Showing posts with label Phạm Quỳnh. Show all posts
Showing posts with label Phạm Quỳnh. Show all posts

Thursday, 6 June 2013

PHẠM QUỲNH DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH (Nguyễn Văn Khoan)


PHẠM QUỲNH

DƯỚI ÁNH SÁNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH

Đại tá Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan
Ngày 26 tháng 12 năm 1920, trong lần tham dự Đại hội Đảng xã hội Pháp, Nguyễn Ái Quốc đã tán thành đi theo đường lối của Quốc tế Cộng sản (còn gọi là Quốc tế III, Đệ tam Quốc tế), và trở thành một trong những thành viên sáng lập Đảng Cộng sản Pháp.
Tán thành “đi theo Quốc tế Cộng sản”, có lẽ Nguyễn Ái Quốc nghĩ nhiều về đường lối ủng hộ các dân tộc thuộc địa giành độc lập, trong đó có tổ quốc Việt Nam, về một điểm tựa một hậu phương lớn mạnh, duy nhất bấy giờ cho cách mạng Việt Nam.
Năm 1930, với Chính cương, Điều lệ tóm tắt khi thống nhất ba đảng, thành lập Đảng cộng sản Việt Nam “chia giai cấp địa chủ ra đại, trung, tiểu”, lôi kéo các tầng lớp trí thức vào hàng ngũ Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã bị “phê bình” là “quốc gia chủ nghĩa”.
Bất đồng ý kiến với Nguyễn Ái Quốc, Quốc tế Cộng sản lo lắng cho chặng đường tiếp sau.
Cuối cùng, Nguyễn Ái Quốc đã xin được phép rời Matxcơva, không được phụ cấp tài chính, không cấp giấy giới thiệu.
Qua nhìn nhận tình hình Đông Dương trước nguy cơ một cuộc chiến tranh thế giới sắp xảy ra do chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi Đức khởi xướng, Quốc tế Cộng sản cuối cùng cũng đã thay đổi ý kiến, tức là chấp thuận quan điểm mới, chính xác của Nguyễn Ái Quốc về vấn đề các dân tộc thuộc địa đấu tranh cách mạng giành giải phóng dân tộc.
Từ ngày 25 tháng 7 đến 20 tháng 8 năm 1935, Đại hội lần thứ VII Quốc tế Cộng sản đã đề ra và chủ trương “cần phải thành lập mặt trận thống nhất của giai cấp vô sản để tập hợp các khuynh hướng chính trị, xã hội, tín ngưỡng khác nhau để chống chủ nghĩa phát xít và nguy cơ chiến tranh. Mặt trận thống nhất sẽ có những hình thức khác nhau ở các nước, những nét riêng của từng nước mà trình độ, đặc điểm kinh tế xã hội, quan hệ giai cấp và phong trào quần chúng khác nhau.” (Uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Biên niên sự kiện lịch sử Mặt trận Dân tộc thống nhất Việt Nam tập I, Nhà xuất bản Chính Trị Quốc Gia, 2004, tr. 116).
Tình hình thực tiễn ở Việt Nam cho phép kết luận rằng: “Năm 1935 là năm “khai tử”, chấm hết quan điểm đấu tranh giai cấp kiểu phương Tây trong xã hội phương Đông, cụ thể là ở Việt Nam, trong một xứ thuộc địa đế quốc cai trị, đang tiến hành cuộc đấu tranh giành giải phóng dân tộc (Năm 1950, trong bài Duy vật biện chứng và duy vật lịch sử đăng trên tờ Sinh hoạt nội bộ ở Việt Bắc, ký tên X.Y.Z, Bác Hồ viết: “Trong lúc cần toàn dân đoàn kết mà chủ trương giai cấp đấu tranh là một điều ngu ngốc (Nguyễn Văn Khoan, Đi tới một mùa xuân tư tưởng Hồ Chí Minh, Nhà xuất bản Công An Nhân Dân, 2007))
Tháng 9 năm 1937, Hội nghị mở rộng Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương “kiểm điểm, đánh giá sự lãnh đạo, chỉ đạo phong trào qua hai năm thực hiện Mặt trận Dân chủ” đã phê bình “các đồng chí mắc phải bệnh thiên về thợ thuyền lao động quá, có khi chỉ biết có đám người ấy thôi mà quên hết cả quyền lợi của các tầng lớp giai cấp khác”. (Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, tr 201-262).
Ngày 26 tháng 6 năm 1940, Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương, khoá này do Nguyễn Văn Cừ làm Tổng bí thư (Trường Chinh được cử vào Ban chấp hành Trung ương, tại hội nghị lần thứ 7, tháng 11 năm 1940) đã ra lời kêu gọi “toàn dân đứng dậy đấu tranh trong hàng ngũ mặt trận thống nhất dân tộc phản đế Đông Dương”. Lời kêu gọi – tuyên ngôn này ra đời sau khi đế quốc Pháp quy hàng Hít-le. Trung ương Đảng coi đây là “cơ hội tốt có một không hai để đánh đổ đế quốc thuộc địa” và kêu gọi “tinh thần đoàn kết rộng rãi từ các bậc thượng lưu trí thức (chúng tôi nhấn mạnh vì Phạm Quỳnh là thành viên của các “bậc” này) đến các hàng viên chức, hội tề, cho đến các công, nông, binh, các lớp dân chúng cần lao và các chị em phụ nữ và các giới, tất cả những ai yêu nước (chúng tôi nhấn mạnh, vì theo lời Hồ Chí Minh: “Hễ là người Việt Nam, ai cũng có lòng yêu nước và mỗi người yêu nước theo cách của họ chứ không phải chỉ có đảng viên cộng sản mới yêu nước hoặc cộng sản là người yêu nước hơn.” -NVK)
Sau khi Nguyễn Ái Quốc về nước (đầu năm 1941), Hội nghị Trung ương lần 8 họp tại Pác Bó (Cao Bằng) vào tháng 5 ngày 19 năm 1941 đã xác định: “Cuộc cách mạng trước mắt là cách mạng giải phóng dân tộc. Nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được độc lập, tự do cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc (bao gồm cả sĩ, nông, công, thương binh, các tôn giáo, dân tộc… NVK) còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng không đòi lại được”. Do đó, “Hội nghị đặt ra yêu cầu cần có những thay đổi căn bản trong chính sách đoàn kết, tập hợp lực lượng cách mạng cho phù hợp với tình hình, nhiệm vụ mới và chỉ rõ: phải thống nhất lực lượng cách mạng toàn Đông Dương, tất cả các giai cấp, các đảng phái, các dân tộc, các tôn giáo không phân biệt thợ thuyền, dân cày, phú nông, địa chủ, tư sản, ai có lòng yêu nước thương nòi sẽ cùng nhau thống nhất thành mặt trận cách mạng chung”.
Để thực hiện đường lối đoàn kết rộng rãi ấy, đường lối đại đoàn kết, hội nghị đã thành lập Mặt trận Việt Minh. Mặt trận Việt Minh kêu gọi: “nông dân phải vào Nông dân cứu quốc hội; phụ nữ phải vào Phụ nữ cứu quốc hội; trẻ em vào Nhi đồng cứu quốc hội; binh lính vào Binh lính cứu quốc hội; các bậc văn sĩ phú hào vào Việt Nam cứu quốc hội.”
Nhân dịp Hội nghị Trung ương lần thứ 8, Nguyễn Ái Quốc ra lời kêu gọi đồng bào cả nước: “Trong lúc này quyền lợi dân tộc giải phóng cao hơn hết thảy. Chúng ta phải đoàn kết lại đánh đổ bọn đế quốc và bọn Việt gian đặng cứu giống nòi ra khỏi nước sôi lửa nóng.”
