Showing posts with label bại não. Show all posts
Showing posts with label bại não. Show all posts

Monday, 11 November 2019

Truyền thông 'định hướng' thị trường đang tạo ra gam màu tối cho đời sống văn hóa (Quốc Ngọc - Phụ Nữ)


Truyền thông 'định hướng' thị trường đang tạo ra gam màu tối cho đời sống văn hóa

07:38 11/11/2019
pno
Góc nhìn của Hội đồng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật TP.HCM cho thấy đang tồn tại những mối nguy hại trong đời sống văn hóa khi chạy theo thị trường, hội nhập mà thiếu nguyên tắc đúng đắn.
Nêu ý kiến tại hội nghị giao ban quý III/2019 của Hội đồng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật TP.HCM ngày 10/11, nhà nghiên cứu Mai Quốc Liên nhận định sáng tác văn học, nghệ thuật đang xuống thấp một cách không tưởng. “Tàu Trung Quốc vào Biển Đông như thế, đáng lẽ ít ra phải có một bản nhạc nào đó nói lên lòng yêu nước, khí phách của dân tộc chứ. Tôi muốn nói về văn nghệ sĩ, không ai xúc động, không ai làm cả”, ông nói.
“Giờ vàng” khó phát “nhạc đỏ”
Theo ông Liên, lòng người hiện biến động dữ dội. Đặc biệt, lớp trẻ tin vào mạng xã hội với thông tin độc lạ mà không tin vào báo chí chính thống. Các diễn biến tư tưởng phức tạp này là hệ quả khi đi vào thị trường và hội nhập quốc tế, thì những vấn đề tư tưởng đang bị đặt vào hàng thứ yếu.
Ông Liên nêu quan điểm văn học, nghệ thuật phải đứng vào vai trò như thời chiến tranh. “Thấy kinh tế lên mà bỏ qua mặt trận văn hóa tư tưởng là sai lầm. Giữ chế độ này là giữ thành quả cách mạng, nhưng giờ bỏ qua hết, chạy theo giải trí, game show… Trong khi để kế thừa cái đã có thì làm không tốt, mà lại ca ngợi boléro của chế độ cũ thì chính là ca ngợi luôn đời sống của giai đoạn đó… Cũng từ khi đi vào thị trường, hội nhập, chúng ta lại quên đi biến động vô cùng phức tạp. Chương trình Âm nhạc Việt Nam - Những chặng đường trên VTV không biết chủ trương của Bộ Chính trị hay của ai, vì cái này ca ngợi nhạc của Sài Gòn cũ bằng những lời có cánh” - ông nói.
Truyen thong 'dinh huong' thi truong  dang tao ra gam mau toi cho doi song van hoa
Bí thư Nguyễn Thiện Nhân phát biểu chỉ đạo hội nghị - Ảnh: Quốc Ngọc
Nhạc sĩ Trần Long Ẩn cũng cho rằng, nói chua cay, mỉa mai như báo chí thì nhạc cách mạng hiện nay gần như đã “rút lui vào hoạt động bí mật”. Các chương trình chính thống muốn lên đài truyền hình vào giờ vàng thì khó lắm.
“63 tỉnh, thành thì có được bao nhiêu đài có phản bác các luận điệu sai trái của các thế lực thù địch? Ít lắm. Cục Biểu diễn nghệ thuật từng bảo tôi: “Làm sao nhờ anh Năm Ẩn phát biểu giùm rằng, hiện nay không còn khái niệm nhạc cũ trước giải phóng nữa”. Tôi nghe sốc và đau lắm. Không được đâu. Đại đoàn kết dân tộc là chủ trương hết sức vĩ đại, đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta, nhưng đoàn kết luôn có nguyên tắc tôn trọng độc lập tự do, tôn trọng lịch sử cách mạng Việt Nam, không thể nhân danh hòa hợp dân tộc để coi như ngang nhau được” - nhạc sĩ bức xúc.
Cũng theo ông Ẩn, nhạc ca ngợi Việt Nam Cộng hòa mà giờ cũng cho là ca ngợi nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam thì không được: “Chúng tôi đề xuất phải hết sức thận trọng với trang sử đen tối của miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ là bị xâm lược. Văn học, nghệ thuật độc hại của nó xuyên tạc đường lối cách mạng đúng đắn của Đảng ở miền Nam và hiện nay không thể tẩy xóa. Vậy mà đồng thời, phong trào cách mạng ở miền Nam trong văn học, nghệ thuật rất dữ dội, rất lớn thì không biểu dương, không tôn vinh, không học tập, không nhân rộng mà lại đòi xóa nhòa không còn khái niệm âm nhạc cũ trước giải phóng nữa”.
Cần lượng hóa được cảm nhận của người dân về văn hóa
Nhà văn Trần Văn Tuấn - Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM đưa ra nhận xét, hiệu quả của Hội đồng lý luận phê bình văn học, nghệ thuật thành phố thực sự chưa cao. Ông nói: “Tôi tâm đắc với ý kiến phải thay đổi bằng phương thức đối thoại. Muốn các chương trình lý luận phê bình đến công chúng thì tất cả hệ thống truyền thông phải vào cuộc. Chúng ta nên chọn lọc các chủ đề nóng về văn học, nghệ thuật để có phản ứng và tăng cường đối thoại thì mới ra nhẽ, vấn đề mới có giá trị lan tỏa”. 
Phát biểu chỉ đạo tại hội nghị, Bí thư Thành ủy TP.HCM Nguyễn Thiện Nhân đánh giá cao những trăn trở về tương lai đất nước từ góc độ văn hóa của các đại biểu. Nếu không có định hướng nền tảng văn hóa thì hoạt động kinh tế sẽ gặp xung đột với cuộc sống. Đảng và Nhà nước đã có nhiều định hướng về lĩnh vực này, nhưng có nhiều việc làm chưa hiệu quả.
Trong các nhóm đề án phát triển TP.HCM là thành phố văn hóa, ông Nhân nhấn mạnh cần hình thành hệ sinh thái văn hóa của thành phố. Hệ sinh thái này phải từ tài nguyên văn hóa của quốc gia, địa phương, trong từng gia đình, trong vốn hoạt động nghề nghiệp của các văn nghệ sĩ, trong tương tác giữa văn hóa và kinh tế để làm sao tài nguyên này lớn lên. Từ tài nguyên văn hóa này, cùng với hoạt động xã hội của văn nghệ sĩ và chính sách của Đảng và Nhà nước sẽ cho ra nhiều tác phẩm hay, đến được với
công chúng.
Tiến tới làm hệ sinh thái văn hóa, theo bí thư, cần đánh giá thực trạng cuộc sống văn hóa của người dân TP.HCM. “Người ta cảm nhận gì, hưởng thụ gì, chỉ số văn hóa là gì hiện nay không có… Lượng hóa được cảm nhận của người dân về chính sách văn hóa là rất quan trọng. Chúng ta làm gì thì làm, cuối cùng phải đến người dân chứ!”, ông Nhân chỉ đạo. Từ đó, ông đề nghị rà soát lại hoạt động của các hội quản lý nhà nước để hình dung hệ sinh thái văn hóa của thành phố hiện nay khâu nào mạnh, khâu nào yếu, muốn đổi mới phải nhấn vào đâu. 
Quốc Ngọc


