âu Lạc. Đó là một thế mạnh quân sự của người Âu Lạc làm khiếp sợ kẻ thù. Và bí quyết của sức mạnh quân sự đó đã bị kẻ thù nắm được, dẫn đến họa mất nước.
    Sử gia Trần Thị Mai tổng kết bài học lịch sử đắt giá này như sau :
    « Nỏ liên châu và mũi tên đồng là có thật. Trọng Thủy là nhân vật có thật, đã từng tham chiến cùng cha của ông là Triệu Đà trên chiến trường Âu Lạc. Tuy nhiên, câu chuyện Nỏ thần và chuyện tình Mỵ Châu - Trọng Thủy lại mang đậm chất hư cấu, huyền sử. Người xưa sáng tạo nên những câu chuyện này là muốn nhắc nhở chính mình và hậu thế không bao giờ được quên bài học cảnh giác, nhất là cảnh giác trước những âm mưu xảo quyệt của các thế lực ngoại xâm. Bài học về nàng Mỵ Châu "nỏ thần sơ ý trao tay giặc", về vua An Dương Vương mất cảnh giác nhận giặc làm con rể để đến nỗi "cơ đồ đắm biển sâu" thời nào cũng còn nguyên giá trị của nó ».
    Đến đây ta có thể tóm lại rằng, câu chuyện Trọng Thủy-Mỵ Châu để lại cho hậu thế một bài học vô cùng quí giá, đó là « bài học cảnh giác trước kẻ thù xâm lược ». Và như sử gia Trần Thị Mai khẳng định, bài học này thời nào cũng còn nguyên giá trị của nó. Bởi thế, bao thế hệ sử gia Việt Nam đã trang trọng chép lại, để cho hậu thế nhìn vào mà « ôn cố tri tân ».
    Để thay lời kết, sau đây xin mượn bài thơ của thi sĩ Tố Hữu, những lời thơ mà mỗi người Việt Nam luôn phải xem là «câu kinh nhật niệm» để tự nhắc nhở mình : Đừng bao giờ chủ quan để mất cảnh giác trước kẻ thù xâm lược.
    " Tôi kể ngày xưa chuyện Mỵ Châu,
    Trái tim lầm chỗ để trên đầu.
    Nỏ thần vô ý trao tay giặc,
    Nên nỗi cơ đồ đắm bể sâu "
    .