Bàn thêm về một số thuật ngữ triết học, chính trị-xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài
PGS.TS. Nguyễn Tấn Hùng, Đại học Đà Nẵng
Tạp chí Triết học số 01 tháng 01 -2010
03:35′ CH – Chủ nhật, 28/03/2010
Bài viết của tôi “Về một số thuật ngữ triết học, chính trị-xã hội có nguồn gốc từ tiếng nước ngoài”
đăng trên Tạp chí Triết học, số 4, 4-2009 đã được một số trang web đăng
lại. Bài viết đã nhận được nhiều ý kiến nhận xét của độc giả, khen
nhiều nhưng chê thì cũng có. Nhìn chung các độc giả hoan nghênh và khuyến khích tôi tiếp tục nghiên cứu vấn đề này.
Trong bài viết này tôi đi sâu hơn về các
thuật ngữ chỉ tên và hình thức nhà nước; cách đặt tên của các học
thuyết, trường phái, qua đó làm rõ nguồn gốc của chúng, chỉ ra một số
bất cập trong việc phiên dịch các thuật ngữ này trong tiếng Việt. Tuy
biết rằng không thể thay đổi những thuật ngữ đã quá quen thuộc trong
tiếng Việt, nhưng việc tìm hiểu nguồn gốc, thực chất của chúng sẽ giúp
chúng ta tránh được cách hiểu đơn giản, sai lệch.như từ trước đến nay.
- Về các thuật ngữ chỉ tên và các hình thức nhà nước
Chúng tôi nhận thấy một số tên nhà nước
trên thế giới được dịch ra tiếng Việt thiếu chính xác, hoặc đã thay đổi
rồi nhưng chúng ta vẫn cứ gọi theo tên cũ.
Nước “Mỹ” là cách gọi không khớp với tên của nhà nước đó hiện nay là United States of America (USA).
Đây là một nhà nước liên bang gồm 50 tiểu bang hợp nhất lại. Từ
“states” có nghĩa là tiểu bang; “united” có nghĩa là thống nhất, hợp
nhất lại. Trong tiếng Việt, nước Mỹ còn có tên gọi là “Hoa Kỳ” (cờ hoa),
nhưng thực ra, lá cờ nước Mỹ gồm “sao và vạch” (stars and stripes) chứ
không phải là “hoa”. Trên lá cờ Mỹ có 13 vạch đỏ và trắng đại diện cho
13 xứ thuộc địa của Anh đã nổi dậy giành độc lập trong cuộc cách mạng
1776 và 50 ngôi sao năm cánh đại diện cho 50 tiểu bang hiện nay ở Mỹ.
Nhiều nhà nước trên thế giới được tổ
chức theo hình thức liên bang; tên nhà nước có thể có từ “liên bang”,
như Liên bang Nga, Cộng hoà Liên bang Đức, Cộng hoà Liên Bang Nigiêria…
Nhưng cũng có những nhà nước liên bang không dùng từ federation hoặc
federal mà dùng từ “united” (hợp nhất, thống nhất lại, cũng có nghĩa là
là liên bang, liên minh), như trường hợp United Sates, United Kingdom,
United Arab Emirates. “Unnited Kingdom” (UK), tên đầy đủ là “Unnited
Kingdom of Great Britain and Northern Irland”, tiếng Việt gọi là “Vương
quốc Anh”. Thật ra, nó không chỉ có nước Anh mà còn có ba nước khác nữa:
là Bắc Ailen, Xcôtlen (Scotland) và Wales. “Tiểu Vương quốc Ả rập Thống
nhất” (United Arab Emirates) là một liên bang gồm 7 tiểu vương quốc
(emirate) hợp nhất lại.