Friday, 25 October 2019

Ngon sao không đi sửa tiếng Mỹ đi?


Ông nọ mắc bệnh chữ lỏng, không chịu nổi lũ dốt đặc bên Việt Nam:
Và mình thấy hình như ở Việt Nam, người ta dùng từ "dân tộc" để chỉ cho dân tộc Việt lẫn dân tộc Kinh gì đấy, mình rất kinh ngạc, vì hóa ra là các Giáo Sư Tiến Sĩ Viện Ngôn Ngữ Học Việt Nam, học hành ra làm sao, mà dùng cả từ dân tộc để chỉ cho tộc người và quốc gia, có cả vụ dân tộc Việt và dân tộc Kinh và dân tộc Hoa nữa cơ đấy. Ôi chao, dạy như thế, thì mình xin từ, có con sau này, mình cấm chúng nó đi theo họ học hành tiếng Việt.

Thấy vọng quá, ông
bèn sang Mỹ. Ở Mỹ bốn chục năm, ông được đọc blog Từ Nguyên Học và đọc đến dòng này mới kinh ngạc, vì hóa ra là các Giáo Sư Tiến Sĩ Mỹ học hành ra làm sao mà tiếng Mỹ chỉ có một từ language để dịch cả từ langue và từ langage của tiếng Pháp. Ấn độ đen thui là Indian Mỹ da đỏ cũng là Indian nốt.  Bản thân ông là một chuyên gia hàng đầu trong ngành dân tộc học (cùng nhiều ngành khác như sử học, ngôn ngữ học, Hán Nôm học... lung tung và lung tung) mà ông đành bất lực, thậm chí chưa bao giờ nhìn thấy vấn đề gì ở đó.

Thất vọng quá, ông bèn sang Pháp. Nhưng rồi ông lại tiếp tục thất vọng. Bên xứ này các Giáo Sư Tiến Sĩ Pháp học hành ra làm sao từ điển chỉ có một từ riz để chỉ cả lúa, thóc, gạo, cơm... của Việt Nam. Từ cơm của Việt Nam rất gọn nhưng người Pháp lại phải diễn đạt rất dài dòng là riz cuit à l'eau, sang tiếng Mỹ thành plain boiled rice rồi người Việt chữ lỏng ở Mỹ dịch thành cơm đun sôi mộc mạc. Họ bảo dịch như vậy để con cái họ khỏi phải học thứ tiếng Việt người ta đang dùng ở Việt Nam.