Tháng 8 năm 1943, nhận định rằng sau thất bại nặng nề ở Stalingrát, phát xít Đức đang đứng trước nguy cơ thua trận cuối cùng, thời cơ khởi nghĩa sắp đến gần, phải tập trung, thống nhất lực lượng đông đảo hơn nữa, cần một lần nữa nói rõ quan điểm của Việt Minh, báo Việt Nam Độc Lập số ra ngày 21 tháng 8 năm 1943, dưới khẩu hiệu: “Tiến lên vũ trang khởi nghĩa” đã nhắc nhở: “chúng ta phải nhớ rằng lực lượng chúng ta là ở chỗ đoàn kết, đoàn kết toàn dân, đoàn kết đàn ông, đàn bà, người già, trẻ con, đoàn kết người làm ruộng, làm thợ, bán buôn, người làm việc cho Tây (tức thực dân, đế quốc Pháp), người đi lính cho Tây” (Chúng tôi nhấn mạnh-NVK) (Bản gốc lưu trữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam).
Như vậy là đã quá rõ ràng: Phạm Quỳnh, một nhà viết báo, viết văn, một người “vào bậc thượng lưu trí thức”, một người “đã làm việc cho Tây”, cũng đã được Đảng Cộng sản Đông Dương và Nguyễn Ái Quốc, Nguyễn Văn Cừ, Trường Chinh cũng như Ban chấp hành Trung ương Đảng từ 1935, đưa vào diện đoàn kết – đoàn kết rộng rãi – đại đoàn kết, để cùng đấu tranh giải phóng dân tộc.
Hai năm sau khi bài báo này công bố – bài viết mà nhiều nhà khoa học, nghiên cứu lịch sử Đảng, nghiên cứu Hồ Chí Minh nghĩ rằng “chỉ có Bác, với tư cách của mình mới viết được rõ ràng như vậy”- cũng đúng vào tháng 8 – tháng 8 năm 1945, nhân dân ta đã tổng khởi nghĩa giành được chính quyền, thắng lợi to lớn, bước đầu rất quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc, thống nhất cuối cùng sẽ đến vào năm 1975.
Có thể cho phép chúng ta suy luận là khi ở khu căn cứ Việt Bắc, Khu Giải phóng – nơi đã thành lập Uỷ ban Nhân dân – Hồ Chí Minh đã nghĩ tới một chính phủ của nước Việt Nam mới trong tương lai gần. Và một trong những thành phần của chính phủ ấy là sự có mặt của các bậc “thượng lưu, trí thức, văn sĩ, phú hào”, cả những người “đã đi lính cho Tây, làm việc cho Tây”. Lịch sử sau này đã ghi lại một danh sách dài những vị đó, từ vua Bảo Đại, khâm sai đại thần Phan Kế Toại đến các thượng thư Bùi Bằng Đoàn, Phạm Phú Tiết… và các bộ trưởng của chính phủ Trần Trọng Kim như Phan Anh, Trịnh Đình Thảo… cùng rất nhiều trí thức tư sản khác như Lê Văn Hiến, Nguyễn Văn Huyên, Nguyễn Mạnh Tường, Đặng Phúc Thông, Trịnh Văn Bô, Đỗ Đình Thiện, kể cả những tổng đốc đã có một thời “đàn áp cộng sản” như Vi Văn Định…
Như vậy, công bằng mà xét, Phạm Quỳnh cũng được đứng vào hàng ngũ những người kể trên.
Nhưng không phải riêng Phạm Quỳnh, mà nhiều người khác, trước tháng 8 năm 1945 đã bị quy tội là “theo Pháp”, “phản động”… “làm cho Pháp”. Đúng là vậy, nhưng Phạm Quỳnh vẫn được xếp trong “danh sách” những người “làm việc cho Tây, đi lính cho Tây”, để được thu hút vào Việt Minh, để đoàn kết với mọi “giai tầng” khác. Phạm Quỳnh “phản động” nhưng chưa có chứng cứ gì trực tiếp đàn áp phong trào cộng sản, làm chỉ điểm. Còn như giữ hai chức thượng thư Bộ Học, Bộ Lại thì cũng chỉ để làm vì, để lấy cớ làm việc khác mà mình muốn thực hiện thôi.
Phạm Quỳnh yêu nước theo cái cách của ông là làm “quân chủ lập hiến”. Ngoài ra ông viết báo, viết sách “mở tai, mở mắt” cho đồng bào, tài sản trí tuệ của ông để lại cho dân, cho nước không phải là nhỏ. Ý kiến của Phạm Quỳnh về mặt tư tưởng đã không thống nhất với các đảng viên cộng sản. Xin nhớ rằng trên báo Thanh Niên, từ năm 1925, Lý Thuỵ (Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh) có căn dặn các hội viên Thanh Niên: “phải tôn trọng ý kiến người khác”, “phải biết hy sinh ý kiến”.
Nguyên nhân dẫn đến bi kịch của Phạm Quỳnh cần được làm rõ, vì tư thù cá nhân, vì “vô chính phủ”, vì e ngại khi bọn Pháp vào Thuận An hỏi về Phạm Quỳnh (trong khi chưa có chứng cứ gì là Phạm Quỳnh liên lạc với chúng).
Có một thực tế là các người con của Phạm Quỳnh đều rất “ôn hoà”. 13 người trai, gái thì cô Phạm Thị Giá vợ Tôn Thất Bình, hiệu trưởng điều hành trường Thăng Long (nơi quy tụ những Phan Thanh, Đặng Thai Mai, Võ Nguyên Giáp, Quang Đạm…), cô Phạm Thị Thức là vợ Giáo sư Đặng Vũ Hỷ giải thưởng Hồ Chí Minh (đợt 1), cô Phạm Thị Ngoạn, vợ Nguyễn Tiến Lãng. Ông Lãng từng là “trợ thủ” của tướng Nguyễn Sơn ở Liên khu 4. Bà Ngoạn là tiến sĩ văn chương Việt Nam ở Pháp. Còn Nhà giáo Nhân dân, giáo sư Phạm Khuê là viện trưởng Viện Lão khoa, ông Phạm Tuyên là “Nhạc sĩ của nhân dân” với bài hát “Như có Bác trong ngày đại thắng”. Còn phải kể đến cô Phạm Thị Hoàn, vợ nhạc sĩ Lương Ngọc Châu, tác giả bài hát mà thời đầu Cách Mạng Tháng Tám các anh Vệ Túm thường hát: Một đi là không trở về…  Mà ông Châu lại là cháu nội cụ cử Lương Văn Can. Cũng có thể nghiêm khắc hay thông cảm mà nói rằng: trong số hơn 10 người con của Phạm Quỳnh cũng có người vì nhiều lý do đã “hồi cư”, rồi ra nước ngoài… Nhưng gia đình này đã không trực diện làm gì hại đến dân tộc, tổ quốc. Họ đã ít nhiều nghe theo lời dặn của Hồ Chí Minh. “Cụ Phạm (Phạm Quỳnh) là người của lịch sử, sẽ được lịch sử đánh giá lại sau này. Con cháu cứ vững tâm đi theo cách mạng”.
Cũng nên đối chiếu thêm việc các con trai, con gái Phạm Quỳnh mất cha, cùng chung một lần với Ngô Đình Diệm mất anh (Ngô Đình Khôi) và cháu (Ngô Đình Huân, con trai Ngô Đình Khôi). Trong lần tiếp Ngô Đình Diệm năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói” “Khi dân chúng bị ức hiếp nổi dậy, lỗi lầm không thể tránh khỏi và chuyện bi thảm đã xảy ra. Nhưng tôi vẫn luôn luôn tin rằng hạnh phúc của nhân dân vượt lên trên những lỗi lầm đó. Ông (Ngô Đình Diệm) có những điều oán hận chúng tôi, ta hãy nên quên đi” (Theo Hanleng Karnow, Viet Nam: A History (Lịch sử Việt Nam) New York, 2003 bản dịch của Lê Xuân Khoa). Nhưng Ngô Đình Diệm, dù vẫn là một người yêu nước, yêu nước theo cách của ông ta, vẫn không vượt qua được oán hận của gia đình (với anh, với cháu) để vì “hạnh phúc” của nhân dân (Sổ tiếp khách của Hồ Chủ tịch, lưu giữ tại Bảo tàng Cách mạng Việt Nam ghi: “Ngày 15/1/1946, tiếp Ngô Đình Diệm”).
Khi được tin Phạm Quỳnh không còn nữa, có thông tin cho rằng Bác Hồ nói: “Các chú làm hỏng việc rồi”. “Việc” có thể là “việc” của Bác đã suy nghĩ về cách mời Phạm Quỳnh ra làm gì đó cho “việc” dân, “việc” nước chăng?
Dù sao cũng đã lỡ rồi, nhưng cũng rất cần “lịch sử đánh giá lại” Cụ Phạm như lời Hồ Chí Minh…
N.V.K.