Nước “Dân chủ Hy Lạp” (tiếng Hy Lạp
phiên âm latin: Elleniki Demokratia) là tên gọi chính thức của nhà nước
này, nhưng trong nhiều thứ tiếng khác trên thế giới nó có tên gọi là
“Cộng hòa Hy Lạp” (tiếng Anh: Hellenic Republic). Dân chủ và cộng hòa có
gì khác nhau? Đây là những hình thức nhà nước trong lịch sử. Thuật ngữ
“dân chủ” (tiếng Anh: democracy, tiếng Hy Lạp phiên âm latin:
demokratia) bắt nguồn từ hai từ Hy Lạp: demos (nhân dân) và kratos (sự
cai trị, sức mạnh), gộp lại có nghĩa là sự cai trị của nhân dân. Thuật
ngữ “cộng hòa” (tiếng anh: republic) có nguồn gốc từ hai từ Hy Lạp “res”
(công việc) và “publika” (chung). Thuật ngữ này hàm ý: nhà nước cộng
hoà là “công việc chung”, khác với chế độ quân chủ (tiếng Anh: monarchy
có nguồn gốc tiếng Hy Lạp: monos (một) và arkhos (người cai trị). Cộng
hoà và dân chủ trong thời cổ đại Hy Lạp là hai hình thức nhà nước khác
nhau. Platôn phản đối nhà nước dân chủ Aten và chủ trương xây dựng một
nhà nước cộng hoà lý tưởng. Nhà nước cộng hoà của Platôn là “công việc
chung” của đẳng cấp nhà triết học, chứ không phải là công việc chung của
nhân dân, vì theo Platôn, số đông nhân dân thì không có tri thức để cai
trị nhà nước. Ngày nay, cộng hoà cũng có nghĩa là dân chủ, vì nhà nước
cộng hoà là công việc chung của nhân dân. Cộng hoà là hình thức nhà nước
phổ biến hiện nay trên thế giới, mặc dù có nhiều nước vẫn gọi nhà nước
của họ là “vương quốc”, hoặc chẳng dùng từ cộng hòa để gọi tên nhà nước
của họ.
- Về cách đặt tên cho một học thuyết, một trường phái
Để đặt tên cho một học thuyết, một trường phái triết học, chính trị-xã hội, người ta thường có mấy cách.
Cách đơn giản nhất là lấy tên người sáng
lập, có khi để nguyên tên cộng thêm đuôi “ism” (dịch ra tiếng Việt là
chủ nghĩa, đạo, giáo), như chủ nghĩa Marx (Marxism), chủ nghĩa Lênin
(Leninism), chủ nghĩa Mao (Maoism), chủ nghĩa Thomas (Thomism), Phật
giáo (Buddhism, xuất phát từ Buddha), v.v., hoặc biến danh từ riêng
thành tính từ rồi mới cộng thêm “ism” vào. Thí dụ, Khổng giáo (Confucius
(Khổng Tử) -> Confucian -> Confucianism), chủ nghĩa Cantơ (Kant
-> Kantian ->Kantianism), chủ nghĩa Hêghen (Hegel -> Hegelian
-> Hegelianism), v.v..
Cách phổ biến thứ hai trong việc đặt tên
cho một học thuyết và cũng là cách gây ra lắm sự rắc rối cho người
nghiên cứu là lấy khái niệm trung tâm trong học thuyết đó để đặt tên cho
nó. Thí dụ, Đạo gia là một trường phái triết học ở Trung Quốc cổ đại do
Lão Tử sáng lập; khái niệm trung tâm của học thuyết này là “Đạo”. Khái
niệm này thật khó phiên dịch, nên ngay cả phương Tây cũng phải gọi nó là
Daoism hoặc Taoism.
Trong triết học, chính trị học, xã hội
học hiện đại, khi đặt tên cho học thuyết của mình, tác giả của nó tìm
một thuật ngữ phản ánh được bản chất của học thuyết đó. Do đó chúng tôi
nhấn mạnh rằng việc tìm hiểu và giải thích đúng tên của một học thuyết
hay trường phái có vai trò vô cùng quan trọng trong việc nghiên cứu cũng
như giảng dạy học thuyết đó.
Vì không hiểu khía cạnh này nên nhiều
người nghiên cứu và giảng dạy thường ít quan tâm đến tên của học thuyết
đó, hoặc chỉ thỏa mãn với cái tên đã được dịch ra tiếng Việt mà không
cần quan tâm tìm hiểu nguồn gốc của thuật ngữ.