Đem, đeo, mang, vác, cõng, khiêng, bưng, bê, gùi, ẵm, bồng, bế... gì cũng thành porter bên tiếng Pháp. Mặc cũng porter mà đội cũng porter. Sao không thấy người Việt nào đi chửi các giáo sư tiến sĩ Pháp không đặt đủ từ cho đủ các kiểu porter ?

Nói chung người Việt không có rảnh để đi dòm qua tiếng Pháp, tiếng Mỹ mà bắt bẻ tại sao tiếng người ta thiếu cái này, dư cái kia. Người Mỹ, người Pháp mà gặp chuyện gì khó hiểu bên tiếng Việt thì họ học, họ hỏi cho đến khi họ biết. Những đứa Việt không ra Việt, Mỹ không ra Mỹ thì hành xử kiểu khác.

Wednesday, 23 October 2019

Về vụ án Nguyễn Hữu Đang, Thụy An (Đôi lời trao đổi với bà Thụy Khuê) (Nguyễn Xuân Đức - Hồn Việt Quốc Học)

Trước hết, xin thổ lộ đôi điều về duyên cớ có bài viết này. Tôi sinh gần như cùng thời với bà Thụy Khuê ở một tỉnh miền Trung xa xôi. Khi phong trào Nhân Văn Giai Phẩm xảy ra, có lẽ cũng như bà Thụy Khuê, tôi còn nhỏ chẳng biết gì. Lớn lên, học đại học khoa văn mới được biết về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm qua bài giảng của thầy giáo, dĩ nhiên theo quan điểm chính thống của Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nhưng rồi nghề mọn văn chương không thuộc khu vực này nên dù về sau có tiếp xúc với một số tài liệu viết về trong phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, tôi cũng đọc cho biết rồi bỏ đó.
Ông Nguyễn Hữu Đang
Đầu năm 2007, “sự kiện” đầu tiên làm tôi chú ý là sau khi bác Nguyễn Hữu Đang mất, tôi được đọc 2 bài viết: một của bác Phùng Quán nhan đề Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập, do báo Tuổi Trẻ đăng lại và bài Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập của nhà sử học Dương Trung Quốc, đăng trên báo Người Lao Động. Hai bài báo này đã đem lại những thông tin mới, thậm chí trái ngược với những gì tôi được học trước đây về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy vậy, nghĩ những vấn đề đó không thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình nên đọc rồi, tôi cũng bỏ đó. Năm 2012, ở cái tuổi nghỉ ngơi, tình cờ tôi được đọc cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc của bà Thụy Khuê (ngay từ những chương phát trên mạng), thì sự tò mò trong tôi trỗi dậy. Bằng cách tập hợp, phân tích một khối lượng tư liệu khá lớn, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về nhiều con người liên quan đến phong trào Nhân Văn Giai Phẩm. Nếu tính về thời gian thì cuốn sách này được viết từng phần, đã công bố dần trên đài RFI từ hàng chục năm trước, nay được tập hợp lại, in thành sách dưới một tên chung Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc. Nói điều này tôi vừa muốn ghi nhận công thu thập tài liệu, gặp gỡ nhân chứng và suy ngẫm suốt một quá trình dài như một nhà khoa học của tác giả về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm, nhưng cũng muốn nói về những gì thiếu nhất quán, thiếu tập trung, là sự gán ghép chẳng ăn nhập nhau lắm giữa các mảng nội dung của cuốn sách. Đặc biệt, dường như bị mục tiêu phê phán Nhà nước Cộng sản Việt Nam chi phối, nên tác giả đã sử dụng sai lệch nhiều tư liệu có được, làm giảm đi tính khách quan, khoa học của công trình. Thiết nghĩ, dù phê phán hay bênh vực bên nào thì làm khoa học cũng cần sự sòng phẳng, sòng phẳng trong sử dụng tài liệu và cũng sòng phẳng cả trong cách tiếp cận vấn đề. Trong bài viết này tôi muốn trao đổi cùng bà Thụy Khuê đôi điều chung quanh vụ án nhà hoạt động văn hóa Nguyễn Hữu Đang và nhà báo Thụy An. Bài viết của tôi xin được sử dụng những tài liệu do chính bà Thụy Khuê cung cấp trong cuốn sách nêu trên, dù rằng trong tay tôi hiện đã có trên 50 tài liệu khác nhau về phong trào Nhân Văn Giai Phẩm.
1. Nguyễn Hữu Đang - công và tội
a) Nguyễn Hữu Đang - những đóng góp thời kỳ 1949 về trước