Wednesday, 5 June 2013

Góp thêm một ít tư liệu chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh (Nguyễn Văn Hoàn)



Góp thêm một ít tư liệu chung quanh cái chết của Phạm Quỳnh
          Sau khi gia đình Ngô Đình Diệm tìm được ngôi mộ chôn chung Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân và Phạm Quỳnh ở khu rừng Hắc Thú, gần Hiền Sĩ, thuộc tỉnh Quảng Trị (1956) thì báo chí Sài Gòn trước 1975, báo chí tiếng Việt ở hải ngoại thỉnh thoảng khơi lại cái chết của Phạm Quỳnh với những dụng ý khác nhau, chẳng hạn tháng 5 năm 1999 bốn tờ báo Thế kỷ 21, Người Việt, Ngày nayXây dựngphối hợp tổ chức Ngày Phạm Quỳnh ở California. Người tường thuật cho biết: "Giới truyền thông xoáy mạnh vào ký ức của gia đình trong thời điểm học giả Phạm Quỳnh bị Việt Minh bắt đi và sau đó thủ tiêu vào năm 1945, đã gợi lại mối xúc cảm thương tâm của những người con, nhiều câu trả lời đã nghẹn ngào cùng với tiếng khóc cố nén lại"(1).
        Gần đây báo chí trong nước ta cũng có một số bài khơi lại vấn đề này, có một vài bài đi theo một hướng mới: hoặc cố phát hiện "những uẩn khúc" trong cuộc đời Phạm Quỳnh, hoặc ra sức chiêu tuyết cho Phạm Quỳnh là "người nặng lòng với nước".
Trong bài này chúng tôi xin góp một ít tư liệu liên quan đến cái chết của Phạm Quỳnh để mong làm rõ nguyên do, hoàn cảnh diễn ra sự việc đó, nhằm tạo cơ sở cho việc nhận định nhân cách chính trị và hoạt động học thuật của ông.
I. TẠI SAO NĂM 1945 PHẠM QUỲNH LẠI BỊ BẮT?
Trên tạp chí Xưa và Nay (số 267, tháng 9-2006), Phạm Tôn viết: "Qua nửa năm làm Thượng thư kiêm Ngự tiền văn phòng, chín năm làm Thượng thư Bộ Học và gần ba năm làm Thượng thư Bộ Lại, sau đảo chính Nhật 9-3-1945, Phạm Quỳnh thanh thản từ nhiệm, về sống ẩn dật tại biệt thự Hoa Đường bên bờ con sông nhỏ An Cựu... Ông lặng lẽ chuẩn bị trở lại với hoạt động Văn học (Do chúng tôi nhấn mạnh - N.V.H), dịch và chú giải 51 bài thơ Đỗ Phủ, bắt đầu viết tập Kiến văn cảm tưởng: Hoa đường tuỳ bút"(2).
Phạm Trọng Nhân, trong lời tựa cuốn Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo in ở Paris năm 1992, cũng đã viết: "Ngày 9 tháng 3 năm 1945, Nhật đảo chính Pháp. Cuốn sử sang trang. Việt Nam tuyên bố độc lập. Phạm Quỳnh xin về hưu trí, sống đời ẩn dật nơi biệt thự Hoa đường bên bờ sông đào Phủ Cam hiền hậu hài hoà. Ông ôm ấp hoài bão trở lại với sinh hoạt văn chương đã bị gián đoạn tạm thời vì số mạng (Do chúng tôi nhấn mạnh - N.V.H.). Ông khởi viết một số bài, gom dưới đề Kiến văn cảm tưởng, trong đó mặc nhiên và tế nhị ký thác cả một tâm sự phong phú và đa dạng của một nhà văn phong nhã hào hoa, lạc lõng nơi bể hoạn sinh bất phùng thời"(3).
Thanh Lãng trong bài Trường hợp Phạm Quỳnh, viết để phản bác lại những luận điểm của Nguyễn Văn Trung phê phán Phạm Quỳnh trong cuộc diễn thuyết Văn học và chính trị - Một quan điểm mới về cuộc tranh luận Phạm Quỳnh - Ngô Đức Kế qua Truyện Kiềutại trường Quốc gia Âm nhạc, Sài Gòn ngày 7-10-1962, đã viết: "Làm sao hiểu được tâm sự của Phạm Quỳnh. Thực là khó khăn! Tuy nhiên, thái độ có vẻ chán chính trị, được bộc lộ qua thái độ sống rút lui, ẩn dật trên bờ sông An Cựu hình như biện minh phần nào cho Phạm Quỳnh.
Phạm Quỳnh lúc ấy không tham gia chính phủ Trần Trọng Kim, không chạy theo thực dân Pháp, không theo một phe phái cách mạng nào mà cũng chẳng gia nhập Mặt trận Việt Minh"(4). (Các dòng in nghiêng là do chúng tôi nhấn mạnh - N.V.H.)
Nhà báo Xuân Ba trong bài Những uẩn khúc trong cuộc đời ông Chủ bút Nam Phong, đăng liền trên ba số Tiền Phong chủ nhật(10-2005) cũng nhấn mạnh theo Phạm Trọng Nhân: Sau ngày 9-3-1945 Phạm Quỳnh "xin về hưu trí, sống ẩn dật ở biệt thự Hoa đường bên bờ sông đào Phủ Cam hiền hoà. Ông ôm hoài bão trở lại với văn chương!"(5).
Tóm lại, theo Phạm Tôn, Phạm Trọng Nhân, Thanh Lãng, Xuân Ba thì từ sau đảo chính Nhật 9-3-1945 Phạm Quỳnh đã dứt khoát rời bỏ chính trường, an nhiên ngâm bài Quy khứ lai từ, trở lại vui thú bút nghiên!.
Ngay bản thân Phạm Quỳnh cũng tuyên bố như thế. Sau ngày đảo chính Nhật, có một nhà báo lặn lội từ Hà Nội vào Huế, bằng đủ loại phương tiện giao thông: xe lửa, xe hơi, đi thuyền, xe kéo và cả đi bộ, để đến biệt thự Hoa đường ở An Cựu, phỏng vấn Phạm Quỳnh.
Hỏi: Chúng tôi muốn biết rồi đây cụ có hoạt động về chính trị nữa không, hay trở về với văn học giới ?
Đáp: - Suốt một đời tôi đã phụng sự cho văn học thì ngày nay không vì lẽ gì tôi lại không muốn trở lại cái đời cầm bút đã bị một thời gian bỏ dở(6).
Hơn thế nữa, trong cuốn truyện có tính chất hồi ký nhan đề Những con đường phản kháng, con rể Phạm Quỳnh là Nguyễn Tiến Lãng đã báo cho vợ (bà Phạm Thị Ngoạn): "Sáng ngày 23 tháng 8 năm 1945 cờ mới (tức cờ đỏ sao vàng - N.V.H. chú) đã được treo trước cửa nhà.
Khi thức dậy cha nói với người bồi phòng: Nếu trẻ con phải cầm cờ đi mít tinh, anh đi mua cho chúng. Sau bữa ăn, tất cả thanh niên con cháu bồi bếp đều đi mít tính, chỉ có cha và anh ở nhà với đàn bà con gái"(7).
Như vậy là vào sáng ngày 23-8-1945, ngày nhân dân thành phố Huế mít tinh, khởi nghĩa cướp chính quyền, gia đình Phạm Quỳnh cũng đã tỏ thái độ quy phục cách mạng, tại sao đến 14 giờ chiều hôm ấy Phạm Quỳnh lại bị bắt?
Trong bài báo mà chúng tôi đã trích dẫn ở đầu bài này, Phạm Tôn, để chứng minh Phạm Quỳnh là "người nặng lòng với nước" đã dùng lại tư liệu và lập luận của Nguyễn Phúc Bửu Tập trong Ngày Phạm Quỳnh ở California, Mỹ. Theo Nguyễn Phúc Bửu Tập thì Phạm Quỳnh, về văn hoá, có một địa vị siêu đẳng trong nền văn học nước ta, về chính trị, thật xứng đáng được xếp ngang hàng với các bậc tiền bối như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh để gọi là Chí sĩ Phạm Quỳnh, Chiến sĩ Ái Quốc Phạm Quỳnh. Cả hai người - Nguyễn Phúc Bửu Tập và Phạm Tôn - để chứng minh "tấm lòng son" của Phạm Quỳnh đều dẫn ra bản báo cáo mật của Haelewyn, Khâm sứ Trung Kỳ, gửi cho Toàn quyền Đông Dương Decoux, tố cáo Phạm Quỳnh đã trách cứ Pháp trưng dụng lúa gạo để cung ứng cho Nhật và vẫn kiên trì đòi Pháp trả quyền cai trị Bắc Kỳ cho Nam Triều nhưng cả hai đều bỏ qua ý kiến này trong bản mật báo "Phạm Quỳnh sẽ có thể trở thành kẻ đối địch bất khả quy của chúng ta nếu như một khi ông ta bị lôi cuốn bởi lời hứa hẹn của Nhật Bản cho một chủ thuyết Đại Đông Á"(8).
Lời cảnh báo này chứng tỏ bộ máy mật thám Trung Kỳ của Pháp rất thính, đã tiên đoán ra khả năng thay đổi thái độ chính trị của Phạm Quỳnh, một khi Nhật thắng thế và bây giờ - sau đảo chính Nhật 9-3-1945 - khả năng đó đang trở thành hiện thực.