Thuật ngữ “Pragmatism” là do tác giả của
nó Charles Sander Peirce đặt ra. Ông dùng thuật ngữ này có một hàm ý
sâu xa của nó. Ta hãy nghe lời phân tích của William James, một trong ba
nhà sáng lập chủ nghĩa thực dụng, người đã biến chủ nghĩa thực dụng
thành học thuyết lý luận. Trong bài giảng của mình: “What Pragmatism
Means” (Chủ nghĩa thực dụng có nghĩa là gì?), James viết:
“Một cái nhìn sơ qua về lịch sử của tư
tưởng này sẽ giúp bạn hiẻu tốt hơn thế nào là chủ nghĩa thực dụng. Thuật
ngữ này bắt nguồn từ tiếng Hy Lạp “pragma”, có nghĩa là hành động, nó
là nguồn gốc của các từ “thực tiễn”, “thực tế” của chúng ta. Thuật ngữ
này lần đầu tiên được đưa vào triết học bởi ông Charles Peirce năm
1878”. (1)
Chủ nghĩa thực dụng là một trào lưu
triết học ra đời nhằm chống lại các hệ thống triết học duy tâm, kinh
viện, giáo điều trước đây. Nó nhấn mạnh vai trò của hành động, của thực
tiễn, của kinh nghiệm, của hiệu quả thực tế chứ không phải là của lý
luận suông, của những cái trừu tượng, không tưởng, xa rời thực tế.
William James nói:
“Nhà thực dụng đại diện cho một thái độ
hoàn toàn quen thuộc trong triết học, thái độ kinh nghiệm chủ nghĩa,
nhưng hình như đối với tôi, nó đại diện cho thái độ này dưới hình thức
vừa triệt để hơn, vừa ít bị phản đối hơn. Nhà thực dụng kiên quyết và
vĩnh viễn quay lưng lại với một loạt những thói quen thâm căn cố đế của
các nhà triết học chuyên nghiệp. Anh ta xa lánh với sự trừu tượng và sự
thiếu bằng chứng, với những giải pháp câu chữ, những lý lẽ tiên nghiệm,
với những nguyên lý cố định, những hệ thống khép kín, với những cái được
cho là tuyệt đối, là bản nguyên. Nó hướng tới tính cụ thể, sự đầy đủ
bằng chứng, tới những sự kiện thực tế, tới hành động, tới sức mạnh”. (2)
Ở nước ta, vì không có điều kiện tiếp
xúc trực tiếp với lý luận của học thuyết này, chỉ hiểu qua trung gian
các từ điển, các sách được viết ra trong thời kỳ bao cấp ở Liên Xô và
các nước xã hội chủ nghĩa trước đây nên chủ nghĩa thực dụng chỉ được
hiểu ở khía cạnh tiêu cực của nó (tất nhiên, chủ nghĩa thực dụng có mặt
tiêu cực của nó), như là “chỉ biết có lợi nhuận”, “lợi ích vật chất
trước mắt, không quan tâm đến những mặt khác”, v.v., nhưng mặt tích cực
của nó là chống lại tư biện, giáo điều, ảo tưởng, xa rời thực tế; đề cao
kinh nghiệm, hiệu quả thực tế … thì không được biết đến. Cần nhắc lại
rằng khi gọi tên một học thuyết, chúng ta phải trung thành với tên gốc
của nó, không được tự tiện đặt ra một tên khác để gọi học thuyết đó theo
cách hiểu sai về thực chất của học thuyết đó, thí dụ, pragmatism (chủ
nghĩa hành động, triết học thực tiễn) thì gọi là “chủ nghĩa thực dụng”,
conservatism (chủ nghĩa bảo tồn) thì gọi là “chủ nghĩa bảo thủ”,
communism (chủ nghĩa cộng đồng) thì gọi là “chủ nghĩa cộng sản”, v.v..
