Sau khi gia đình Ngô Đình Diệm tìm được ngôi mộ chôn chung Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh ở khu rừng Hắc Thú, gần Hiền Sĩ, thuộc tỉnh Quảng Trị (1956) thì báo chí Sài Gòn trước 1975, báo chí tiếng Việt ở hải ngoại thỉnh thoảng khơi lại cái chết của Phạm Quỳnh với những dụng ý khác nhau, chẳng hạn tháng 5 năm 1999 bốn tờ báo Thế kỷ 21, Người Việt, Ngày nay, Xây dựngphối hợp tổ chức Ngày Phạm Quỳnh ở California. Người tường thuật cho biết: "Giới truyền thông xoáy mạnh vào ký ức của gia đình trong thời điểm học giả Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt đi và sau đó thủ tiêu vào năm 1945, đã gợi lại mối xúc cảm thương tâm của những người con, nhiều câu trả lời đã nghẹn ngào cùng với tiếng khóc cố nén lại"(1).
Gần đây báo chí trong nước ta cũng có một số bài khơi lại vấn đề này, có một vài bài đi theo một hướng mới: hoặc cố phát hiện "những uẩn khúc" trong cuộc đời Phạm Quỳnh, hoặc ra sức chiêu tuyết cho Phạm Quỳnh là "người nặng lòng với nước".
Trong bài này chúng tôi xin góp một ít tư liệu liên quan đến cái chết của Phạm Quỳnh để mong làm rõ nguyên do, hoàn cảnh diễn ra sự việc đó, nhằm tạo cơ sở cho việc nhận định nhân cách chính trị và hoạt động học thuật của ông.
I. TẠI SAO NĂM 1945 PHẠM QUỲNH LẠI BỊ BẮT?
Trên tạp chí Xưa và Nay (số 267, tháng 9-2006), Phạm Tôn viết: "Qua nửa năm làm Thượng thư kiêm Ngự tiền văn phòng, chín năm làm Thượng thư Bộ Học và gần ba năm làm Thượng thư Bộ Lại, sau đảo chính Nhật 9-3-1945, Phạm Quỳnh thanh thản từ nhiệm, về sống ẩn dật tại biệt thự Hoa Đường bên bờ con sông nhỏ An Cựu... Ông lặng lẽ chuẩn bị trở lại với hoạt động Văn học (Do chúng tôi nhấn mạnh - N.V.H), dịch và chú giải 51 bài thơ Đỗ Phủ, bắt đầu viết tập Kiến văn cảm tưởng: Hoa đường tuỳ bút"(2).
Phạm Trọng Nhân, trong lời tựa cuốn Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo in ở Paris năm 1992, cũng đã viết: "Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Cuốn sử sang trang. Việt Nam tuyên bố độc lập. Phạm Quỳnh xin về hưu trí, sống đời ẩn dật nơi biệt thự Hoa đường bên bờ sông đào Phủ Cam hiền hậu hài hoà. Ông ôm ấp hoài bão trở lại với sinh hoạt văn chương đã bị gián đoạn tạm thời vì số mạng (Do chúng tôi nhấn mạnh - N.V.H.). Ông khởi viết một số bài, gom dưới đề Kiến văn cảm tưởng, trong đó mặc nhiên và tế nhị ký thác cả một tâm sự phong phú và đa dạng của một nhà văn phong nhã hào hoa, lạc lõng nơi bể hoạn sinh bất phùng thời"(3).
Thanh Lãng trong bài Trường hợp Phạm Quỳnh, viết để phản bác lại những luận điểm của Nguyễn Văn Trung phê phán Phạm Quỳnh trong cuộc diễn thuyết Văn học và chính trị - Một quan điểm mới về cuộc tranh luận Phạm Quỳnh - Ngô Đức Kế qua Truyện Kiềutại trường Quốc gia Âm nhạc, Sài Gòn ngày 7-10-1962, đã viết: "Làm sao hiểu được tâm sự của Phạm Quỳnh. Thực là khó khăn! Tuy nhiên, thái độ có vẻ chán chính trị, được bộc lộ qua thái độ sống rút lui, ẩn dật trên bờ sông An Cựu hình như biện minh phần nào cho Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh lúc ấy không tham gia chính phủ Trần Trọng Kim, không chạy theo thực dân Pháp, không theo một phe phái cách mạng nào mà cũng chẳng gia nhập Mặt trận Việt Minh"(4). (Các dòng in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh - N.V.H.)