Trong cuốn Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo do gia đình Phạm Quỳnh xuất bản ở Paris năm 1992 nhân dịp kỉ niệm 100 năm ngày sinh của Phạm Quỳnh (1892-1992) (Phạm Thị Hoàn, người con thứ tám của Phạm Quỳnh giữ bản quyền, người cháu là Phạm Trọng Nhân đề tựa), mở đầu phần Di cảo (tức Hoa đường tuỳ bút) đã viết: "Chúng tôi cho in lại trọn vẹn phần Di cảo này coi như một sử liệu tốt cho những ai muốn nghiên cứu về Phạm Quỳnh sau này".
Nói như thế nhưng không làm đúng như thế!
Cuối năm 1982 trong một chuyến tôi sang Paris công tác, tại phòng làm việc của ông, giáo sư Pierre - Bernard Lafont, Chủ nhiệm Trung tâm Lịch sử và Văn minh bán đảo Đông Dương của trường Cao học thực hành thuộc Đại học Sorbonne, đã giới thiệu tôi với bà Phạm Thị Ngoạn. Không hiểu có được thông tin từ nguồn nào mà ông đã nói:
- Đây là giáo sư Hoàn, mới từ Hà Nội sang, trước đây có thời gian cùng làm việc với chồng bà ở Khu IV, Việt Nam.
P.B. Lafont là giáo sư hướng dẫn bà Phạm Thị Ngoạn làm luận án Tìm hiểu Tạp chí Nam Phong (1917-1934)(9). Trong luận án này bà Ngoạn đã giới thiệu lại đầy đủ danh mục các bài trong Di cảo: Bài thứ nhất, nhan đề Thế thái nhân tình; bài thứ 11, bài cuối cùng, nhan đề Cô Kiều với tôi; bài thứ 6, nhan đề Chuyện một đêm một ngày (9-10 tháng 3 năm 1945). Đây là bài cố ý bị bỏ quên, không được in lại trong cuốn Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo, nhưng năm 1973 ở Sài Gòn Giáo sư Nguyễn Văn Trung đã được bà Phạm Thị Hảo, người con thứ năm của Phạm Quỳnh, cho mượn và chụp lại một bản. Theo Nguyễn Văn Trung trong bài này "Phạm Quỳnh kể lại vụ đảo chính Nhật 9-3 ở Huế và người ta thấy Phạm Quỳnh là nhân vật chính mà Nhật tìm đến để liên lạc, đề nghị thương thảo để thuyết phục nhà vua cộng tác với Nhật"(10).
Về việc này còn có một nhân chứng khác. Trong hồi ký Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc, Phạm Khắc Hoè, nguyên Chánh văn phòng của Bảo Đại cho biết: Sáng ngày 10-3-1945 ông đi vào Đại Nội làm việc như thường lệ, đến cửa Thượng Tứ thì bị lính Nhật chặn lại và dẫn đến trước mặt một viên quan Nhật. Viên quan này thấy ông đeo bài ngà Ngự tiền văn phòng Tổng lý thì chào một cách kính cẩn và nói bằng tiếng Pháp: "Quân đội Thiên hoàng chỉ truất quyền của thực dân Pháp thôi, chứ không đụng chạm gì đến Nam Triều, còn lệnh thiết quân luật thì đến 6 giờ sáng mai mới hết", sau đó viên quan Nhật thân dẫn ông Hoè về đến tận nhà!
Sáng hôm sau, 7 giờ, ông Hoè vào điện Kiến Trung, nơi Bảo Đại ở và làm việc. Một lính thị vệ chạy lại: "Dạ bẩm, Hoàng đế chưa tánh (chưa dậy) còn các cụ Cơ mật đã vào chầu Đức Từ (mẹ Bảo Đại)". Ông Hoè vào cung Diên Thọ, thấy sáu vị thượng thư đang đàm luận sôi nổi với bà Từ Cung về thú đánh mạt chược! Thấy ông Hoè, bà ấy nói mát:
- Hôm nay ông Tổng lý mới vào à!
Ông Hoè thanh minh:
- Tâu, từ tờ mờ sáng hôm qua chúng tôi đi đến cửa Thượng tứ thì bị lính Nhật chặn lại và cho biết đến sáng nay mới hết giờ thiết quân luật!
Bà Từ Cung bắt bẻ:
- Quân luật là đối với người thường, chứ đâu đối với các ông. Chứng cớ là hôm qua ông Lại vẫn vào chầu được!
Ông Hoè hỏi nhỏ một anh thị vệ:
- Hôm qua cụ Lại vào chầu lúc mấy giờ ?
- Dạ bẩm, cụ Lại vào lúc hơn 10 giờ, đi cùng một ông Nhật chắc là quan to lắm !
Sau đó Hội đồng Cơ mật họp. Bảo Đại bảo: "Thầy Lại bắt đầu đi!"
Phạm Quỳnh nói:
- Nhờ quân đội Thiên Hoàng nước ta đã được độc lập. Hôm qua quan Đại sứ Nhật ở Đông Dương là Yokohama đã vào chầu Hoàng đế, tâu bày nhã ý của Chính phủ Nhật sẵn sàng công nhận nền độc lập của nước ta. Hôm nay Hội đồng Cơ mật họp, thông qua bản "Tuyên bố độc lập"; để cho gọn việc, chúng tôi đã trộm phép dự thảo bản đó. Nói xong Phạm Quỳnh trịnh trọng đọc bản tuyên bố bằng tiếng Việt và bản dịch chữ Hán(11).
Phạm Quỳnh bị bắt chiều ngày 23-8-1945 thì sáng 29-8 một nhóm sáu sĩ quan Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ, tự xưng là "Phái bộ Đồng minh". Trong lúc Phan Tử Lăng, Chỉ huy trưởng còn đi thỉnh thị cấp trên thì nhóm Thanh niên tiền tuyến tức tối về thái độ láo xược của bọn Pháp, đã bất ngờ tấn công bắt gọn. Theo tài liệu thu được thì nhóm này có nhiệm vụ liên lạc với các quan lại bản xứ để lập lại chủ quyền của Pháp ở Đông Dương.
Gần một tuần sau các báo ở Hà Nội đã đưa tin này để tố cáo âm mưu xâm lược của Pháp. Lê Thiệu Huy, con cụ Lê Thước, một đội viên Thanh niên tiền tuyến, hàng ngày học tiếng Anh qua đài BBC, cho biết: đài BBC cũng đưa tin này. Mười ngày sau một đơn vị lính Pháp khác lại tìm cách đổ bộ vào cửa biển Thuận An, để thực hiện nhiệm vụ giống như nhóm nhảy dù xuống Hiền Sĩ.
Tóm lại, việc quân Nhật và Phạm Quỳnh âm mưu liên lạc, cấu kết với nhau là nguyên do đầu tiên đưa đến việc Phạm Quỳnh bị bắt giữ. Sau đó việc quân Pháp tìm cách trở lại Huế, thực hiện âm mưu tái chiếm Đông Dương của Chính phủ De Gaulle lại khẳng định sự đúng đắn và cần thiết của việc bắt giữ đó.
II- DIỄN BIẾN SỰ VIỆC Ở HIỀN SĨ
Đầu năm 1962, Viện Văn học trình lên cấp trên dự kiến kế hoạch kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965. Cuối năm đó Văn phòng ông Tố Hữu chuyển đến Viện một bản tiểu luận, 91 trang đánh máy, nhan đề Trách nhiệm và giá trị Nguyễn Du về Truyện Kiều. So sánh Truyện Kiều của Nguyễn Du với Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân (Trung Quốc), bản tiểu luận cho rằng công của Nguyễn Du chỉ là ở tài phỏng dịch:
Rằng hay thì thật là hay,
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra!
Tác giả là ông Tôn Quang Phiệt. Kèm theo còn có một bức thư viết tay gửi ông Tố Hữu, yêu cầu được công bố bản tiểu luận. Dưới góc trái bức thư có lời ghi: "Ý anh Lành: Do Viện quyết định".
Ban lãnh đạo Viện Văn học đã cử tôi đi gặp ông Tôn Quang Phiệt. Tôi biết ông Tôn Quang Phiệt trước Cách mạng là Hiệu trưởng Trường Thuận Hoá - Huế, hoạt động Việt Minh ở Huế, sau Cách mạng làm Chủ tịch Uỷ ban Cách mạng lâm thời tỉnh Thừa Thiên; trong tiểu luận có đoạn ông phê phán ý kiến đề cao Truyện Kiều của "tên bồi bút thực dân Phạm Quỳnh" nên tôi đã hỏi ông về vụ Phạm Quỳnh bị bắt ở Huế năm 1945.