Lấy mốc 1949 về trước để chỉ thời kỳ Nguyễn Hữu Đang được Cụ Hồ trọng dụng và việc ông được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương thời gian đó như là lời khẳng định về những đóng góp của ông cho đất nước. Tuy từ năm 1950, Nguyễn Hữu Đang vẫn giữ chức Trưởng ban thanh tra Nha Bình dân học vụ nhưng thực chất ông đã bỏ Hà Nội về Thanh Hóa làm việc cho nhà in Minh Đức. Có thể tóm tắt công trạng của ông trong thời gian từ 1949 về trước như sau:
- Là người có năng lực tổ chức, có tư tưởng đổi mới; đã tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc; có đóng góp lớn trong Hội Truyền bá quốc ngữ và phong trào văn hóa cứu quốc, chống nạn mù chữ.
- Đã giữ các chức vụ cao trong hệ thống Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa như Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban vận động Mặt trận văn hóa, Trưởng ban tuyên truyền xung phong Trung ương, Trưởng ban thanh tra Nha Bình dân học vụ…
- Từng được Hồ Chí Minh trọng dụng, trong đó có việc giao phó nhiệm vụ khó khăn - làm Trưởng ban tổ chức Lễ tuyên bố Độc lập ngày 2-9-1945.
Những đóng góp nêu trên rất to lớn cần được ghi nhận và chính là cơ sở để sau này ông được xem xét phục hồi những quyền lợi vật chất như cấp lương hưu, cấp nhà ở Hà Nội cùng nhiều đồ dùng sinh hoạt khác.
b) Nguyễn Hữu Đang và vai trò tổ chức chống đối qua Nhân Văn
Nguyễn Hữu Đang là người có tài và có cơ mưu chính trị. Về cá tính, ông là người khó khép mình vào khuôn phép của tổ chức. Ông từng có mối quan hệ tự do với các tổ chức, phe nhóm chính trị khác nhau trong và ngoài nước, điều mà thời kỳ đó kỷ luật Đảng không cho phép. Vì thế, mặc dù lúc 16 tuổi ông đã tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi Đông Dương Cộng sản đảng, là đối tượng kết nạp Đảng từ năm 1929, nhưng đến năm 1947 mới được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong tài liệu viết tay của mình, sau đoạn “Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm, Nguyễn Hữu Đang cũng thừa nhận: “Những hoạt động này là tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức”.
Năng lực và cá tính ấy đã tạo ra bước rẽ lớn của Nguyễn Hữu Đang khi ông bất đồng ý kiến với ông Trường Chinh, người đang giữ chức vụ cao trong Đảng, trong đó có vai trò lãnh đạo văn nghệ. Chính Thụy Khuê đã nhận rõ vấn đề này trong khi viết về Nguyễn Hữu Đang.
Ngay từ thời kỳ theo cách mạng, Nguyễn Hữu Đang đã có tư tưởng khác, không nhận đường lối văn hóa xã hội chủ nghĩa, tự đi ra ngoài trật tự của Đảng, muốn lập một đảng riêng (đảng Nhân văn) với một thể chế chính trị riêng. Từ quan điểm đó, Nguyễn Hữu Đang đã nhanh chóng rời khỏi hàng ngũ của Đảng và tổ chức lực lượng chống đối.
Ở chương viết về Nguyễn Hữu Đang trong cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Thụy Khuê khẳng định: “Trong 6 năm từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành Nhà xuất bản Minh Đức, in lại các sách giá trị thời tiền chiến đã bị cách mạng lên án, hoặc cấm lưu hành của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng v.v…” [Thụy Khuê, sđd, tr.204].
Tuy có những hành động như vậy, nhưng tôn trọng tài năng và đóng góp của ông, nên khi hòa bình vừa lập lại, năm 1954, thực hiện ý kiến của Trường Chinh, Tố Hữu đã mời Nguyễn Hữu Đang ra làm Giám đốc Sở Văn hóa Thông tin Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang đã từ chối và yêu cầu được làm biên tập báo Văn Nghệ cùng với Lê Đạt [lời chứng của Lê Đạt với RFI và lời Nguyễn Huy Tưởng ghi trong Nhật ký. Nhưng khi trở lại báo Văn Nghệ, Nguyễn Hữu Đang lại tiếp tục bộc lộ quan điểm riêng của mình, gây khó khăn cho những người lãnh đạo, kể cả những người bạn thân. Nguyễn Huy Tưởng đã ghi trong Nhật ký: “Ở đâu cũng thấy không vừa ý, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em tòa soạn khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn” (Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, ngày 21-4-1955. NXB Thanh Niên, 2006).