Nhà báo Xuân Ba trong bài Những uẩn khúc trong cuộc đời ông Chủ bút Nam Phong, đăng liền trên ba số Tiền Phong chủ nhật(10-2005) cũng nhấn mạnh theo Phạm Trọng Nhân: Sau ngày 9-3-1945 Phạm Quỳnh "xin về hưu trí, sống ẩn dật ở biệt thự Hoa đường bên bờ sông đào Phủ Cam hiền hoà. Ông ôm hoài bão trở lại với văn chương!"(5).
Tóm lại, theo Phạm Tôn, Phạm Trọng Nhân, Thanh Lãng, Xuân Ba thì từ sau đảo chính Nhật 9-3-1945 Phạm Quỳnh đã dứt khoát rời bỏ chính trường, an nhiên ngâm bài Quy khứ lai từ, trở lại vui thú bút nghiên!.
Ngay bản thân Phạm Quỳnh cũng tuyên bố như thế. Sau ngày đảo chính Nhật, có một nhà báo lặn lội từ Hà Nội vào Huế, bằng đủ loại phương tiện giao thông: xe lửa, xe hơi, đi thuyền, xe kéo và cả đi bộ, để đến biệt thự Hoa đường ở An Cựu, phỏng vấn Phạm Quỳnh.
Hỏi: Chúng tôi muốn biết rồi đây cụ có hoạt động về chính trị nữa không, hay trở về với văn học giới ?
Đáp: - Suốt một đời tôi đã phụng sự cho văn học thì ngày nay không vì lẽ gì tôi lại không muốn trở lại cái đời cầm bút đã bị một thời gian bỏ dở(6).
Hơn thế nữa, trong cuốn truyện có tính chất hồi ký nhan đề Những con đường phản kháng, con rể Phạm Quỳnh là Nguyễn Tiến Lãng đã báo cho vợ (bà Phạm Thị Ngoạn): "Sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945 cờ mới (tức cờ đỏ sao vàng - N.V.H. chú) đã được treo trước cửa nhà.
Khi thức dậy cha nói với người bồi phòng: Nếu trẻ con phải cầm cờ đi mít tinh, anh đi mua cho chúng. Sau bữa ăn, tất cả thanh niên con cháu bồi bếp đều đi mít tính, chỉ có cha và anh ở nhà với đàn bà con gái"(7).
Như vậy là vào sáng ngày 23-8-1945, ngày nhân dân thành phố Huế mít tinh, khởi nghĩa cướp chính quyền, gia đình Phạm Quỳnh cũng đã tỏ thái độ quy phục cách mạng, tại sao đến 14 giờ chiều hôm ấy Phạm Quỳnh lại bị bắt?
Trong bài báo mà chúng tôi đã trích dẫn ở đầu bài này, Phạm Tôn, để chứng minh Phạm Quỳnh là "người nặng lòng với nước" đã dùng lại tư liệu và lập luận của Nguyễn Phúc Bửu Tập trong Ngày Phạm Quỳnh ở California, Mỹ. Theo Nguyễn Phúc Bửu Tập thì Phạm Quỳnh, về văn hoá, có một địa vị siêu đẳng trong nền văn học nước ta, về chính trị, thật xứng đáng được xếp ngang hàng với các bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh để gọi là Chí sĩ Phạm Quỳnh, Chiến sĩ Ái Quốc Phạm Quỳnh. Cả hai người - Nguyễn Phúc Bửu Tập và Phạm Tôn - để chứng minh "tấm lòng son" của Phạm Quỳnh đều dẫn ra bản báo cáo mật của Haelewyn, Khâm sứ Trung Kỳ, gửi cho Toàn quyền Đông Dương Decoux, tố cáo Phạm Quỳnh đã trách cứ Pháp trưng dụng lúa gạo để cung ứng cho Nhật và vẫn kiên trì đòi Pháp trả quyền cai trị Bắc Kỳ cho Nam Triều nhưng cả hai đều bỏ qua ý kiến này trong bản mật báo "Phạm Quỳnh sẽ có thể trở thành kẻ đối địch bất khả quy của chúng ta nếu như một khi ông ta bị lôi cuốn bởi lời hứa hẹn của Nhật Bản cho một chủ thuyết Đại Đông Á"(8).