Ông cho biết: Ngày 14 tháng 8 năm 1945 Nhật tuyên bố đầu hàng nhưng lúc đó ở Huế còn gần năm ngàn lính Nhật chưa bị tước vũ khí. Có tin báo: chúng đang liên lạc với Phạm Quỳnh... Nhằm mục đích ngăn chặn, trưa ngày 23-8-1945, Chủ tịch Uỷ ban Khởi nghĩa Trung bộ Trần Hữu Dực ra lệnh bắt khẩn cấp Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi... đem về giam ở nhà lao Thừa Phủ. Một tên hiến binh Nhật đến đập cửa nhà lao đòi vào thăm "bạn", ta từ chối, chúng lại tìm cách đột nhập nhà lao bằng cổng sau nhưng lại bị ngăn chặn. Chính phủ Trung ương chỉ thị đưa ngay nhóm bị bắt ra Hà Nội. Vì xe chật nên Nguyễn Tiến Lãng bị bỏ lại. Biết tin, hiến binh Nhật cho xe đuổi theo. Đến Hiền Sĩ chúng đuổi gần kịp. Tổ áp giải bất ngờ cho xe rẽ vào rừng. Bọn Nhật mất mục tiêu, rất tức tối, chúng bắn chết hai người ăn xin đang nấu cơm ở chợ rồi quay về Huế.
Gần đây, cuốn Trường Thanh niên tiền tuyến Huế - 1945 đã cung cấp hồi ức của nhiều nhân chứng về các sự kiện xẩy ra ở Huế, trước và sau Tổng khởi nghĩa, nhưng để hiểu cụ thể hơn, tôi đã tìm gặp ông Đặng Văn Việt, Trưởng Ban liên lạc cựu học sinh trường Thanh niên tiền tuyến Huế - 1945. Đây là lần đầu tiên tôi gặp ông nhưng có cảm tưởng như gặp lại một người quen cũ. Ông xuất thân từ một gia đình nổi tiếng của huyện Diễn Châu, cạnh huyện tôi, thuộc tỉnh Nghệ An. Ông nội của ông, đậu Hoàng giáp, từng làm Tế tửu Quốc tử giám. Thân sinh của ông là Phó bảng Đặng Văn Hướng, ngay trước Cách mạng là Tổng đốc tỉnh Nghệ An, sau Cách mạng được Hồ Chủ tịch mời làm Bộ trưởng không bộ (1946-1952), phụ trách ba tỉnh Thanh - Nghệ - Tĩnh. Những năm 1950-1951, trong các lớp học chính trị "rèn cán chỉnh cơ" ở Quân khu IV tôi đã được nghe tên ông, một Trung đoàn trưởng kiệt xuất của Chiến dịch biên giới, chiến binh Pháp gọi ông là con hùm xám đường số 4. Còn bây giờ, ngồi bệt xuống sàn nhà của một căn hộ nhỏ, khiêm tốn, trong khu lao động Quỳnh Mai (Hà Nội), trước mặt tôi là một cựu chiến binh đã gần 90 tuổi, nhưng thân hình vạm vỡ, nói chuyện linh hoạt, hóm hỉnh.
Ông giới thiệu với tôi về trường Thanh niên tiền tuyến. Chính phủ Trần Trọng Kim thân Nhật không có bộ Quốc phòng mà chỉ có bộ Thanh niên. Bấy giờ Đại học Đông Dương ở Hà Nội đóng cửa, nhiều sinh viên miền Trung rủ nhau về Huế. Đặng Văn Việt, quê ở Nghệ An nhưng là cựu học sinh trường Khải Định nên cũng vui bầu vui bạn về Huế. Luật sư Phan Anh, Bộ trưởng bộ Thanh niên và Giáo sư Tạ Quang Bửu, lãnh đạo tổ chức Hướng đạo sinh, Đặc uỷ viên của Bộ Thanh niên, liền tổ chức Trường Thanh niên tiền tuyến, gồm 43 học viên. Ban đầu trong số này đã có 5 người gia nhập Việt Minh, dần dần tất cả đều "Việt Minh hoá" và trở thành một lực lượng tự vệ vũ trang của Uỷ ban Khởi nghĩa ở Huế. Đặng Văn Việt nói: "Thanh niên tiền tuyến như một con dao pha được huy động ở mọi nơi cần thiết". Ngày 23-8-1945, Đặng Văn Việt và Cao Pha được phái đi bắt cha con Ngô Đình Khôi – Ngô Đình Huân. Phan Hàm và Võ Quang Hồ đi bắt Phạm Quỳnh và Nguyễn Tiến Lãng. 
Trong hồi ức Những ngày giành chính quyền ở Huế, Phan Hàm, về sau là Thiếu tướng Quân đội nhân dân Việt Nam, mất năm 2004, đã kể lại việc đi bắt Phạm Quỳnh như sau: "Chúng tôi đi một chiếc Jeep, vào ngay giữa sân, gặp Nguyễn Tiến Lãng bước ra. Ông Lãng đoán biết, bỏ chạy. Tôi bắn theo một phát, súng không nổ, thật hú vía cho cả người bắn và người bị bắn. Chúng tôi đưa những người bị bắt về lao Thừa Phủ "(12).
Bà Phạm Thị Hoàn, người chứng kiến, cũng đã kể lại vụ việc này(13).
Gần đây tôi đã hai lần đến gặp ông Hoàng Ngọc Diêu tại nhà riêng của ông ở Hà Nội. Lần đầu đến cùng ông Đặng Minh Phương. Năm nay ông Diêu 83 tuổi. Năm 1986 ông được phong hàm Trung tướng, làm Tổng cục trưởng Hàng không dân dụng Việt Nam, về hưu năm 1990. Năm 1945, khi xe của nhóm Phạm Quỳnh bị kẹt lại ở Hiền Sĩ thì ông đang công tác tại đây, làm Uỷ viên Chấp hành Việt Minh kiêm Bí thư Thanh niên cứu quốc huyện Phong Điền. Lúc đầu nhóm Phạm Quỳnh bị giam ở Lò Tràm đang bỏ hoang (tức một xưởng ép lá tràm lấy dầu)(14). Khi có toán sĩ quan Pháp nhảy dù xuống Hiền Sĩ thì tỉnh chỉ thị "di chuyển ngay nhóm bị bắt". Sau đó ông Diêu được điều về Huế làm Đội trưởng một đội cảm tử, nên không biết những việc cuối cùng xẩy ra ở Hiền Sĩ với nhóm bị bắt trong bối cảnh tình hình giữa ta và Pháp ngày càng căng thẳng, nhưng ông có được xem phiên toà xử Nguyễn Tiến Lãng ở Đại Nội, Huế. Ông còn nhớ Nguyễn Tiến Lãng đã tự bào chữa, đại ý nói: nước mất tôi cũng đi tìm thuốc nhưng lại gặp phải liều thuốc độc!
Về sau hai gia đình Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi có đơn khiếu nại. Uỷ ban Cách mạng lâm thời đã trả lời: Những việc trước đây là thuộc thẩm quyền của Uỷ ban Khởi nghĩa, sau đó có cho công bố một văn bản trên báo Quyết Thắng của Việt Minh Trung bộ, do Lê Chưởng làm Chủ nhiệm.
Tôi đã đưa bản thông báo của Uỷ ban Khởi nghĩa tỉnh Nguyễn Tri Phương (tức Thừa Thiên) gửi Tòa án quân sự Thuận Hoá (tức Huế), đã đăng trên báo Quyết Thắng tháng 12-1945 mà Nhật Hoa Khanh sưu tầm được cho ông Diêu đọc(15). Ở tuổi 83, không cần đeo kính, ông vẫn đọc được rất nhanh rồi gật đầu bảo tôi: Đúng văn bản này! Thông báo đó đánh giá tổng quát tội trạng của Phạm Quỳnh như sau: "Phạm Quỳnh, một tay cộng sự của Pháp ở Đông Dương, đã bao phen làm cho quốc dân phải điêu đứng. Phạm Quỳnh đã giúp sức cho quân cướp nước làm mê muội dân chúng Việt Nam. Với cái nghề mại quốc cầu vinh, Phạm Quỳnh đã từ một tên viết báo nhảy lên một địa vị cao nhất trong hàng quan lại Nam triều. Phạm Quỳnh lại còn dựa vào thế lực Pháp và địa vị của mình bóc lột, vơ vét tài sản của quốc dân. Mặc dầu chính quyền của giặc Pháp đã bị truất sau ngày đảo chính 9-3-1945, nhiều triệu chứng chứng tỏ rằng Phạm Quỳnh chỉ chờ cơ hội rước bọn thực dân Pháp đến làm cho diệt nước chúng ta".
Bản thông báo cho biết: "Cả ba tên Việt gian đại bợm (chỉ Phạm Quỳnh, Ngô Đình Khôi, Ngô Đình Huân - N.V.H chú) đã bị bắt ngay trong giờ cướp chính quyền (2 giờ ngày 23-8-1945) ở Thuận Hoá và đã bị Uỷ ban Khởi nghĩa kết án tử hình và đã thi hành ngay trong thời kỳ thiết quân luật".
Xin nói thêm về Nguyễn Tiến Lãng, bị kết án 8 năm tù, sau được giảm án và được Thiếu tướng Nguyễn Sơn, Khu trưởng Khu IV bảo lãnh, đưa về làm công việc sửa bản in thử cho tờ báo địch vận bằng tiếng Pháp của Liên khu tại một xưởng in, đặt trong chiến khu Như Xuân (Thanh Hoá), về sau được điều về dạy tiếng Pháp, rồi làm Trưởng ban Giáo dục của trường Thiếu sinh quân Liên khu IV.
