Trong bài viết nầy tôi nêu lên giả thuyết về Cây Lơn và Cây Quéo. Nhờ độc giả góp ý về hai giả thuyết nầy và cách gọi tên SƯNG dành cho dòng thảo mộc Semecarpus, XUÂN TÔN dành cho dòng Swintonia, RI-TA hay TÌ-TA dành cho dòng Chirita, v.v...
*
Địa cầu rộng lớn và có nhiều vùng khí hậu khác nhau: khí hậu hàn đới, ôn đới, nhiệt đới, xích đới, sa mạc và đại dương với vô số các loại thảo mộc khác nhau. Việt Nam là một nước nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới nên chỉ có các loại thảo mộc của vùng khí hậu nầy mà thôi. Cây cao su, cà phê, một số hoa, quả và rau cải trồng ở Đà Lạt trên cao nguyên Nam Trung Bộ là những loại thảo mộc do người Pháp du nhập vào Việt Nam. Chúng được trồng ở những vùng có thổ nhưỡng và khí hậu thích hợp.
Cách đặt tên thảo mộc Việt Nam dựa vào:
- Cách gọi của người Trung Hoa:
Lạc tiên (dây chùm bao),
đại phong tử (cây chùm bao lớn),
hương phụ (củ cỏ gấu),
ba la mật (mít),
hương cai (xoài),
thiều lệ chi (chôm chôm)
, mã cật (
măng cụt). Vua Minh Mạng gọi trái
măng cụt là
Giáng Châu Tử, v.v…
- Cách gọi tên của người Thái, Khmer:
Thurien (sầu riêng),
makok (cây cóc),
mangkut (măng cụt),
mean bat (bình bát),
svaay (xoài),
muom (muỗm - xoài muỗm), v.v…
- Cách gọi tên của Pháp: cà tô mát (
tomate), cải xà lách (
salade),
cải xà lách son (cresson), cao su (
caoutchouc), cà phê (
café), v.v…
- Hình dáng và màu sắc của thảo mộc: Cây móng bò, cỏ chỉ, cỏ lọ nồi, cây mun, cỏ bạc đầu,
ngưu tất (đầu gối bò),
ngưu thiệt (lưỡi bò), mướp khía, bí đỏ, cây dái ngựa, dây mù (hà thủ ô), mơ lòng (mơ tam thể), tía tô, thanh dại, đậu rồng, đậu xanh, đậu trắng, đậu đỏ, đậu đen, v.v…
- Hương vị: Cỏ chua lè, mật thảo, cây muối, cây ký ninh, mướp đắng, bạc hà, rau đắng, hoa tử thi, cây trôm hôi, v.v..
- Công dụng: Cây thuốc dòi, cây trường sinh, cây thuốc rắn, dền canh, cỏ bắt ruồi (
Trường Lệ), dâm dương hoắc, cỏ chó đẻ, v.v…
Trong bài viết nầy tôi nêu lên giả thuyết về
Cây Lơn và
Cây Quéo. Nhờ độc giả góp ý về hai giả thuyết nầy và cách gọi tên
SƯNG dành cho dòng thảo mộc
Semecarpus,
XUÂN TÔN dành cho dòng
Swintonia,
RI-TA hay
TÌ-TA dành cho dòng
Chirita, v.v.
Ở Dĩ An (trước thuộc tỉnh Biên Hòa, nay thuộc tỉnh Bình Dương) gần Quốc Lộ 1 cũ có Ngã Ba Cây Lơn. Sau khi tìm kiếm xem cây lơn là cây gì nhưng không ra nguồn gốc của loại thảo mộc nầy, người ta sửa Ngã Ba Cây Lơn thành Ngã Ba Cây Lớn.
Lớn ở đây là chữ trái nghĩa với
nhỏ. Phải chăng gần đó có cây nhỏ? Cây lớn và cây nhỏ là tên của cây gì? Từ một ẩn số Cây Lơn, ta tạo thêm hai ẩn số khác (Cây Lớn và Cây Nhỏ) nhưng vẫn không có câu giải đáp thỏa đáng.
Có một loại thảo mộc miền nhiệt đới gọi là
Chày Lơn, một tên gọi có vẻ là tên phiên âm từ tiếng Khmer. Đó là loại thảo mộc mang tên khoa học
Buchanania lucida thuộc gia đình
Anancardiaceae của cây điều lộn hột. Người Việt Nam còn gọi là cây xoài giả, cây sáng, cây mà cá. Các tên khoa học đồng nghĩa với
Buchanania lucida là:
- Buchanania arborescens.
- Buchanania florida.
- Buchanania platyphylla.
Ta gọi cây
Sáng có lẽ do chữ
Lucida trong tên khoa học mà ra?