Lời cảnh báo này chứng tỏ bộ máy mật thám Trung Kỳ của Pháp rất thính, đã tiên đoán ra khả năng thay đổi thái độ chính trị của Phạm Quỳnh, một khi Nhật thắng thế và bây giờ - sau đảo chính Nhật 9-3-1945 - khả năng đó đang trở thành hiện thực.
Trong cuốn Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo do gia đình Phạm Quỳnh xuất bản ở Paris năm 1992 nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Phạm Quỳnh (1892-1992) (Phạm Thị Hoàn, người con thứ tám của Phạm Quỳnh giữ bản quyền, người cháu là Phạm Trọng Nhân đề tựa), mở đầu phần Di cảo (tức Hoa đường tuỳ bút) đã viết: "Chúng tôi cho in lại trọn vẹn phần Di cảo này coi như một sử liệu tốt cho những ai muốn nghiên cứu về Phạm Quỳnh sau này".
Nói như thế nhưng không làm đúng như thế!
Cuối năm 1982 trong một chuyến tôi sang Paris công tác, tại phòng làm việc của ông, giáo sư Pierre - Bernard Lafont, Chủ nhiệm Trung tâm Lịch sử và Văn minh bán đảo Đông Dương của trường Cao học thực hành thuộc Đại học Sorbonne, đã giới thiệu tôi với bà Phạm Thị Ngoạn. Không hiểu có được thông tin từ nguồn nào mà ông đã nói:
- Đây là giáo sư Hoàn, mới từ Hà Nội sang, trước đây có thời gian cùng làm việc với chồng bà ở Khu IV, Việt Nam.
P.B. Lafont là giáo sư hướng dẫn bà Phạm Thị Ngoạn làm luận án Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong (1917-1934)(9). Trong luận án này bà Ngoạn đã giới thiệu lại đầy đủ danh mục các bài trong Di cảo: Bài thứ nhất, nhan đề Thế thái nhân tình; bài thứ 11, bài cuối cùng, nhan đề Cô Kiều với tôi; bài thứ 6, nhan đề Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945). Đây là bài cố ý bị bỏ quên, không được in lại trong cuốn Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo, nhưng năm 1973 ở Sài Gòn Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã được bà Phạm Thị Hảo, người con thứ năm của Phạm Quỳnh, cho mượn và chụp lại một bản. Theo Nguyễn Văn Trung trong bài này "Phạm Quỳnh kể lại vụ đảo chính Nhật 9-3 ở Huế và người ta thấy Phạm Quỳnh là nhân vật chính mà Nhật tìm đến để liên lạc, đề nghị thương thảo để thuyết phục nhà vua cộng tác với Nhật"(10).
Về việc này còn có một nhân chứng khác. Trong hồi ký Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc, Phạm Khắc Hoè, nguyên Chánh văn phòng của Bảo Đại cho biết: Sáng ngày 10-3-1945 ông đi vào Đại Nội làm việc như thường lệ, đến cửa Thượng Tứ thì bị lính Nhật chặn lại và dẫn đến trước mặt một viên quan Nhật. Viên quan này thấy ông đeo bài ngà Ngự tiền văn phòng Tổng lý thì chào một cách kính cẩn và nói bằng tiếng Pháp: "Quân đội Thiên hoàng chỉ truất quyền của thực dân Pháp thôi, chứ không đụng chạm gì đến Nam Triều, còn lệnh thiết quân luật thì đến 6 giờ sáng mai mới hết", sau đó viên quan Nhật thân dẫn ông Hoè về đến tận nhà!
Sáng hôm sau, 7 giờ, ông Hoè vào điện Kiến Trung, nơi Bảo Đại ở và làm việc. Một lính thị vệ chạy lại: "Dạ bẩm, Hoàng đế chưa tánh (chưa dậy) còn các cụ Cơ mật đã vào chầu Đức Từ (mẹ Bảo Đại)". Ông Hoè vào cung Diên Thọ, thấy sáu vị thượng thư đang đàm luận sôi nổi với bà Từ Cung về thú đánh mạt chược! Thấy ông Hoè, bà ấy nói mát:
- Hôm nay ông Tổng lý mới vào à!
Ông Hoè thanh minh:
- Tâu, từ tờ mờ sáng hôm qua chúng tôi đi đến cửa Thượng tứ thì bị lính Nhật chặn lại và cho biết đến sáng nay mới hết giờ thiết quân luật!