Cho đến nay, không ít người vẫn nghĩ rằng Nguyễn Hữu Đang bị oan trong vụ án xử năm 1960. Có bài báo đã khẳng định Nguyễn Hữu Đang là “vị cách mạng lão thành”, “là người hoạt động cách mạng, nhà báo, nhà truyền bá quốc ngữ nổi tiếng” và để tránh nói về việc Nguyễn Hữu Đang bị Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội phạt tù, bài báo chỉ hạ một câu: “có cuộc đời long đong…” (Dương Trung Quốc: Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập, báo Người Lao Động 25-2-2007).
Ghi nhận công lao đóng góp to lớn cho cách mạng của Nguyễn Hữu Đang giai đoạn 1949 về trước là đúng, nhưng không thể không nhìn thấy mưu đồ riêng của ông đã manh nha từ khi theo cách mạng và được bộc lộ qua hành động chống đối vào những năm sau đó.
Tội của Nguyễn Hữu Đang đã được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội xét xử công khai trong phiên tòa mở ngày 19 tới 21-1-1960, có tranh tụng và bào chữa cho bị cáo của luật sư Đỗ Xuân Sảng, có phát biểu nhận tội của Nguyễn Hữu Đang.
Lần lại hồ sơ, nhân chứng… liên quan đến Nguyễn Hữu Đang, có thể thấy: thái độ chống đối của ông bộc lộ rõ rệt từ tháng 8-1956. Vào ngày cuối cùng của lớp học tập dân chủ do ông tổ chức (từ 8-8 đến 26-8-1956), Nguyễn Hữu Đang đã có bài tham luận chỉ trích gay gắt đường lối văn nghệ của Đảng và những người lãnh đạo văn nghệ, được một số trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến hưởng ứng. Nhà thơ Lê Đạt kể lại: “Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang (…) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi - Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ - Ðang nói rằng: “Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm” [Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI, Thụy Khuê thực hiện]. Tờ báo này chính là tờ Nhân Văn, và kết quả tờ Nhân Văn số 1 đã ra vào ngày 20-9-1956 do Phan Khôi làm Chủ nhiệm, Trần Duy làm Thư ký tòa soạn, với một loạt bài của: Phan Khôi, Hoàng Cầm, XYZ, Lê Đạt, Trần Dần…
Rõ ràng manh nha từ trong ý thức, Nguyễn Hữu Đang đã có âm mưu sử dụng người của nhóm Giai Phẩm làm báo Nhân Văn và trong đó không ít tiếng nói trái với đường lối văn nghệ của Đảng. Báo Nhân Văn, vì thế, ra được từ số 1 đến số 5, số 6 định ra vào tháng 12-1956 thì bị đình bản.
Hành động tổ chức chống đối của Nguyễn Hữu Đang, chính những người cùng sống và làm việc với Nguyễn Hữu Đang đều thừa nhận:
+ Về vai trò tổ chức, tập hợp của Nguyễn Hữu Đang đối với nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, nhà thơ Trần Dần khẳng định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn” [Trần Dần, Tự thú - tài liệu do Phạm Thị Hoài biên tập và xuất bản tại Paris].
+ Về hành động khuynh loát báo Nhân Văn hướng về mục tiêu chính trị kích động chống đối xã hội của Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy - nguyên Thư ký tòa soạn báo Nhân Văn, thuật lại: “Số văn nghệ sĩ tham gia Nhân Văn hầu như không có mấy quyền hạn với tờ báo, nên các việc của tờ báo là do Đang và Đạt quyết định”.
Vì thế, khi thấy tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan… đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Hữu Đang đã tự thay đổi nội dung báo Nhân Văn số 6, hướng về những vấn đề ở Ba Lan, Đông Âu… để kích động phong trào chống đối Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Trần Duy kể lại:
“Đến khi chuẩn bị làm số 6, tôi và Lê Đạt, Văn Cao bàn đổi hướng để tờ báo nói về hội họa, nên đã chuẩn bị cho số báo chuyên về tranh áp phích của Ba Lan. Tôi đến làm việc với sứ quán Ba Lan và có đủ tài liệu về tranh áp phích của Ba Lan. Ngay ngày hôm sau đó có giấy của Thủ tướng triệu tập… (về việc này tôi đã viết trong bài tưởng niệm ông Phan Khôi năm 2007). Tôi được mọi người cử đi và đã gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi về nói lại với Lê Đạt, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang những điều căn dặn của Thủ tướng. Nguyễn Hữu Đang bỏ cuộc họp tự động đến nhà in. Văn Cao và Lê Đạt cùng nói với tôi:
- Thế là Đang sẽ thay đổi nội dung tờ báo, sẽ hướng về tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan, Tiệp Khắc…”. [Trần Duy: Một câu hỏi còn chưa được trả lời, talawas.org-?p=7293]
Sau khi đã trực tiếp viết luôn mấy bài xã luận chuẩn bị trước cho tư tưởng chống lại chế độ, trong số 6 báo Nhân Văn, Nguyễn Hữu Đang đã viết một bài kêu gọi biểu tình. Trần Duy khai: “Chúng tôi tưởng rằng số 6 Nhân Văn ra được thì bọn gián điệp sẽ ngóc đầu dậy, bọn chiến tranh tâm lý sẽ có đất hoạt động…, sẽ có biểu tình, súng nổ…, tiếp theo đó là những mưu đồ lật đổ” [Bọn gián điệp mà Trần Duy nói tới ở đây là Trần Minh Châu, Nguyễn Quang Hải… bị xử án trước đó, đã có điều kiện hoạt động ráo riết trở lại trong thời gian này - NXĐ].
Tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan… lúc đó là gì?
Tháng 6-1956 có cuộc nổi dậy chống nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Poznan, Ba Lan. Chính cuộc nổi dậy ở Ba Lan đã châm ngòi cho cuộc bạo loạn vũ trang ở Hungary vào tháng 10, 11-1956.
+ Về âm mưu của Nguyễn Hữu Đang lợi dụng thời cơ chính trị trong và ngoài nước… để tổ chức chống đối, chính bà Thụy Khuê nhận xét:
“Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ. Trong nước, vị thế của Trường Chinh và Đảng Cộng sản yếu đi sau chiến dịch Cải cách ruộng đất đẫm máu. Ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội 20 của Đảng Cộng sản Liên Xô là những lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang, trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến. Ông nắm cơ hội, đứng ra tổ chức Nhân Văn Giai Phẩm với những người bạn đã hoạt động trong kháng chiến Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm đã làm Giai Phẩm Mùa Xuân” [Thụy Khuê, sđd, tr.208].
+ Về hành động che giấu âm mưu thủ đoạn của Nguyễn Hữu Đang theo kiểu “ném đá giấu tay”, Thụy Khuê viết: “Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên báo Nhân Văn: Những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ do Nguyễn Hữu Đang thực hiện” [Thụy Khuê, sđd, tr.209].
Lời thuật của Trần Duy sau đây về cuộc đàm thoại với cụ Phan Khôi, càng cho thấy đầy đủ hơn mưu mô thủ đoạn chính trị của Nguyễn Hữu Đang. Trần Duy viết:
“Nhân bài viết Trả lời ông Nguyễn Chính(**) trên báo Nhân Văn tác giả ký tên bốn người: Trần Dần, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm.
Ông Phan tìm hỏi tôi:
- Anh có biết ông Nguyễn Chính không?
Tôi trả lời: “Không”.
Ông hỏi tiếp:
- Anh có đọc bài viết của ông Nguyễn Chính trong báo Nhân Dân không?
Tôi trả lời: “Không”.
Ông Phan Khôi nói:
- Anh không biết người ta, anh không đọc bài người ta viết mà anh dám ký tên vào bài người khác viết để đả kích người ta.
Tôi không trả lời - ông nói tiếp:
- Anh làm ăn kiểu gì lạ vậy? Mục đích khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị, chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng đấy!!!
Sau cùng ông hỏi:
- Thật ra bài ấy của ai?
Tôi trả lời:
- Của Nguyễn Hữu Đang.
Ông khó chịu nói:
- Ông Đang có đủ chữ để viết một bài như vậy mà lại không đủ can đảm để nhận là tác giả của bài viết ấy, lại còn gắp lửa bỏ tay người, làm việc cách này dễ dắt nhau vào tù lắm!!!”.
[Tưởng niệm về nhà văn Phan Khôi. Bài do Trần Duy gửi Ban tổ chức buổi tọa đàm tưởng niệm nhà văn - nhà báo Phan Khôi (1887-1959) nhân 120 năm sinh, do Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, tạp chí Xưa và Nay và gia đình đồng tổ chức (Hà Nội, 5-10-2007)].
Đoạn đàm thoại trên cho thấy chính cụ Phan Khôi đã vạch thói “gắp lửa bỏ tay người” của Nguyễn Hữu Đang, đồng thời khẳng định thủ đoạn của Nguyễn Hữu Đang chuyển mục đích của báo Nhân Văn “khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị” - “chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng”.