Cùng thời gian này, từ 1949 đến 1951, tôi học Trung học chuyên khoa rồi ở lại làm cán bộ của trường Thiếu sinh quân. Trong không khí đoàn kết, cởi mở của trường hồi đó Nguyễn Tiến Lãng không hề bị phân biệt đối xử. Về phần ông, tận tâm với học sinh, cố gắng chịu đựng gian khổ, luôn giữ quan hệ tốt với nhân dân nơi đóng quân. Học sinh Thiếu sinh quân có nhiều cảm tình với “Thầy Lãng”.
Trong thời gian này tôi hay trò chuyện, trao đổi ý kiến với ông, từ vụ ông bị bắt ở Huế đến Tạp chí Nam Phong và Phạm Quỳnh. Có vài ý kiến ông nói hồi đó, tôi không hiểu rõ lắm nhưng cũng không tiện hỏi thêm, chẳng hạn, theo ông, Phạm Quỳnh là một người rất kín đáo và khó hiểu, ông thú nhận là không thể hiểu nổi Phạm Quỳnh; thứ hai trong chuyến xe đi Hà Nội, sở dĩ ông bị bỏ lại vì ông là người ít quan trọng nhất!.
Hồi đó tôi đã nghĩ: So với Phạm Quỳnh và Ngô Đình Khôi thì đúng là Nguyễn Tiến Lãng ít quan trọng hơn, nhưng so với Ngô Đình Huân thì tại sao một người đã kế tục Phạm Quỳnh làm Chủ bút Nam Phong, đã làm quan Thừa Thiên Phủ doãn như Nguyễn Tiến Lãng lại ít quan trọng hơn?
Về sau đọc các sách báo, chẳng hạn cuốn Con Rồng Việt Nam của Bảo Đại(16) tôi mới biết đích xác Ngô Đình Huân hồi đó là bí thư của Đại sứ Nhật bản Yokohama tại Đông Dương.
Trong thời gian ở trường Thiếu sinh quân, Nguyễn Tiến Lãng đã được về phép, thăm quê (Vân Đình, Hà Đông) hai lần. Lần thứ nhất vào hè 1950, ông đi đến nơi về đến chốn và còn mua làm quà tặng cho học sinh một bản nhạc trữ tình lành mạnh mà đến nay một số Thiếu sinh quân đã lên tuổi 70 vẫn còn nhớ và hát lại được. Lần thứ hai về phép vào hè 1951, ông đã "dinh tê" vào Hà Nội, rồi sang Pháp và mất ở Paris năm 1976.
Xin có vài lời kết thúc: Tháng 7 năm 2008 tỉnh Hà Tĩnh tổ chức kỷ niệm lần thứ 130 ngày sinh nhà Chí sĩ yêu nước Ngô Đức Kế. Tôi có bản tham luận Nhà Chí Sĩ Ngô Đức Kế, từ tù nhân Côn Đảo đến một nhà báo(17). Đề cập đến Ngô Đức Kế, Chủ bút Tạp chí Hữu Thanh, tôi không thể không nói đến Phạm Quỳnh, Chủ bút Tạp chí Nam Phong, trong "vụ đụng độ" về Truyện Kiều năm 1924, từ đó tôi không thể không khẳng định "ngòi bút Đổng Hồ" của Ngô Đức Kế là ở phía chính nghĩa dân tộc, còn ngòi bút của Phạm Quỳnh là ở phía ngược lại. Một bạn đồng nghiệp, giáo sư Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội, sau khi đọc bản tham luận của tôi, đã hỏi:
- Nếu như năm 1945, chiếc xe chở Phạm Quỳnh ra Hà Nội được trót lọt, rồi ông sẽ cộng tác với Chính phủ Cụ Hồ như cựu đồng liêu Bùi Bằng Đoàn của ông thì đến nay chúng ta nói về ông có khác không?
Thảo luận lịch sử trên cơ sở chữ nếu thì thật là thiếu căn cứ, đối với lịch sử thì tốt hơn là hãy tìm hiểu xem tại sao một sự kiện đã xảy ra như thế! Cách mạng đã chìa tay ra với Bảo Đại, Nguyễn Tường Tam, Ngô Đình Diệm... nhưng rút cục họ có đi với Cách mạng đâu! Dù sao câu hỏi trên vẫn làm tôi nhớ lại câu chuyện sau đây: Một hôm Hồ Chủ tịch đã hỏi một nhà báo: “- Này, sao cứ mỗi lần kỷ niệm Cách mạng tháng Tám thì báo, đài lại đưa "Cụ Phan" ra mà réo?”. Nhà báo của chúng ta hơi ngớ ra, vì trong trí nhớ thường trực của ông thì chỉ có hai "Cụ Phan", đó là Phan Bội Châu và Phan Châu Trinh. Nhưng Hồ Chủ tịch đã nói tiếp: "- Cụ Phan nay đã ở trong Chính phủ, trong Mặt trận Tổ quốc, có đóng góp rất quý. Các chú phải bảo nhau viết lách sao cho có lý, có tình!"
Thì ra Hồ Chủ tịch nói về Phó Thủ tướng Phan Kế Toại(18).
Tôi có đọc được ở đâu đó một câu cách ngôn - hình như của La Mã - đại ý khuyên rằng: đối với người đã khuất thì tốt nhất là đừng đụng chạm đến, nếu bất đắc dĩ phải nói đến thì tốt nhất chỉ nên ca ngợi. Tinh thần câu cách ngôn này cũng gần gũi với câu tục ngữ quen thuộc của nhân dân ta: "Nghĩa tử là nghĩa tận". Tôi tiếp nhận hàm nghĩa của hai lời khuyên này - theo nghĩa rộng - là khi nói về người đã chết thì phải hết sức thận trọng, phải hết sức khách quan và trung thực, không được vì một động cơ cá nhân nào mà cố ý nói sai sự thật, dù theo hướng tô hồng hay bôi đen; hơn nữa, cần nhớ rằng: trong lĩnh vực lịch sử và khoa học xã hội nói chung, dù có thiện chí, cũng rất khó nắm bắt được chân lý chính xác trăm phần trăm. Trên tinh thần đó tôi thành thật mong nhận được sự giám định và bổ sung tư liệu của đông đảo bạn đọc1
(1) Cam Vũ: Ngày Phạm Quỳnh, Tạp chí Thế kỷ 21, California, số 122, tháng 6-1999.
(2) Phạm Tôn: Người nặng lòng với nước, Tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội, số 267 tháng 2-2006.
(3) Phạm Trọng Nhân: Tựa cuốn Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo, Paris, An Tiêm, 1992, tr.13.
(4) Thanh Lãng: Trường hợp Phạm Quỳnh, Tạp chí Văn học, Sài Gòn, số 3, 4, 5, 6, tháng 1 đến tháng 4 năm 1963.
(5) Xuân Ba: Những uẩn khúc trong cuộc đời ông Chủ bút Nam PhongTiền Phong chủ nhật, Hà Nội, số 44, 45, 46, tháng 10 và 11-2005.
(6) Nguyễn Văn An, báo Tin điện ngày 23-3-1952 in lại trong Phạm Quỳnh - Tuyển tập và Di cảo, Sđd, tr.400.
(7) Nguyễn Tiến Lãng: Les chemins de la révolte, Nxb, Amiot - Dumont, Paris, 1953, tr.22.
(8) Nguyễn Phúc Bửu Tập trong bài Tư tưởng chính trị của Phạm Quỳnh, Tạp chí Thế kỷ 21, California, số 122, tháng 6-1999.
(9) Phạm Thị Ngoạn: Introduction au Nam Phong (1917-1934) đăng Bulletin de la Société des Etudes Indochinoises, Sài Gòn, số 2 và 3-1973.
(10) Nguyễn Văn Trung: Trường hợp Phạm Quỳnh, Nam Sơn, Sài Gòn, 1975, tr.194.
(11) Phạm Khắc Hoè: Từ Triều đình Huế đến Chiến khu Việt Bắc. Nxb Hà Nội, 1983 (lược thuật các tr.10-15).
(12) Phan Hàm: Những ngày giành chính quyền ở Huế trong cuốn Trường Thanh niên tiền tuyến Huế 1945, Nxb. Công an nhân dân, Hà Nội, 2008, tr.124.
(13) Phạm Thị Hoàn: Thầy tôi, Tạp chí Thế kỷ 21, California, số 122 tháng 6-1999.
(14) Trong luận án, bà Phạm Thị Ngoạn viết: "Les deux Ngô Đình et Phạm Quỳnh furent gardés au secret dans un pressoir abandonné aux environs de Hiền Sĩ" là rất chính xác. Thái Vũ, trong bài Về cái chết của ông Chủ bút Tạp chí Nam Phong, (Tiền Phong số 51, 18-12-2005) nghi vấn về chữ "pressoir" là không đúng.
(15) Nhật Hoa Khanh: Phạm Quỳnh và bản án tử hình đối với ông, Tạp chí Xưa và Nay, Hà Nội, số 269, 10-2006.
(16) Bảo Đại "Con Rồng Việt Nam", bản dịch của Nguyễn Phước tộc, Paris, 1990 (đoạn nói về thời gian 1945-1946 Bảo Đại ở Hà Nội).
(17) Nguyễn Văn Hoàn: Nhà Chí sĩ Ngô Đức Kế, từ tù nhân Côn Đảo đến một nhà báo, đăng Tạp chí Văn hoá Nghệ An, số 128-129, tháng 7-2008, và Tạp chí Nghiên cứu Văn học, Hà Nội, số 9-2008.
(18) Lê Việt Thảo: Một vài kỷ niệm trong những năm tháng làm phóng viên phục vụ Hồ Chủ tịchHồn Việt, tập 6, Nxb. Văn học, Hà Nội, 2007, tr.220.