Bà Từ Cung bắt bẻ:
- Quân luật là đối với người thường, chứ đâu đối với các ông. Chứng cớ là hôm qua ông Lại vẫn vào chầu được!
Ông Hoè hỏi nhỏ một anh thị vệ:
- Hôm qua cụ Lại vào chầu lúc mấy giờ ?
- Dạ bẩm, cụ Lại vào lúc hơn 10 giờ, đi cùng một ông Nhật chắc là quan to lắm !
Sau đó Hội đồng Cơ mật họp. Bảo Đại bảo: "Thầy Lại bắt đầu đi!"
Phạm Quỳnh nói:
- Nhờ quân đội Thiên Hoàng nước ta đã được độc lập. Hôm qua quan Đại sứ Nhật ở Đông Dương là Yokohama đã vào chầu Hoàng đế, tâu bày nhã ý của Chính phủ Nhật sẵn sàng công nhận nền độc lập của nước ta. Hôm nay Hội đồng Cơ mật họp, thông qua bản "Tuyên bố độc lập"; để cho gọn việc, chúng tôi đã trộm phép dự thảo bản đó. Nói xong Phạm Quỳnh trịnh trọng đọc bản tuyên bố bằng tiếng Việt và bản dịch chữ Hán(11).
Phạm Quỳnh bị bắt chiều ngày 23-8-1945 thì sáng 29-8 một nhóm sáu sĩ quan Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ, tự xưng là "Phái bộ Đồng minh". Trong lúc Phan Tử Lăng, Chỉ huy trưởng còn đi thỉnh thị cấp trên thì nhóm Thanh niên tiền tuyến tức tối về thái độ láo xược của bọn Pháp, đã bất ngờ tấn công bắt gọn. Theo tài liệu thu được thì nhóm này có nhiệm vụ liên lạc với các quan lại bản xứ để lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.
Gần một tuần sau các báo ở Hà Nội đã đưa tin này để tố cáo âm mưu xâm lược của Pháp. Lê Thiệu Huy, con cụ Lê Thước, một đội viên Thanh niên tiền tuyến, hàng ngày học tiếng Anh qua đài BBC, cho biết: đài BBC cũng đưa tin này. Mười ngày sau một đơn vị lính Pháp khác lại tìm cách đổ bộ vào cửa biển Thuận An, để thực hiện nhiệm vụ giống như nhóm nhảy dù xuống Hiền Sĩ.
Tóm lại, việc quân Nhật và Phạm Quỳnh âm mưu liên lạc, cấu kết với nhau là nguyên do đầu tiên đưa đến việc Phạm Quỳnh bị bắt giữ. Sau đó việc quân Pháp tìm cách trở lại Huế, thực hiện âm mưu tái chiếm Đông Dương của Chính phủ De Gaulle lại khẳng định sự đúng đắn và cần thiết của việc bắt giữ đó.
II- DIỄN BIẾN SỰ VIỆC Ở HIỀN SĨ
Đầu năm 1962, Viện Văn học trình lên cấp trên dự kiến kế hoạch kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965. Cuối năm đó Văn phòng ông Tố Hữu chuyển đến Viện một bản tiểu luận, 91 trang đánh máy, nhan đề Trách nhiệm và giá trị Nguyễn Du về Truyện Kiều. So sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), bản tiểu luận cho rằng công của Nguyễn Du chỉ là ở tài phỏng dịch:
Rằng hay thì thật là hay,
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra!
Tác giả là ông Tôn Quang Phiệt. Kèm theo còn có một bức thư viết tay gửi ông Tố Hữu, yêu cầu được công bố bản tiểu luận. Dưới góc trái bức thư có lời ghi: "Ý anh Lành: Do Viện quyết định".
Ban lãnh đạo Viện Văn học đã cử tôi đi gặp ông Tôn Quang Phiệt. Tôi biết ông Tôn Quang Phiệt trước Cách mạng là Hiệu trưởng Trường Thuận Hoá - Huế, hoạt động Việt Minh ở Huế, sau Cách mạng làm Chủ tịch Uỷ ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên; trong tiểu luận có đoạn ông phê phán ý kiến đề cao Truyện Kiều của "tên bồi bút thực dân Phạm Quỳnh" nên tôi đã hỏi ông về vụ Phạm Quỳnh bị bắt ở Huế năm 1945.