Xin lưu ý thêm rằng, cuối năm 1956, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Hữu Đang, các ấn phẩm Nhân Văn, Giai Phẩm đồng loạt được tung ra đều nằm trong mục đích “quay mũi nhọn sang chính trị” như nhận xét của cụ Phan Khôi. Chỉ từ tháng 9 đến tháng 12-1956, 6 số Nhân Văn được xuất bản (trong đó số 6 bị đình bản) và đồng loạt Giai Phẩm Mùa Xuân (tái bản), Giai Phẩm Mùa Thu, Giai Phẩm Mùa Đông ra mắt bạn đọc với nhiều tập khác nhau. Đặc biệt, nếu trong 4 số Nhân Văn đầu đang có chuyên mục “Địa ngục miền Nam”, thì từ số 5 trở đi, chuyên mục này đã bị bỏ.
Những chứng cứ nêu trên (phần nhiều do Thụy Khuê thu thập) cho thấy: tội tổ chức chống phá cách mạng của Nguyễn Hữu Đang là sự thật. Trong trả lời phỏng vấn đài RFI, ông cũng thừa nhận: “Ra tòa tôi nhận hết, chứ tôi không có bào chữa, không cãi cọ gì nhiều cả. Thậm chí là sau khi bị kết án 15 năm thì tôi cũng không có ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ, khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!”. Chắc chắn trên thế giới này không một nhà nước non trẻ nào, dù cộng sản hay không cộng sản, có thể bỏ qua những hành động chống đối như vậy.
2. Bị xử án cùng một phiên tòa với Nguyễn Hữu Đang còn có nhân vật quan trọng thứ hai là nhà báo Thụy An - Lưu Thị Yến. Trong phiên tòa mở ngày 19-1-1960 Thụy An và Phan Tại không thuộc nhóm Nhân Văn Giai Phẩm, tuy nhiên bà rất thân và có ảnh hưởng rất sâu rộng “đối với anh em văn nghệ sĩ trẻ tham gia Nhân Văn Giai Phẩm[Lê Đạt, Tự thú].
 Bà Thụy An
Về hành động chống phá Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa của Thụy An, cho đến nay, một số người vẫn còn hoài nghi về tội danh của bà, rằng Thụy An không phải là một gián điệp, không phải là người tổ chức chống phá chính quyền… Ngay trong cuốn Nhân Văn Giai Phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, tác giả cũng đòi hỏi: “Đáng lẽ bà phải có chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn, bởi bà là nhà báo đầu tiên chủ trương các tờ Đàn Bà Mới tại Sài Gòn, từ 1934, và Đàn Bà, Hà Nội, 1937. Bà là nhà văn nữ tiên phong với tiểu thuyết Một linh hồn, 1942. Nhưng cho đến nay, chính quyền chưa hề trả lại cho bà phần danh dự bị bôi nhọ trong hơn nửa thế kỷ, với những lời nhục mạ tàn nhẫn, một cái án 15 năm phi lý, và cho đến chết bà vẫn chưa hề được phục hồi danh dự” [Thụy Khuê, sđd, tr.170].
Thế nhưng, chính ông Nguyễn Hữu Đang thừa nhận: “Bà Thụy An bị cơ quan an ninh nghi bà ấy làm gián điệp cho Pháp, vì thời tạm chiếm, bà ấy có quan hệ với nhiều người Pháp. Đến lúc đi, người ta sắp cử bà ấy làm giám đốc đài phát thanh cơ mà! Như thế là bà ấy cũng có địa vị, có uy tín, thì đáng nhẽ là bà ấy phải theo chính quyền Ngụy vào trong Nam chứ, bà ấy lại không theo vào”(?), và ông biện hộ: “bà ấy ở lại vì lý do chuyện cá nhân của bà”(!) [Nguyễn Hữu Đang trả lời phỏng vấn RFI]. Lời của Nguyễn Hữu Đang cho thấy Thụy An không chỉ là người “có quan hệ với nhiều người Pháp” mà còn là người “có địa vị, có uy tín” với chính phủ Pháp, “sắp được cử làm giám đốc đài phát thanh”, “đáng nhẽ phải theo chính quyền Ngụy vào Nam”, nhưng “bà ấy ở lại vì lý do cá nhân”. Đó là lý do gì? Chính bà Thụy Khuê đã trả lời hộ: “Thụy An là người có liên hệ chặt chẽ với những người Quốc dân đảng như Đỗ Đình Đạo (Giám đốc Quân thứ lưu động của Việt Nam Quốc dân đảng) và người Pháp như Đại sứ Sainteny, các tướng Tassigny, Cogny…”. Còn chứng cứ về mối quan hệ ở mức “Nghĩa tử quốc gia” giữa Thụy An với nước Pháp thời kỳ đó thì chính Bùi Thư Linh (con gái Thụy An) xác nhận với Thụy Khuê trong cuộc điện đàm giữa hai người ngày 17-10-2009:
“- Đến năm 1954, Bùi Thư Linh (16 tuổi) đi Pháp, tại sao?
- Tôi bị bệnh lao xương, mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày 20-5-1954.
- Gia đình túng thiếu, lấy tiền đâu ra?
- Đi theo diện Pupille de la Nation (Nghĩa tử quốc gia), chính phủ Pháp lo hết”.
[Thụy Khuê, sđd, tr.178].
Thụy Khuê cũng khẳng định: “…Khi ra Bắc, Thụy An đã có chủ đích chính trị: đặt bản doanh chống chính quyền cộng sản ở Hòa Xá, quê hương bà, nơi có những người tin cẩn nhất. Hòa Xá cũng là một trong những làng có truyền thống chống cộng. Và để đánh lạc hướng, bà nhận cả công tác do thám Pháp cho chính quyền cộng sản. Với hành động này, Thụy An trở thành nhà văn đầu tiên tổ chức chống chính quyền cộng sản, trong lòng chế độ” [Thụy Khuê, sđd, tr.178].