Hay do âm cuối của tên gọi
Getasan của người Indonesia?
Hay dịch từ tên gọi thông thường của cây chày lơn từ tiếng Anh:
Lightwood?
Cây sáng hay chày lơn cao từ 30m - 40m; lá rộng, dài; đầu lá nhọn. Lá non màu hồng như lá xoài non. Hoa nhỏ màu trắng-vàng nhạt giống như hoa cây xoài. Nhìn chung gọi là cây xoài giả cũng không xa sự thật bao nhiêu. Chỉ khác là trái sáng, trái chày lơn hay mà cá nầy nhỏ, hột cứng và ít cơm không giống như trái xoài. Cây sáng có nhựa như cây xoài. Vỏ có nhiều sợi.
Người Mã Lai gọi là cây sáng (chày lơn, xoài giả) là
Otak udang tumpul.
Indonesia:
Getasan.
Thái Lan:
Chaa muang.
Phi Luật Tân:
Balinghasai.
Trung Hoa gọi cây sáng hay chày lơn là
Shan xian zhi (sơn tiên tử).
Anh gọi là
sparrow's mango (xoài chim sẻ vì loài chim nầy thích ăn trái chày lơn),
little gooseberry tree,
satinwood (cây sơn tiên),
lightwood.
Dân hải đảo Thái Bình Dương gọi cây chày lơn (cây sáng) là
Mangkarrba. Tên gọi
Mà Cả có liên hệ gì đến tên gọi
Mangkarrba không? Hay đó là âm 1 và 3 của chữ
Ma/lac/
ca nơi có nhiều cây sáng?
Cây sáng hay chày lơn cho nhiều gỗ. Trái ăn được nhưng không đặc biệt vì nhỏ, ít cơm. Hiện nay loại thảo mộc nầy trở nên hiếm dần.
Ở Bình Hòa, bây giờ là Bình Thạnh, có xóm Cây Quéo. Theo từ nguyên thì Quéo là một hình dung từ chỉ một vật bị cong ở đầu. Cây Quéo có thể:
1- Là cây có đọt bị quéo lại vì một lý do nào đó (hiểu theo nghĩa trực tiếp).
2- Là cây xoài quéo.
Xoài Quéo được tìm thấy trong trạng thái hoang dã trên quần đảo Inonesia như đảo Sumatra, Kalimantan, Biên Hòa (Nam Bộ), đảo New Guinea, v.v… Trái xoài quéo trông xấu xí không giống như trái xoài thường thấy:
Tên khoa học của xoài quéo là:
- Mangifera reba.
- Mangifera camptosperma.
- Mangifera inocarpoides.
- Mangifera gedebe.
Người Anh gọi là
Bent-seed mango vì cả trái lẫn hột đều quéo cong lại.
Người Trung Hoa gọi là
Wan zi mang guo.
Người Khmer gọi là
svaay reba, svaay miehs.
Người Indonesia ở Kalimantan gọi là
repeh.
Xoài quéo cũng có nhiều trên các hải đảo Thái Bình Dương nhưng dân chúng không thích ăn trái. Cư dân trên đảo Kalimantan dùng gỗ cây xoài quéo làm vách hay sàn nhà.
Dòng
Semecarpus thuộc gia đình thảo mộc
Anacardiaceae của cây điều, cây xoài. Không biết vì sao trong danh mục thực vật Việt Nam gọi dòng nầy là
SƯNG.
Semecarpus cochinchinensisđược gọi là Sưng Nam Bộ (
Cochinchinensis: Nam Kỳ),
Semecarpus caudata được gọi là Sưng Có Đuôi,v.v…
Theo từ nguyên khoa học gốc Hy Lạp ngữ thì
Seme (Sema) có nghĩa là dấu
(mark, sign),
Carpus (karpos): trái.
Semecarpus là trái để làm dấu chớ không phải trên trái có dấu. Thực tế không phải là trái mà là hột. Cây
Semecarpus anacardium hay
Anacardium orientale là một loại cây điều lộn hột gốc ở phương đông hay rõ hơn ở Ấn Độ. Hột trái điều không nằm trong trái mà nằm ở ngoài. Thợ giặt ủi ở Ấn Độ dùng nhựa hột trái điều nầy để làm dấu quần áo trước khi giặt. Vì vậy người Anh gọi cây điều Ấn Độ nầy (đối lại với cây điều mà chúng ta biết ở miền Nam
Anacardium occidentale vì nó gốc ở Tây Bán Cầu) là
marking nut, Oriental sachew nut, varnish tree (cậy vẹt-ni),
Malacca nut (Malacca: bán đảo Mã Lai),
Ink tree (vì dùng làm mực).