Ông cho biết: Ngày 14 tháng 8 năm 1945 Nhật tuyên bố đầu hàng nhưng lúc đó ở Huế còn gần năm ngàn lính Nhật chưa bị tước vũ khí. Có tin báo: chúng đang liên lạc với Phạm Quỳnh... Nhằm mục đích ngăn chặn, trưa ngày 23-8-1945, Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Trung bộ Trần Hữu Dực ra lệnh bắt khẩn cấp Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi... đem về giam ở nhà lao Thừa Phủ. Một tên hiến binh Nhật đến đập cửa nhà lao đòi vào thăm "bạn", ta từ chối, chúng lại tìm cách đột nhập nhà lao bằng cổng sau nhưng lại bị ngăn chặn. Chính phủ Trung ương chỉ thị đưa ngay nhóm bị bắt ra Hà Nội. Vì xe chật nên Nguyễn Tiến Lãng bị bỏ lại. Biết tin, hiến binh Nhật cho xe đuổi theo. Đến Hiền Sĩ chúng đuổi gần kịp. Tổ áp giải bất ngờ cho xe rẽ vào rừng. Bọn Nhật mất mục tiêu, rất tức tối, chúng bắn chết hai người ăn xin đang nấu cơm ở chợ rồi quay về Huế.
Gần đây, cuốn Trường Thanh niên tiền tuyến Huế - 1945 đã cung cấp hồi ức của nhiều nhân chứng về các sự kiện xẩy ra ở Huế, trước và sau Tổng khởi nghĩa, nhưng để hiểu cụ thể hơn, tôi đã tìm gặp ông Đặng Văn Việt, Trưởng Ban liên lạc cựu học sinh trường Thanh niên tiền tuyến Huế - 1945. Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông nhưng có cảm tưởng như gặp lại một người quen cũ. Ông xuất thân từ một gia đình nổi tiếng của huyện Diễn Châu, cạnh huyện tôi, thuộc tỉnh Nghệ An. Ông nội của ông, đậu Hoàng giáp, từng làm Tế tửu Quốc tử giám. Thân sinh của ông là Phó bảng Đặng Văn Hướng, ngay trước Cách mạng là Tổng đốc tỉnh Nghệ An, sau Cách mạng được Hồ Chủ tịch mời làm Bộ trưởng không bộ (1946-1952), phụ trách ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh. Những năm 1950-1951, trong các lớp học chính trị "rèn cán chỉnh cơ" ở Quân khu IV tôi đã được nghe tên ông, một Trung đoàn trưởng kiệt xuất của Chiến dịch biên giới, chiến binh Pháp gọi ông là con hùm xám đường số 4. Còn bây giờ, ngồi bệt xuống sàn nhà của một căn hộ nhỏ, khiêm tốn, trong khu lao động Quỳnh Mai (Hà Nội), trước mặt tôi là một cựu chiến binh đã gần 90 tuổi, nhưng thân hình vạm vỡ, nói chuyện linh hoạt, hóm hỉnh.
Ông giới thiệu với tôi về trường Thanh niên tiền tuyến. Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật không có bộ Quốc phòng mà chỉ có bộ Thanh niên. Bấy giờ Đại học Đông Dương ở Hà Nội đóng cửa, nhiều sinh viên miền Trung rủ nhau về Huế. Đặng Văn Việt, quê ở Nghệ An nhưng là cựu học sinh trường Khải Định nên cũng vui bầu vui bạn về Huế. Luật sư Phan Anh, Bộ trưởng bộ Thanh niên và Giáo sư Tạ Quang Bửu, lãnh đạo tổ chức Hướng đạo sinh, Đặc uỷ viên của Bộ Thanh niên, liền tổ chức Trường Thanh niên tiền tuyến, gồm 43 học viên. Ban đầu trong số này đã có 5 người gia nhập Việt Minh, dần dần tất cả đều "Việt Minh hoá" và trở thành một lực lượng tự vệ vũ trang của Uỷ ban Khởi nghĩa ở Huế. Đặng Văn Việt nói: "Thanh niên tiền tuyến như một con dao pha được huy động ở mọi nơi cần thiết". Ngày 23-8-1945, Đặng Văn Việt và Cao Pha được phái đi bắt cha con Ngô Đình Khôi – Ngô Đình Huân. Phan Hàm và Võ Quang Hồ đi bắt Phạm Quỳnh và Nguyễn Tiến Lãng.