Thuật ngữ “chủ nghĩa hiện sinh” bắt
nguồn từ tiếng latin “existentia” do chính ông tổ của trào lưu triết học
này (nhà triết học Đan Mạnh Søren Kierkegaard (1813- 1855) sử dụng lần
đầu tiên, sau đó được các nhà triết học khác của trường phái này tiếp
tục sử dụng. Thuật ngữ “existentia” (latin), “existence” (Pháp, Anh)
phản ánh quan điểm cơ bản của trào lưu triết học này, được dịch ra tiếng
Việt là “hiện sinh” thì không thoả đáng về ngữ nghĩa, nhưng rất tiếc
chưa có nhà nghiên cứu nào đặt vấn đề phải xem xét lại cách dịch thuật
ngữ này trong tiếng Việt. Vì thế, chúng tôi cho rằng tuy tên gọi này
trong tiếng Việt đã dùng quen rồi khó thay đổi, nhưng cần phải được giải
thích thêm mới giúp tránh được cách hiểu lệch lạc về tư tưởng cơ bản
của trào lưu triết học này.
Từ “hiện sinh” trong tiếng Việt có nghĩa
là là “cuộc sống hiện tại”, vì người ta hiểu sai là các nhà triết học
trường phái này chỉ biết có cuộc sống trước mắt, không cần quan tâm đến
tương lai (Người ta thường hiểu cuộc sống hiện sinh là “sống gấp”). Thực
ra, những nhà hiện sinh Pháp như Jean Paul Sartre, Albert Camus, Simone
de Beauvoir không chỉ biết sống cho hiện tại. Họ là những người tích
cực tham gia cuộc đấu tranh chống phát xit ở Pháp, ủng hộ phong trào đấu
tranh vì tự do của các dân tộc khác trên thế giới. Sartre và Camus là
những người được tặng giải thưởng Nobel. Sartre tích cực tham gia và chủ
trì phiên tòa thứ hai của Tòa án quốc tế xét xử tội ác chiến tranh của
Mỹ ở Việt Nam; còn Beauvoir là người tích cực đấu tranh trong phong trào
đòi quyền bình đẳng phụ nữ.
Đặc điểm cơ bản của chủ nghĩa hiện sinh
không phải là cổ vũ cho sự “sống gấp” mà là nhấn mạnh tính chủ quan. Đây
là đóng góp quan trọng nhất và cũng là sai lầm lớn nhất của trào lưu
triết học này. Thuật ngữ “existence” (Anh, Pháp) hay “Dasein” (Đức) là
khái niệm nói lên sự tồn tại cá nhân cụ thể, là tồn tại có ý thức , là
“tồn tại cho nó” chứ không phải là “tồn tại tự nó”. Ý thức mà chủ nghĩa
hiện sinh đề cao là những cảm xúc chủ quan của cá nhân, sự tự do lựa
chọn không bị quy định bởi bất cứ cái gì khác ngoài trách nhiệm mà cá
nhân tự ý thức được. Luận điểm cơ bản của nó “Hiện sinh có trước bản
chất” nói lên đầy đủ quan niệm đó. Chủ nghĩa hiện sinh đề cao sự tự do
lựa chọn và trách nhiệm cá nhân, về một phương diện nhất định có thể coi
đây là một đóng góp quan trọng, nhưng đồng thời vì nó phủ nhận tính tất
yếu và quy luật khách quan nên sự tự do lựa chọn của cá nhân có thể dẫn
đến những sai lầm không thể cứu vãn nổi
- Về một số thuật ngữ có nguồn gốc từ tiếng Trung quốc nhưng được hiểu sai trong tiếng Việt
Muốn hiểu được tiếng Việt thì phải có
một kiến thức nhất định về thuật ngữ Hán-Việt, cũng giống như muốn đọc
tiếng Anh, pháp, Nga … thì phải hiểu nguồn gốc Hy Lạp, Latin của nhiều
thuật ngữ trong các thứ tiếng này. Nhiều khi nếu có nghi ngờ về cách
hiểu quen thuộc đối với một số thuật ngữ Hán-Việt thì cần tham khảo cách
dịch các thuật ngữ này trong các thứ tiếng phương Tây như tiếng Anh.