Người Ấn Độ gọi cây điều Đông Phương là
Bhallatak. cổ y Ấn Độ đề cao tính năng trị liệu của hột điều mặc dù hột điều có nhiều độc chất (ở vỏ) nhưng cơm béo và bùi rất ngon. Nhựa hột điều đụng vào da gây phỏng da. Có phải chăng chử
SƯNG được dùng trong nghĩa nầy hay còn có nghĩa gì khác nữa. Hay chỉ là âm dịch từ chữ
SEM, âm đầu của tên khoa học
Semecarpus, nên không có nghĩa gì cả?
Hột điều Đông Phương có
biflavonoids, hợp chất
phenols, bhilawanols, nhiều khoáng chất, nhiều sinh tố,
amino acids, v.v… Nó được dùng để trị đau khớp xương, u bướu, nhiễm trùng, ho ra máu, kinh nguyệt quá đà, táo bón, trùng lãi, kháng oxy hóa. kháng viêm, hạ máu đường, trị ung thư gan, bệnh về đường tiểu, tâm bịnh (hay buồn, giận, nóng nảy, sợ sệt, v.v...). Nước vắt của trái điều Đông Phương tăng cường trí nhớ, trị chứng mất cảm xúc và chứng tê bại.
Anacardium orientale trở thành một nhãn hiệu thuốc 'bá chứng' nổi tiếng hiện nay. Từ chữ
Anacardium người ta tách ra chữ
Cardium, tức là trái tim và liên hệ trái điều với trái tim. Đó là phương cách trị liệu của cổ nhân ngày xưa dựa vào ý niệm: Giống cái gì thì chữa cái đó (
Homeopathy 'Like Cure Like').
Hai chữ "Xuân Tôn" có vẻ như là hai âm đầu của chữ
Swin-ton-ia. Chắc chắn đại đa số người Việt Nam đều xa lạ với tên gọi nầy.
Về tên khoa học của
Swintonia griffithii có một số tên đồng nghĩa khác như:
- Swintonia floribunda.
- Swintonia helferi.
- Swintonia puberula.
- Swintonia penangiana.
Tên khoa học cuối cùng cho thấy nguồn gốc Penang, một hòn đảo thuộc Mã Lai. Loại thảo mộc dòng
Swintonia và gia đình
Anacardiaceae của cây xoài, cây điều được tìm thấy nhiều ở Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân, Việt Nam, Cambodia, Miến Điện.
Tên gọi thông thường của thảo mộc
Swintonia griffithii:
- Mã Lai:
Merpauh daun runching hay gọi tắt là
Merpauh.
- Indonesia:
Kedongbong rabuk (Sumatra),
Kerata (Indonesia).
- Miến Điện:
Thaytkin, Thayyet san.
- Bangladesh:
Civit
- Cambodia:
Muom
- Việt Nam: Muỗm.
- Anh:
Merpauh (dựa theo cách gọi của người Mã Lai).
Tên gọi Muỗm của người Việt Nam vay mượn của người Khmer. Đó là một loại xoài trái nhỏ: xoài muỗm. Dù là một tên vay mượn nhưng tên gọi nầy có vẻ gần gủi với người Việt Nam vì xoài muỗm không xa lạ gì với người Việt Nam, nhất là cư dân sống trên đồng bằng sông Cửu Long và Đồng Nai. Việt Nam và Cambodia là hai quốc gia láng giềng có liên hệ lịch sử và địa lý gần gủi và gắn bó.
Tôi đề nghị dùng chữ
Muỗm hay
Xoài Muỗm cho thảo mộc mang tên khoa học
Swintonia griffithii và các tên khoa học đồng nghĩa khác đã ghi ở phần đầu hơn là chữ
Xuân Tôn.
Cây xoài muỗm cao đến 40m. Là giẹp, dài, đầu lá nhọn, gân lá rất rõ. Hoa nhỏ. Trái tròn và nhỏ. Trái xoài muỗm không được truyền tụng nhưng gỗ cây xoài muỗm màu đỏ hồng và được bán ngoài thị trường gỗ dưới tên
Am-barola. Gỗ cây muỗm được dùng để làm nhà, bột giấy. Cây muỗm tươi có nhiều nhựa. Nhựa gây phỏng da khi đụng đến. Lá cây muỗm có
carotenoids, hợp chất
phenol chống oxy hóa.
Từ chữ
Chirita ta có tên gọi Ri-Ta hay Tì-Ta, tức là lấy hai âm cuối của chữ CHI-
RI-
TA.