Trong hồi ức Những ngày giành chính quyền ở Huế, Phan Hàm, về sau là Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, mất năm 2004, đã kể lại việc đi bắt Phạm Quỳnh như sau: "Chúng tôi đi một chiếc Jeep, vào ngay giữa sân, gặp Nguyễn Tiến Lãng bước ra. Ông Lãng đoán biết, bỏ chạy. Tôi bắn theo một phát, súng không nổ, thật hú vía cho cả người bắn và người bị bắn. Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ "(12).
Bà Phạm Thị Hoàn, người chứng kiến, cũng đã kể lại vụ việc này(13).
Gần đây tôi đã hai lần đến gặp ông Hoàng Ngọc Diêu tại nhà riêng của ông ở Hà Nội. Lần đầu đến cùng ông Đặng Minh Phương. Năm nay ông Diêu 83 tuổi. Năm 1986 ông được phong hàm Trung tướng, làm Tổng cục trưởng Hàng không dân dụng Việt Nam, về hưu năm 1990. Năm 1945, khi xe của nhóm Phạm Quỳnh bị kẹt lại ở Hiền Sĩ thì ông đang công tác tại đây, làm Uỷ viên Chấp hành Việt Minh kiêm Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Phong Điền. Lúc đầu nhóm Phạm Quỳnh bị giam ở Lò Tràm đang bỏ hoang (tức một xưởng ép lá tràm lấy dầu)(14). Khi có toán sĩ quan Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ thì tỉnh chỉ thị "di chuyển ngay nhóm bị bắt". Sau đó ông Diêu được điều về Huế làm Đội trưởng một đội cảm tử, nên không biết những việc cuối cùng xẩy ra ở Hiền Sĩ với nhóm bị bắt trong bối cảnh tình hình giữa ta và Pháp ngày càng căng thẳng, nhưng ông có được xem phiên toà xử Nguyễn Tiến Lãng ở Đại Nội, Huế. Ông còn nhớ Nguyễn Tiến Lãng đã tự bào chữa, đại ý nói: nước mất tôi cũng đi tìm thuốc nhưng lại gặp phải liều thuốc độc!
Về sau hai gia đình Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi có đơn khiếu nại. Uỷ ban Cách mạng lâm thời đã trả lời: Những việc trước đây là thuộc thẩm quyền của Uỷ ban Khởi nghĩa, sau đó có cho công bố một văn bản trên báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung bộ, do Lê Chưởng làm Chủ nhiệm.
Tôi đã đưa bản thông báo của Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương (tức Thừa Thiên) gửi Tòa án quân sự Thuận Hoá (tức Huế), đã đăng trên báo Quyết Thắng tháng 12-1945 mà Nhật Hoa Khanh sưu tầm được cho ông Diêu đọc(15). Ở tuổi 83, không cần đeo kính, ông vẫn đọc được rất nhanh rồi gật đầu bảo tôi: Đúng văn bản này! Thông báo đó đánh giá tổng quát tội trạng của Phạm Quỳnh như sau: "Phạm Quỳnh, một tay cộng sự của Pháp ở Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mại quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9-3-1945, nhiều triệu chứng chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta".
Bản thông báo cho biết: "Cả ba tên Việt gian đại bợm (chỉ Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân - N.V.H chú) đã bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền (2 giờ ngày 23-8-1945) ở Thuận Hoá và đã bị Uỷ ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật".
Xin nói thêm về Nguyễn Tiến Lãng, bị kết án 8 năm tù, sau được giảm án và được Thiếu tướng Nguyễn Sơn, Khu trưởng Khu IV bảo lãnh, đưa về làm công việc sửa bản in thử cho tờ báo địch vận bằng tiếng Pháp của Liên khu tại một xưởng in, đặt trong chiến khu Như Xuân (Thanh Hoá), về sau được điều về dạy tiếng Pháp, rồi làm Trưởng ban Giáo dục của trường Thiếu sinh quân Liên khu IV.
Cùng thời gian này, từ 1949 đến 1951, tôi học Trung học chuyên khoa rồi ở lại làm cán bộ của trường Thiếu sinh quân. Trong không khí đoàn kết, cởi mở của trường hồi đó Nguyễn Tiến Lãng không hề bị phân biệt đối xử. Về phần ông, tận tâm với học sinh, cố gắng chịu đựng gian khổ, luôn giữ quan hệ tốt với nhân dân nơi đóng quân. Học sinh Thiếu sinh quân có nhiều cảm tình với “Thầy Lãng”.