Tạp chí Nghiên cứu Văn học số 11.2008
Nguồn: http://www.vienvanhoc.org.vn/reader/?id=535&m

Sunday, 2 June 2013

Thư phản hồi cùng tác giả Phạm Quỳnh – một góc nhìn (Văn Thanh)


Thư phản hồi cùng tác giả Phạm Quỳnh – một góc nhìn

Văn Thanh

Hình ảnh của Thư phản hồi cùng tác giả Phạm Quỳnh – một góc nhìn
Tôi đã được đọc thư của Đại tá-Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan gửi trên Phạm Tôn blog (http://phamquynh.wordpress.com/2012/05/10/thu-cua-tien-si-nguyen-van-khoan-gui-blog-phamton/) trả lời lại về bài viết của tôi trên tạp chí Hồn Việt số 58 (tháng 5/2012). Nhưng phải đến khi có thư viết tay của Đại tá-TS Nguyễn Văn Khoan gửi đến tạp chí Hồn Việt, tôi mới tin chắc đó là ý kiến của tác giả, và nay tôi mới có ý kiến trả lời.
Tôi cũng chỉ là một bạn đọc có thời gian dài quan tâm theo dõi tạp chí Hồn Việt. Mới đây, tôi gửi bài viết Trao đổi với tác giả Nguyễn Văn Khoan nhân đọc sách Phạm Quỳnh - một góc nhìn, được tòa soạn đồng ý sử dụng nhưng yêu cầu tôi cắt bớt ½ bài, vì số trang của tạp chí không đủ. Tôi chỉ chọn phần 2 là phần đã in trên tạp chí Hồn Việt số 58, còn phần 1, với những sai sót khác của tác giả Nguyễn Văn Khoan viết trong sách Phạm Quỳnh -  một góc nhìn tôi đành để lại.
Dưới đây, tôi xin đi vào trao đổi với Đại tá-TS Nguyễn Văn Khoan những nội dung mà ông đã gửi lên Phạm Tôn blog và tạp chí Hồn Việt trong lúc “cả giận”.
1/ Tác giả Nguyễn Văn Khoan viết: “Tôi không tự viết: Trong đêm 23/8 mà là Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn viết trong Lịch sử Việt Nam, tập 2, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1985, trang 340.
Tôi chỉ trích dẫn mà thôi, có sai thì Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn chịu”.
Đây là một câu nói vô trách nhiệm và thiếu chuyên nghiệp của một người nghiên cứu lịch sử cũng như người viết sách.
Tại sao ông – Nguyễn Văn Khoan – dẫn lại tài liệu của một người khác – Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn – mà ông không kiểm chứng, đối chiếu với các tư liệu khác để xem tính chính xác đến đâu?
Ông Nguyễn Văn Khoan cho rằng mình “chỉ trích dẫn mà thôi”, còn “có sai thì Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn chịu”, vậy việc gì ông phải viết sách Phạm Quỳnh - một góc nhìn? Đứng trước việc những người trước đây đã từng quy kết Phạm Quỳnh, ông cố im lặng làm việc khác cho xong, còn nếu có sai thì người khác chịu, đâu phải ông chịu!
2/ Tác giả Nguyễn Văn Khoan viết: “Tôi đồng ý là Bác không gặp Trần Huy Liệu trước khi Trần Huy Liệu đi Huế. Tôi viết: Người có kịp căn dặn… (chứ không viết gặp). Căn dặn có thể không cần gặp mặt, có thể nhắn qua người khác chứ?”.
Theo tôi, tác giả những dòng trên nên viết tiểu thuyết thì hợp hơn là làm người nghiên cứu lịch sử. Ông viết văn, dựng truyện, viết tiểu thuyết thì ông có thể tha hồ hư cấu, tưởng tượng. Còn viết nghiên cứu lịch sử không có đất cho một tâm hồn mơ mộng, giàu trí tưởng tượng, có thể thế này, có thể thế kia, có thể và có thể…
3/ Tác giả Nguyễn Văn Khoan viết: “Cho dù Tố Hữu, Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (?), Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa Huế, ra tối hậu thư, thì đó là việc của Tố Hữu,… chỉ có tính chất địa phương. Còn Chính phủ Lâm thời là của cả nước, quyền lớn hơn, giá trị pháp lý cao hơn… Ủy ban Khởi nghĩa Huế chứ!
Cần lưu ý: Chính phủ Cách mạng Lâm thời chỉ điện đòi… trong khi Tố Hữu lại ra tối hậu thư’? Có gì cơ hội, tả khuynh, nặng nề, hậm hực hoặc “trái với trên” chăng?”.
Tôi muốn được ông Nguyễn Văn Khoan chỉ rõ cho biết cụ thể Tố Hữu “cơ hội, tả khuynh, nặng nề, hậm hực” hoặc “trái với trên” ở điểm nào? Có tư liệu lịch sử nào chứng minh điều đó, hay chỉ là suy diễn cá nhân?
Ở đây, tác giả Nguyễn Văn Khoan chỉ dựa vào tài liệu do Viện sĩ Nguyễn Khánh Toàn viết “Trong đêm 23 tháng 8, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã điện đòi Bảo Đại thoái vị”, mà trong bài viết trên tạp chí Hồn Việt tôi đã bác bỏ chi tiết này.
Ông Nguyễn Văn Khoan khăng khăng cho rằng Chính phủ Cách mạng Lâm thời chỉ “điện đòi”, còn Tố Hữu lại ra “tối hậu thư”, rồi chính ông Nguyễn Văn Khoan tự kết luận Tố Hữu là “cơ hội, tả khuynh, nặng nề, hậm hực” hoặc “trái với trên”.
Với quan điểm không khách quan, bằng con mắt của hôm nay nhìn về ngày xưa, tác giả Nguyễn Văn Khoan quên mất thời điểm lịch sử của Cách mạng tháng Tám 1945 rồi. Tôi xin cứ tạm chấp nhận là có việc “Trong đêm 23 tháng 8, Chính phủ Cách mạng Lâm thời đã điện đòi Bảo Đại thoái vị” đi, nhưng Tố Hữu “viết tối hậu thư” từ 10 giờ sáng ngày 23 tháng 8 rồi ạ. Cho nên cái cách quy kết cá nhân của tác giả Nguyễn Văn Khoan về Tố Hữu “cơ hội, tả khuynh, nặng nề, hậm hực” hoặc “trái với trên” chỉ là sự tưởng tượng trong đầu ông trong lúc ông hậm hực mà thôi.
pic
Bài của tác giả Văn Thanh trên tạp chí Hồn Việt số 58
4/ Tác giả Nguyễn Văn Khoan viết rằng tôi – Văn Thanh – chỉ “dựa vào ý kiến của nhà văn – không phải nhà báo, nhà sử – Tô Hoài, lại nghe Tố Hữu – cũng không là nhà báo, nhà sử mà là nhà thơ kể lại”.
Còn ông – Nguyễn Văn Khoan – “đã gặp trực tiếp các anh Cao Pha, anh Phan Hàm, anh Đặng Văn Việt, Nguyễn Thế Lâm… là những sinh viên trường Thanh niên Tiền tuyến Huế được giao nhiệm vụ đi bắt hoặc biết rất rõ việc bắt Phạm Quỳnh, dựa vào chính lời nói của các anh ấy và bản viết tay của chính anh Phan Hàm viết (bút tích thư anh Phan Hàm tôi vẫn còn giữ)”.
Những dòng viết đậm trên đây của tác giả Nguyễn Văn Khoan đọc sao mà lộng ngôn đến vậy! Ông tự cho mình là nhà sử học, còn hai ông Tô Hoài, Tố Hữu chỉ là nhà thơ, nhà văn, thua đứt ông là “sử quan” chăng?
Thưa Đại tá-TS Nguyễn Văn Khoan, ông đã quên mất thời điểm lịch sử của vấn đề rồi. Tô Hoài viết theo lời kể của Tố Hữu là trên Đặc san Cứu Quốc số 8 năm 1946, nó cách ngày hôm nay 66 năm, và đó là thời điểm lịch sử gần nhất với cái chết của Phạm Quỳnh.
Còn Tố Hữu “cũng không là nhà báo, nhà sử mà là nhà thơ” ư? Thưa, nhà thơ đó lại là người làm nên lịch sử đấy ạ.
Người làm nên lịch sử là nhà thơ Tố Hữu có quyền và có vị thế để kể lại cho người khác biết về việc giành chính quyền ở Huế trong Cách mạng tháng Tám 1945 quá đi chứ (!), phải không thưa Đại tá-TS Nguyễn Văn Khoan?
Hãy đặt một giả thiết rằng, nếu (tất nhiên lịch sử không bao giờ có chữ nếu) bây giờ các vị Nguyễn Chí Thanh, Tôn Quang Phiệt, Tố Hữu còn sống; Đại tá-Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan muốn nghiên cứu về việc Đảng Cộng sản và Mặt trận Việt Minh lãnh đạo khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế trong Cách mạng tháng Tám 1945, ông có đến hỏi những người làm nên lịch sử như Nguyễn Chí Thanh, Tôn Quang Phiệt, Tố Hữu không?
Hay ông lại đi hỏi chuyện những người dân quân chỉ biết thừa hành? Dẫu cho Tố Hữu không trực tiếp đi bắt Phạm Quỳnh thì những người đi bắt kia khi trở về phải có nhiệm vụ báo cáo lại cho Tố Hữu là cấp trên của họ chứ.
5/ Tác giả Nguyễn Văn Khoan viết: “Theo tôi, về mặt lịch sử, không nên dùng từ lão chỉ người mà Bác Hồ gọi là ‘Cụ Phạm’.
Thế nào là về mặt lịch sử? Đây đâu phải những dòng chữ được Tố Hữu và Tô Hoài viết ra vào năm 2012, mà được viết và in ra từ năm 1946 rồi. Đấy mới là “về mặt lịch sử” thưa Tiến sĩ Sử học.
6/ Tác giả Nguyễn Văn Khoan viết:“về việc bắt và xử tử Phạm Quỳnh thì cho dù là Thường vụ có năm người, theo Văn Thanh (tôi gạch dưới –VT) ba người đồng ý, một người phản đối, một người trung gian theo đa số
Thưa, không phải theo tôi – Văn Thanh – mà đây là hồi ký của cụ Hoàng Anh, nguyên Phó Thủ tướng Chính phủ, nguyên Phó Chủ tịch Ủy ban Khởi nghĩa và Phó Chủ tịch Ủy ban Nhân dân lâm thời Thừa Thiên Huế trong Cách mạng tháng Tám 1945 đấy ạ.
Cụ Hoàng Anh sinh năm 1912, năm nay 100 tuổi. Nếu Đại tá-TS Nguyễn Văn Khoan có thắc mắc gì cần trao đổi, hoặc cần biết khi tịch biên gia sản gia đình Phạm Quỳnh “niêm phong đồ đạc là những gì, bao giờ mở, mở ra có vàng, bạc, châu ngọc gì, số lượng bao nhiêu, đã giao cho ai giữ, bàn giao lại cho ai?” xin cứ đến hỏi cụ Hoàng Anh có lẽ là người duy nhất còn sống trong Thường vụ ngày ấy đấy ạ.
7/ Cuối cùng là chuyện tác giả Nguyễn Văn Khoan dẫn lại việc tôi – Văn Thanh – có chê “sự yếu kém của biên tập viên cả về trình độ chuyên môn lẫn nhận thức chính trị của Nhà xuất bản Công An Nhân Dân. Tôi xin phép không trả lời yêu cầu này, vì nó không nằm trong phạm vi trao đổi giữa tôi và tác giả sách Phạm Quỳnh - một góc nhìn.
Trên đây là một vài ý kiến của tôi trao đổi lại với Đại tá – Tiến sĩ Sử học Nguyễn Văn Khoan để rộng đường dư luận với những ai yêu quý lịch sử nước nhà. Chúng ta trân trọng các nhà văn hóa, nhưng khi chiêu tuyết thì cũng đừng nên suy diễn, mà phải dùng tư liệu lịch sử để soi sáng vấn đề bằng một sự khách quan, công bằng và công tâm.
Ngày 6/6/2012