Thí dụ, “tính” là gì trong câu nói của Khổng Tử “Tính tương cận, tập
tương viễn”. Nhiều người thường hiểu “tính” là ý thức, là nhân cách,
nhưng nếu tham khảo các sách phương Tây thì thấy rằng “tính” tức là bản
tính tự nhiên của con người (human nature), mầm mống của nó đã có sẵn
khi con người sinh ra không đợi đến giáo dục, học tập mới có. Cách hiểu
này không có gì mới lạ nếu ta đọc đoạn trích sau đây từ Tuân Tử: “Phàm
là người thì đều giống nhau: đói thì muốn ăn, lạnh thì muốn ấm, mệt thì
muốn nghỉ, thích điều có lợi mà không thích điều có hại cho mình. Đấy là
cái con người sinh ra vốn đã có, không đợi đến khi học hành mới có”.
“Nho” trong Nho gia có nghĩa là là gì?
Có nhiều cách hiểu khác nhau ở Việt Nam, Trung Quốc khó có thể khẳng
định cách hiểu nào là chính xác. Ở phương Tây “nho” được dịch là scholar
có nghĩa là là “học giả”. Nho gia 儒 家 được dịch là trường phái các học
giả (school of the scholars). Từ “giáo” trong “Nho giáo”, “Khổng giáo”,
“tam giáo” có nghĩa là gì? Nhiều người thường hiểu “giáo” là tôn giáo. Ở
phương Tây, các từ như Nho giáo 儒 教 được dịch là “Study of the
Scholars”; Khổng giáo 孔 教 “Teaching of Confucius”; “giáo” là giáo dục,
học thuyết, chứ không phải là tôn giáo. Phương Tây thường lấy tên của
Khổng Tử (được một nhà truyền giáo phương Tây dịch ra tiếng latin là
Confucius) để đặt tên cho trường phái này là Confucianism (chủ nghĩa
Khổng Tử, Khổng giáo) (3)
Trước đây ở nước ta đã từng có thời kỳ
“tam giáo” được các nhà nước phong kiến lấy làm nội dung học tập, thi
cử. Tam giáo (Nho giáo, Lão giáo, Phật giáo) không có nghĩa là “ba tôn
giáo”, mà chỉ là ba học thuyết. Tam giáo được nghiên cứu với tư cách là
những học thuyết triết học, đạo đức, chứ không phải ở khía cạnh tôn
giáo. Hồ Chí Minh trong khi trả lời một nhà báo Liên Xô đã nói: “Tôi
sinh ra trong một gia đình nhà Nho An Nam… Thanh niên trong những gia
đình ấy thường học Khổng giáo, đồng chí biết chắc Khổng giáo không phải
là tôn giáo mà là một thứ khoa học về kinh nghiệm đạo đức và phép ứng
xử”. (4)
Trong bài thơ “Dạ bán”(5) của Hồ Chí
Minh có những khái niệm như “thiện”, “ác” là những thuật ngữ có liên
quan đến ngôn ngữ triết học Trung Quốc. Để hiểu rõ tư tưởng Hồ Chí Minh
trong bài thơ này, cần phải nhắc lại cuộc tranh luận trong phái Nho gia
về bản tính của con người. Mạnh Tử cho rằng bản tính con người là
“thiện”. Sách Tam Tự Kinh ra đời thời Nhà Tống đã đứng trên quan điểm
của Mạnh Tử khi cho rằng “Nhân chi sơ, tính bổn thiện. Tính tương cận,
tập tương viễn”. Tuy nhiên, một nhà Nho khác là Tuân Tử lại có quan điểm
ngược lại, cho rằng bản tính con người là “ác”. Ông nói “Nhân chi tính
ác, kỳ thiện giả nguỵ giả”, nghĩa là “Bản tính con người là ác, còn
thiện là nguỵ” (do con người làm ra). Ông lập luận: “Tính người ngày
nay, trời sinh có kẻ hiếu lợi, do đó, mới sinh ra vấn đề tranh đoạt mà
mất đi đức tính khiêm nhường… Trời sinh người ta có thứ dục vọng bởi tai
mắt, thích nghe cái hay, nhìn cái đẹp do đó. mới sinh ra vấn đề dâm
loạn, mà mất đi lễ nghĩa, đạo lý văn hóa. Vậy thì, nếu cứ chiều theo
tính và thuận theo tình của con người, thì sẽ diễn ra cảnh tranh giành,
phạm tội loạn ly, rồi quy hết về bạo lực… Cứ nhìn theo đó thì đã quá rõ
ràng, tính người là ác vậy”.