Trong thời gian này tôi hay trò chuyện, trao đổi ý kiến với ông, từ vụ ông bị bắt ở Huế đến Tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh. Có vài ý kiến ông nói hồi đó, tôi không hiểu rõ lắm nhưng cũng không tiện hỏi thêm, chẳng hạn, theo ông, Phạm Quỳnh là một người rất kín đáo và khó hiểu, ông thú nhận là không thể hiểu nổi Phạm Quỳnh; thứ hai trong chuyến xe đi Hà Nội, sở dĩ ông bị bỏ lại vì ông là người ít quan trọng nhất!.
Hồi đó tôi đã nghĩ: So với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi thì đúng là Nguyễn Tiến Lãng ít quan trọng hơn, nhưng so với Ngô Đình Huân thì tại sao một người đã kế tục Phạm Quỳnh làm Chủ bút Nam Phong, đã làm quan Thừa Thiên Phủ doãn như Nguyễn Tiến Lãng lại ít quan trọng hơn?
Về sau đọc các sách báo, chẳng hạn cuốn Con Rồng Việt Nam của Bảo Đại(16) tôi mới biết đích xác Ngô Đình Huân hồi đó là bí thư của Đại sứ Nhật bản Yokohama tại Đông Dương.
Trong thời gian ở trường Thiếu sinh quân, Nguyễn Tiến Lãng đã được về phép, thăm quê (Vân Đình, Hà Đông) hai lần. Lần thứ nhất vào hè 1950, ông đi đến nơi về đến chốn và còn mua làm quà tặng cho học sinh một bản nhạc trữ tình lành mạnh mà đến nay một số Thiếu sinh quân đã lên tuổi 70 vẫn còn nhớ và hát lại được. Lần thứ hai về phép vào hè 1951, ông đã "dinh tê" vào Hà Nội, rồi sang Pháp và mất ở Paris năm 1976.
Xin có vài lời kết thúc: Tháng 7 năm 2008 tỉnh Hà Tĩnh tổ chức kỷ niệm lần thứ 130 ngày sinh nhà Chí sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. Tôi có bản tham luận Nhà Chí Sĩ Ngô Đức Kế, từ tù nhân Côn Đảo đến một nhà báo(17). Đề cập đến Ngô Đức Kế, Chủ bút Tạp chí Hữu Thanh, tôi không thể không nói đến Phạm Quỳnh, Chủ bút Tạp chí Nam Phong, trong "vụ đụng độ" về Truyện Kiều năm 1924, từ đó tôi không thể không khẳng định "ngòi bút Đổng Hồ" của Ngô Đức Kế là ở phía chính nghĩa dân tộc, còn ngòi bút của Phạm Quỳnh là ở phía ngược lại. Một bạn đồng nghiệp, giáo sư Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sau khi đọc bản tham luận của tôi, đã hỏi:
- Nếu như năm 1945, chiếc xe chở Phạm Quỳnh ra Hà Nội được trót lọt, rồi ông sẽ cộng tác với Chính phủ Cụ Hồ như cựu đồng liêu Bùi Bằng Đoàn của ông thì đến nay chúng ta nói về ông có khác không?
Thảo luận lịch sử trên cơ sở chữ nếu thì thật là thiếu căn cứ, đối với lịch sử thì tốt hơn là hãy tìm hiểu xem tại sao một sự kiện đã xảy ra như thế! Cách mạng đã chìa tay ra với Bảo Đại, Nguyễn Tường Tam, Ngô Đình Diệm... nhưng rút cục họ có đi với Cách mạng đâu! Dù sao câu hỏi trên vẫn làm tôi nhớ lại câu chuyện sau đây: Một hôm Hồ Chủ tịch đã hỏi một nhà báo: “- Này, sao cứ mỗi lần kỷ niệm Cách mạng tháng Tám thì báo, đài lại đưa "Cụ Phan" ra mà réo?”. Nhà báo của chúng ta hơi ngớ ra, vì trong trí nhớ thường trực của ông thì chỉ có hai "Cụ Phan", đó là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Nhưng Hồ Chủ tịch đã nói tiếp: "- Cụ Phan nay đã ở trong Chính phủ, trong Mặt trận Tổ quốc, có đóng góp rất quý. Các chú phải bảo nhau viết lách sao cho có lý, có tình!"
Thì ra Hồ Chủ tịch nói về Phó Thủ tướng Phan Kế Toại(18).