Chữ
Chirita gốc tiếng Ấn Độ và Nepal, có nghĩa là
gentian trong tiếng Anh. Người Ấn Độ gọi là
chirayata, chirata, chirayita, chiretta, chirita. (CHI đọc thành KI). Tiếng Sanskrit (Phạn) gọi là
Kirata. Chữ
gentian chỉ những loại cây có vị thật đắng, thân có lông; hoa màu xanh-tím sậm. Trên thực tế hoa của loại thảo mộc nầy có nhiều màu khác nhau. Hoa hình loa kèn hay hình chuông, nhưng nét đặc biệt nhất là những loại hoa màu xanh-tím sậm như long đàm thảo
Swertia chirata hay
Gentiana chirayita, gia đình
Gentianaceae được người Ấn Độ dùng làm thuốc trị sốt, sốt rét, trùng lãi, táo bón, nôn mửa, bịnh về gan, mật, bàng quang, ho lao,... Vị đắng do sự hiện diện của ác xít
ophelic C13 H20 O10 và
chiratin C26 H48 O15 mà ra. Thảo mộc có hoa xanh-tím sậm và vị đắng đặc biệt dòng
Swertia hay
Gentiana (1) được tìm thấy khắp các vùng khí hậu trên thế giới ngoại trừ Nam Băng Châu. Người Anh gọi long đàm thảo (cỏ mật rồng) nầy là
bitter stick.
Thảo mộc dòng
Chirita thuộc gia đình
Gesneriaceae được tìm thấy ở Ấn Độ, các nước Đông Nam Á và được trồng để làm cảnh. Cây cao từ 40cm - 50cm; thân mềm, dễ gảy, có lông mịn; lá hình trái tim; hoa năm cánh không đều, đa số có màu xanh-tím sậm. Ngoài ra còn có những màu khác. Người Anh vẫn dùng chữ
chirita của Nepal và Ấn Độ. Chữ
chirita của tiếng Hindi cũng được dùng để chỉ cây xuyên tâm liên (
chuan xin lian)
Andrographis paniculata mà người Anh gọi là
King of bittersgiống như
Roi des amers - có nghĩa là
Vua đắng - của người Pháp.
Điều đáng ngạc nhiên là thảo mộc CHIRITA có ở Việt Nam nhưng tại sao nó không có tên mà phải âm hai âm cuối của chữ CHI-
RI-
TA để trở thành Ri-Ta hay Tì-Ta? Tôi đoan chắc rằng đa số người Việt Nam rất xa lạ với tên gọi nầy. Nều người Anh phải dùng chữ
Chirita của Nepal và Ấn Độ và gọi xuyên tâm liên là
green chirayta để gợi lên vị đáng đặc biệt của loại dược thảo nầy thì chúng ta không dùng nguyên từ
Chirita mà dùng nôm na
Cỏ Đắng hay nói theo từ Hán Việt là
Khổ Thảo căn cứ theo vị đắng của nó để người học dễ hiểu hơn. Xuyên tâm liên được gọi là
khổ đàm thảo.
*
Trong khuôn khổ bài viết ngắn nầy chúng tôi chỉ đưa ra vài trường hợp điển hình mà thôi. Còn rất nhiều trường hợp gọi tên thảo mộc bằng cách Việt hóa những âm đầu hay âm cuối của tên khoa học đôi khi được đặt ra để tưởng nhớ đến nhà thực vật học hay nhà trồng tỉa có công khám phá ra loại thảo mộc đó. Khi âm ra tiếng Việt thì người học ngơ ngác không hiểu gì cả, nhưng họ bắt buộc phải học thuộc lòng điều mà mình không nắm vững lai lịch, cội nguồn giống như các nhà nho ngày xưa phải học thuộc lòng và chấp nhận vô điều kiện những gì Khổng Tử và Mạnh Tử viết hay nói. Hy vọng rằng người đọc thông hiểu ý của người viết và vui vẻ góp ý về giả thuyết Cây Lơn, Cây Quéo và phản hồi sự góp ý của người viết vào lãnh vực thực vật học mênh mông nầy. Thế gian không có sự hoàn hảo. Mọi góp ý và bàn bạc một cách vô tư, xây dựng và bất vụ lợi sẽ giúp cho cuộc sống hôm nay tốt hơn cuộc sống ngày hôm qua và cuộc sống ngày mai tốt hơn hôm nay. Cứ như thế vũ trụ xoay dần. Xã hội loài người có tiến bộ nhưng không bao giờ có sự hoàn hảo. Trong chừng mực nào đó sự hoàn hảo gây ra nạn thất nghiệp và sự thiếu động não cho các thế hệ kế tiếp.
Phạm Đình Lân, F.A.B.I.
_______________________
(1)
Xuất phát từ tên của vua Gentius của Illyria ngự trị từ năm 181 - 168 trước Tây Lịch. Ông là người đầu tiên khám phá ra tính năng trị sốt của long đàm thảo Gentiana chirita.