Saturday, 1 June 2013

Tư liệu của NV Sơn Tùng (Mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc và Phạm Quỳnh)-P1 (Phạm Tôn)



thu-son-tung-revisedTrang đầu và trang cuối (có con dấu và chữ ký của tác giả) tập bản thảo của nhà văn Sơn Tùng.
Lời dẫn của Phạm Tôn: Nhà văn Sơn Tùng có nhã ý “ký thác” toàn bộ những sưu tầm của ông trong nhiều năm “Về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh” mà ông trân trọng gọi là “bậc danh nhân văn hóa” cho “nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí”. Tập tư liệu chép tay quý giá này tròn 20 trang, viết xong ngày 8/12/2008, tức 12/11 Mậu Tý, tại Hà Nội – Chiếu Văn.
Nay, nhà văn đã đồng ý với đề nghị của nhạc sĩ Phạm Tuyên, cho công bố những trang viết của ông trên blog của chúng tôi.
Từ hôm nay, chúng tôi xin trích đăng tập tư liệu với tiêu đề từng phần và lời dẫn, lời bình của chúng tôi.
Xin chân thành cảm ơn thâm tình của nhà văn và xin mời bạn đọc bắt đầu theo dõi tập tư liệu có một không hai này.
MẤY LỜI KÝ THÁC
nv-son-tungNhà văn Sơn Tùng trả lời phỏng vấn của phóng viên báo Văn Nghệ, tháng 3/2009
Thân gửi: Nhạc sĩ Phạm Tuyên và gia đình kính quí.
Thưa Anh,
Đời cầm bút của tôi: viết báo, viết văn, chí thành với đề tài lịch sử và danh nhân Bác Hồ.
Sống trước viết.
Từ sau Cách mạng tháng 8-1945 đến năm 1970, tôi dấn thân trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ cứu nước; xông pha khắp ba miền Bắc-Trung-Nam tìm tòi, tích lũy vốn sử liệu về các nhân vật lịch sử ,sự kiện, khảo sát, khảo chứng,… Năm 1971, tôi bị thương nặng trong trận giặc Mỹ đánh phá quyết liệt vùng hậu cứ miền Đông Nam Bộ. Sau gần một năm cáng thương qua Trường Sơn, tôi được về lại Thủ đô Hà Nội.
Pham Tuyen_Son Tung
Chiến tranh có kết thúc. Vết thương chiến tranh trên cơ thể chỉ khép lại khi người mang vết thương ấy tắt nghỉ! Gần 40 năm qua, vừa vật lộn với vết thương mỗi khi tái phát hành hạ, vừa moi cái vốn tích lũy được mà viết, viết cho vơi bớt nỗi đau! Cho đến ngày hôm nay, tôi mới viết được trên 20 đầu sách, đã xuất bản. Bản thảo còn đang viết tiếp, vốn có rồi mà chưa viết được bao nhiêu; một số bậc danh nhân trong đó có danh nhân văn hóa Thượng Chi – Phạm Quỳnh đã chuẩn định mà chưa thực hiện được. Giờ đây, tôi đã ngoài tám mươi, liệu còn làm xong được những chuẩn định? Vì vậy tôi thành tâm chép lại những điều tôi sưu tầm được về mối thân tình giữa Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh với Thượng Chi – Phạm Quỳnh, xin trân trọng ký thác tới gia đình bậc danh nhân văn hóa Phạm Quỳnh.
MINH CHỨNG
I. Ghi theo lời Vũ Đình Huỳnh, bí thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh
CỤ VŨ ĐÌNH HUỲNH-số 5 – Hai Bà Trưng, Thủ đô Hà Nội. Cụ xuất thân trong gia đình Thiên Chúa giáo yêu nước. Là nhà trí thức yêu nước dấn thân trong các phong trào đấu tranh Cách mạng kiên cường bất khuất, bị tù qua Hỏa Lò, ngục Sơn La…Tại Đại hội Quốc dân Tân Trào ngày 16,17/8/1945, cụ Nguyễn Lương Bằng đưa cụ Vũ Đình Huỳnh đến giới thiệu với Cụ Hồ ở nhà sàn làng Kim Lung tên mới là Tân Trào. Cụ Hồ “kết” ngay cụ Vũ Đình Huỳnh là tâm phúc. Tổng khởi nghĩa – Cách mạng tháng 8-1945 thành công, Cụ Hồ về Hà Nội tại “Đại bản doanh”48 Hàng Ngang ngày 25/8/1945; Cụ Hồ sở cầu ngay cụ Vũ Đình Huỳnh làm Bí thư cho Chủ tịch nước, từ việc “Cầu hiền”để lập chính phủ lâm thời; đặc phái viên của Hồ Chủ tịch đến Phát Diệm “thuyết khách” Giám mục Lê Hữu Từ và về Yên Mô (Ninh Bình) mời Linh mục Phạm Bá Trực, rồi đến Liên Bạt (Hà Đông) trao thư Hồ Chủ tịch vời cựu Thượng thư Bộ Hình Bùi Bằng Đoàn, xuống Thái Bình chuyển giao nhiệm vụ cho đồng chí Ba Ngọ, cựu chính trị phạm ở Thái Bình – nay là phái viên của Hồ Chủ tịch mời cụ Vi Văn Định, cựu Tổng đốc Thái Bình ra gánh vác việc nước. Cụ Vũ Đình Huỳnh làm Bí thư – tâm phúc của Bác Hồ cho tới cuối năm 1953…
Ho Chi Minh_Vu Dinh Huy
PHẦN 1: “BẤT TẤT NHIÊN”
Bác Hồ rời Tân Trào, Tuyên Quang, Việt Bắc ngày 22 tháng 8 năm 1945. Ngày 25/8/1945, Người về nhà 48 Hàng Ngang, Thủ đô Hà Nội, lúc thành phố lên đèn.
Ngày 26/8, Người triệu tập và điều hành phiên họp đầu tiên Thường vụ Trung ương Đảng tại đây. Quyết định lớn: Thiết lập chính thể Dân chủ Cộng hòa, các thành viên chính phủ lâm thời thật tiêu biểu của dân tộc, của nhân dân; phải có Tuyên ngôn Độc lập trước quốc dân đồng bào và thế giới với một cuộc mít tinh lớn hàng mấy chục vạn người ở Thủ đô Hà Nội. Chính phủ ra mắt nhân dân và cũng là ngày nước Việt Nam chính thức công bố quyền độc lập và thiết lập chính thể Dân chủ Cộng hòa.
ho-chi-minhHồ Chí Minh – Năm 1945
Ngày 28/8/1945, Hồ Chủ tịch đến làm việc tại Bắc Bộ phủ, 12 phố Ngô Quyền. Một phái đoàn Trung ương – ông Nguyễn Lương Bằng, ông Trần Huy Liệu, ông Cù Huy Cận đã vào Huế dự lễ vua Bảo Đại thoái vị. Hôm phái đoàn lên đường rồi, Hồ Chủ tịch mới về Hà Nội, như chợt nhớ Người nói với ông Võ Nguyên Giáp, Ủy viên Thường vụ Trung ương Đảng – Tổng chỉ huy quân đội – Bộ trưởng Bộ Nội vụ; ông Hoàng Hữu Nam (Phan Bôi) – Thứ trưởng Bộ Nội vụ; ông Lê Giản- Tổng giám đốc Nha Công an Việt Nam, Vũ Đình Huỳnh: “Chú Bằng (Nguyễn Lương Bằng), chú Liệu (Trần Huy Liệu), chú Cận (Cù Huy Cận) vô Huế rồi mình mới về thì đã trễ, giờ chú Nam (Hoàng Hữu Nam) hoặc xem có ai thay được chú Nam vô Huế gặp Cụ Phạm Quỳnh, trao thư tôi mời Cụ…” (Chúng tôi nhấn mạnh – PT).
Hai hôm sau, ông Hoàng Hữu Nam đến báo cáo với Hồ Chủ tịch: “Ông Phạm Quỳnh đã bị bắt (Chúng tôi nhấn mạnh – PT)hai người con gái của ông ở Hà Nội, gặp tôi thổ lộ việc này”. Hồ Chủ tịch để điếu thuốc đang hút dở xuống gạt tàn, nói lửng: “Bất tất nhiên”!* (Chúng tôi nhấn mạnh – PT). Người hỏi ông Hoàng Hữu Nam:
- Hai chị ấy tên là gì?
Ông Hoàng Hữu Nam trình bày:
- Dạ…Phạm Thị Giá và Phạm Thị Thức, thưa Bác.
- Chú mời hai chị em cô ấy gặp tôi, chú Tư (Vũ Đình Huỳnh) sẽ sắp xếp ngày giờ gặp…
Ông Hoàng Hữu Nam tươi cười kể lại với Bác là chị Giá, chị Thức bày tỏ xin được gặp Cụ Hồ, nhưng chưa dám hứa chắc vào lúc nào…
Sau buổi làm việc này, ông Vũ Đình Huỳnh trao đổi với ông Hoàng Hữu Nam, Hồ Chủ tịch sẽ tiếp “thân nhân Cụ Phạm” vào cuối buổi sáng ngày 31/8/1945 tại phòng khách Bắc Bộ phủ.
Ngày 31/8/1945, buổi sáng Hồ Chủ tịch rà xét lần cuối bản thảo Tuyên ngôn Độc lập.
Ông Nguyễn Hữu Đang, Trưởng ban tổ chức ngày lễ Tuyên ngôn Độc lập 2/9/1945 và bốn người nữa đến báo cáo với Hồ Chủ tịch về công việc chuẩn bị cho ngày lễ…
Đến 10 giờ 30 phút, ông Hoàng Hữu Nam báo với ông Vũ Đình Huỳnh: “Đã mời thân nhân Cụ Phạm đến, đang ở phòng khách…”. Cụ Vũ Đình Huỳnh khi kể lại với tôi sự việc này, cụ nói trầm trầm như tâm sự: “Tôi nghe danh ông Phạm Quỳnh từ một bỉnh bút, chủ nhiệm, chủ bút báo Nam Phong và Tổng thư ký Hội Khai Trí Tiến Đức. Có đôi lần nhìn thấy ông khăn xếp áo the, kính trắng đi từ trụ sở Nam Phong phố Hàng Da, qua Hàng Bông đến trụ sở Khai Trí Tiến Đức, phố Hàng Trống, bên hồ Hoàn Kiếm. Tôi có biết chị Phạm Thị Giá, vợ giáo sư Tôn Thất Bình dạy Pháp văn ở trường Thăng Long cùng với cụ Phó bảng Bùi Kỷ, dạy Hán văn; các giáo sư Hoàng Minh Giám dạy Pháp văn, giáo sư Đặng Thai Mai dạy Pháp văn, giáo sư Võ Nguyên Giáp dạy văn, sử, địa, giáo sư Vũ Đình Hòe dạy văn, giáo sư Nguyễn Xiển dạy toán, lý… Còn chị Phạm Thị Thức là vợ bác sĩ Đặng Vũ Hỷ, cùng quê Nam Định với tôi, lại còn thân thuộc nữa. Cho nên, cái phút giây tháp tùng Hồ Chủ tịch đến gặp chị Giá, chị Thức tôi bùi ngùi thấy hai chị rụt rè, sợ sệt, chỉ một thoáng, hai chị xúc động mạnh trước cử chỉ Hồ Chủ tịch cầm tay hai chị thân tình, an ủi và mời ngồi vào ghế đối diện với Người. Người nói:
- “Tôi ở chiến khu Việt Bắc mới về Hà Nội, nghe tin chẳng lành về Cụ nhà ở Huế…”. Hồ Chủ tịch ngừng giây lát, nói tiếp: “Trong lúc cuộc khởi nghĩa bùng nổ khó tránh được sự lầm lẫn. Rất tiếc khi ấy tôi đang trên đường về Hà Nội (ngày 22/8/1945, Hồ Chủ tịch rời Tân Trào, Tuyên Quang). Chị Phạm Thị Giá trình bày sự việc cha bị bắt trong lúc đang làm việc tại nhà…Chị Phạm Thị Thức hai tay nâng phong thư lên Bác, Người nhận và chuyển sang tay cho tôi, dặn: “Chú chuyển sang Bộ Nội vụ”. Bác thân mật hỏi han hai chị em về tình hình gia đình ở trong Huế, ở Hà Nội…Người dặn: “Những việc hai cháu vừa đề đạt, hai cháu sẽ trực tiếp gặp ông Hoàng Hữu Nam, Bộ Nội vụ nhá…”.
Đồng chí Bảy (Luật sư Phan Mỹ) Đổng lý văn phòng vào thỉnh thị Chủ tịch… Người đưa tay cầm chặt bàn tay chị Giá, chị Thức: – “Hai chị em về nhá, tôi có việc khẩn…”
* Theo Hán Việt từ điển của Đào Duy Anh (Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội 1992) thì Bất tất nhiên có nghĩa là: “Không nhất định phải như thế, có thể ra cách khác được.”

Lời bình của Phạm Tôn: Việc hai người con gái đầu của Phạm Quỳnh xin và được Hồ Chủ tịch tiếp từ 11 giờ sáng ngày 31/8/1945 đã được chính người chị là cụ Phạm Thị Giá sau này thuật lại tỉ mỉ trong bài Phạm Quỳnh, Người nặng lòng với nước, đăng trên nguyệt san Công giáo và Dân tộc, cơ quan của Ủy ban Đoàn kết Công giáo thành phố Hồ Chí Minh, số 140, tháng 8/2006, từ trang 99 đến trang 116, và bài Người nặng lòng với nước, đăng trên tạp chí Xưa và Nay, cơ quan của Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, số 267, tháng 9/2006, từ trang 15 đến trang 20.
Điều này chứng tỏ đã là sự thật thì trước sau gì cũng được xác nhận từ các góc nhìn của những nhân chứng rất khác nhau. Thời đầu Cách mạng thật trong sáng. Chính quyền và nhân dân thật gần gũi. Người đứng đầu chính quyền Cách mạng lúc ấy dẫu bận trăm công nghìn việc, vẫn sẵn sàng, chân tình tiếp và lắng nghe tiếng nói của người dân, dù họ “thuộc diện có vấn đề”, không hề né tránh, để những bức xúc của người dân rơi vào “sự im lặng đáng sợ” như sau này.