Tôi có đọc được ở đâu đó một câu cách ngôn - hình như của La Mã - đại ý khuyên rằng: đối với người đã khuất thì tốt nhất là đừng đụng chạm đến, nếu bất đắc dĩ phải nói đến thì tốt nhất chỉ nên ca ngợi. Tinh thần câu cách ngôn này cũng gần gũi với câu tục ngữ quen thuộc của nhân dân ta: "Nghĩa tử là nghĩa tận". Tôi tiếp nhận hàm nghĩa của hai lời khuyên này - theo nghĩa rộng - là khi nói về người đã chết thì phải hết sức thận trọng, phải hết sức khách quan và trung thực, không được vì một động cơ cá nhân nào mà cố ý nói sai sự thật, dù theo hướng tô hồng hay bôi đen; hơn nữa, cần nhớ rằng: trong lĩnh vực lịch sử và khoa học xã hội nói chung, dù có thiện chí, cũng rất khó nắm bắt được chân lý chính xác trăm phần trăm. Trên tinh thần đó tôi thành thật mong nhận được sự giám định và bổ sung tư liệu của đông đảo bạn đọc1
(1) Cam Vũ: Ngày Phạm Quỳnh, Tạp chí Thế kỷ 21, California, số 122, tháng 6-1999.
(2) Phạm Tôn: Người nặng lòng với nước, Tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội, số 267 tháng 2-2006.
(3) Phạm Trọng Nhân: Tựa cuốn Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo, Paris, An Tiêm, 1992, tr.13.
(4) Thanh Lãng: Trường hợp Phạm Quỳnh, Tạp chí Văn học, Sài Gòn, số 3, 4, 5, 6, tháng 1 đến tháng 4 năm 1963.
(5) Xuân Ba: Những uẩn khúc trong cuộc đời ông Chủ bút Nam Phong, Tiền Phong chủ nhật, Hà Nội, số 44, 45, 46, tháng 10 và 11-2005.
(6) Nguyễn Văn An, báo Tin điện ngày 23-3-1952 in lại trong Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo, Sđd, tr.400.
(7) Nguyễn Tiến Lãng: Les chemins de la révolte, Nxb, Amiot - Dumont, Paris, 1953, tr.22.
(8) Nguyễn Phúc Bửu Tập trong bài Tư tưởng chính trị của Phạm Quỳnh, Tạp chí Thế kỷ 21, California, số 122, tháng 6-1999.
(9) Phạm Thị Ngoạn: Introduction au Nam Phong (1917-1934) đăng Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, Sài Gòn, số 2 và 3-1973.
(10) Nguyễn Văn Trung: Trường hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn, Sài Gòn, 1975, tr.194.
(11) Phạm Khắc Hoè: Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc. Nxb Hà Nội, 1983 (lược thuật các tr.10-15).
(12) Phan Hàm: Những ngày giành chính quyền ở Huế trong cuốn Trường Thanh niên tiền tuyến Huế 1945, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.124.
(13) Phạm Thị Hoàn: Thầy tôi, Tạp chí Thế kỷ 21, California, số 122 tháng 6-1999.
(14) Trong luận án, bà Phạm Thị Ngoạn viết: "Les deux Ngô Đình et Phạm Quỳnh furent gardés au secret dans un pressoir abandonné aux environs de Hiền Sĩ" là rất chính xác. Thái Vũ, trong bài Về cái chết của ông Chủ bút Tạp chí Nam Phong, (Tiền Phong số 51, 18-12-2005) nghi vấn về chữ "pressoir" là không đúng.
(15) Nhật Hoa Khanh: Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông, Tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội, số 269, 10-2006.
(16) Bảo Đại "Con Rồng Việt Nam", bản dịch của Nguyễn Phước tộc, Paris, 1990 (đoạn nói về thời gian 1945-1946 Bảo Đại ở Hà Nội).
(17) Nguyễn Văn Hoàn: Nhà Chí sĩ Ngô Đức Kế, từ tù nhân Côn Đảo đến một nhà báo, đăng Tạp chí Văn hoá Nghệ An, số 128-129, tháng 7-2008, và Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 9-2008.
(18) Lê Việt Thảo: Một vài kỷ niệm trong những năm tháng làm phóng viên phục vụ Hồ Chủ tịch, Hồn Việt, tập 6, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2007, tr.220.
Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 11.2008
Nguồn: http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=535&m |