Hồ Chí Minh có một cách nhìn khác với
hai quan điểm trên của Mạnh Tử và Tuân Tử. Con người không có bản tính
cố hữu là thiện hay ác. Đứa trẻ khi chưa được giáo dục nó có bản tính
tham ăn, ích kỷ, dưới con mắt của người lớn không ai cho đó là “ác” cả.
Bản tính tự nhiên của đứa trẻ có thể trở thành thiện hay ác khi đứa trẻ
lớn lên đến một độ tuổi nhất định và phải thông qua giáo dục xã hội cùng
với sự rèn luyện của bản thân đứa trẻ đó. Hồ Chí Minh cho rằng nhân
cách con người phần nhiều do giáo dục, rèn luyện mà có và chỉ biểu hiện
ra trong quan hệ và hoạt động xã hội. Khi ngủ thì ai cũng như nhau. Đến
khi thức dậy (nghĩa là khi hành động) mới phân ra người thiện, kẻ ác.
Ngục trung Nhật Ký viết bằng chữ Hán là một tác phẩm của Hồ Chí Minh,
nổi tiếng không chỉ trong nước mà cả thế giới và đã được dịch ra nhiều
thứ tiếng trên thế giới. Nhiều học giả Trung Quốc, trong đó có nhà thơ
nổi tiếng Quách Mạt Nhược khi đọc xong tập thơ này đã nhận xét là trong
tập thơ này có nhiều bài thơ có trình độ sánh ngang hàng với thơ Đường,
thơ Tống là những thời kỳ đỉnh cao của thơ Trung Quốc. Đã có nhiều bản
dịch ra tiếng Việt, nhưng chưa có bản nào phản ánh một cách trung thực
được giá trị của tác phẩm. Bài thơ Dạ bán thể hiện một tư tưởng triết
học sâu sắc của Hồ Chí Minh về nguồn gốc, phương thức biểu hiện nhân
cách, đạo đức của con người. Tuy nhiên, Nam Trân mặc dù hiểu đúng (thể
hiện trong cách giải thích), nhưng khi dịch ra thơ thì lại xuyên tạc tư
tưởng triết lý của bài thơ. Thiện được dịch là “hiền”, ác là “dữ” thì
không chính xác, vì thiện, ác là những phạm trù đạo đức, thuộc cấp độ ý
thức xã hội; còn hiền, dữ chỉ là cá tính, thuộc cấp độ tâm lý cá nhân.
Hiền chưa hẳn là thiện, dữ chưa hẳn là ác. Sự khác nhau về nhân cách
(thiện, ác) mới là cái không có sẵn, phần nhiều do giáo dục mới có. Còn
sự khác nhau về cá tính, như hiền lành (điềm tính, dễ tính, nhu mì) hay
hung dữ (hung hăng, nóng nảy, dễ bị kích động), hoạt bát hay trầm tính,
v.v.. không phải chủ yếu là do giáo dục; chúng một phần có liên quan đến
cấu trúc thần kinh, nhiễm sắc thể, hooc-môn, hóa chất, v.v., trong cơ
thể của mỗi người. Điều này đã được khoa học và tâm lý học hiện đại
nghiên cứu.
Hơn nữa, trong tiếng Việt, nói thiện, ác thì ai cũng hiểu được, cần gì phải dịch ra hiền, dữ làm sai nghĩa đi.
Tài liệu tham khảo
(1), (2) William James, What Pragmatism Means, có thể đọc bài này ở địa chỉ: http://www.marxists.org/reference/subject/philosophy/works/us/james.htm hoặc ở nhiều trang web khác.
(3) Confucianism, http://en.wikipedia.org/wiki/Confucianism
(4) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t. 1, tr. 477
(5) Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, t.3, tr.283
Nguồn:Tạp chí Triết học số 01 tháng 01 -2010