Thực ra, Thụy An đã cùng con cái vào Nam từ 1952, nhưng vẫn thường xuyên trở ra Hà Nội để tổ chức cơ sở chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa nên tháng 3 năm 1957 bà bị bắt trên đường lẩn trốn từ Hòa Xá, Hà Đông đến Phủ Lý (quê chồng). Và hành động đó của bà đã được chính con trai bà thừa nhận. Trả lời câu hỏi “Thụy An thường xuyên ra Hà Nội với mục đích gì?”, Bùi Thụy Băng, con trai thứ của Thụy An, nói: “Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích: - Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hòa Xá - chúng tôi nhấn mạnh” [Bùi Thụy Băng, điện đàm ngày 16-12-2004 - Thụy Khuê, sđd, tr.179].
Những chứng cứ trên cho thấy Thụy An là “Nghĩa tử quốc gia” của Pháp, là người đã có những hoạt động và tổ chức hoạt động chống lại chính quyền cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Vậy là tội trạng của Thụy An đã quá rõ, còn mục tiêu sâu xa của bà trong việc gây ảnh hưởng “đối với anh em văn nghệ sĩ trẻ tham gia Nhân Văn Giai Phẩm(như lời của nhà thơ Lê Đạt) cũng không hẳn là việc làm ngẫu nhiên.
* * *
Từ những chứng cứ vừa nêu trên có thể thấy Thụy An và Nguyễn Hữu Đang không phải là một, nhưng có sự gặp nhau về tư tưởng chống Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ, và trên thực tế cả hai cũng đã bắt đầu có những động thái địch lại với nhau. Điều này cũng giải thích vì sao Thụy An đã vào miền Nam vẫn ra Bắc (trên danh nghĩa nhà báo), còn Nguyễn Hữu Đang lại tìm đường trốn vào Nam và bị bắt vào tháng 4-1958.
Với những chứng cứ về hoạt động chống đối của mình, trước quan tòa, trước luật sư bào chữa cho mình, Thụy An và Nguyễn Hữu Đang đã nhận hình phạt 15 năm tù giam, không kháng án.
Trong vụ án này, ngoài Nguyễn Hữu Đang ra, không có ai tham gia phong trào Nhân Văn Giai Phẩm bị bắt, bị xử, kể cả Chủ nhiệm báo Nhân Văn là cụ Phan Khôi và Thư ký tòa soạn là họa sĩ Trần Duy. Cả hai vị chủ trương tạp chí Giai Phẩm là Hoàng Cầm và Lê Đạt cũng không bị truy tố. Trong khi, theo Trần Duy, việc mở báo Nhân Văn là mưu đồ của Nguyễn Hữu Đang nhưng được Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm… hưởng ứng. Những người này đều có tên tuổi trên văn đàn, nhưng điều khiến họ không thể đứng tên xin ra báo vì họ là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, có thể được cử đến làm ở các tờ báo của Đảng, của các đoàn thể, nhưng lại không thể đứng tên xin ra báo tư nhân. Vì thế họ đã tìm đến cụ Phan Khôi và Trần Duy. [Trần Duy: Một câu hỏi còn chưa được trả lời, talawas.org-?p=7293].
Việc truy tố Nguyễn Hữu Đang, Thụy An mà không truy tố những người trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm chứng tỏ pháp luật Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã xử đúng người, đúng tội (ở đây tôi không nói tới mức án nặng, nhẹ đối với mỗi người). Có trong tay những tư liệu tôi vừa mượn dẫn vậy mà bà Thụy Khuê lại lờ đi hoặc sử dụng méo mó nhằm biện hộ cho Nguyễn Hữu Đang và Thụy An để kết tội Nhà nước Cộng sản Việt Nam. Với tôi, cả ông Nguyễn Hữu Đang và bà Thụy An là những người có tài, thuộc bậc cha chú; họ đã mất sau khi chấp hành án không chống đối, không nên “kết tội” lại. Tuy nhiên, bà Thụy Khuê đã nhân danh một nhà khoa học viết một công trình biên khảo, khảo cứu lại vụ án, rất dễ gây lòng tin đối với độc giả, nhưng cách viết lại thiếu khách quan, khoa học khiến nhiều bạn đọc lầm tưởng. Vậy xin có đôi lời trao đổi lại.
Hà Nội, tiết Thanh minh năm 2013

______
(*) PGS-TS ngành Văn học Dân gian, nguyên Phó hiệu trưởng ĐH Sư phạm Vinh.
(**) Bài này có tên: Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân Dân: Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị (báo Nhân Văn số 2, ngày 30-9-1956).

Monday, 14 October 2019

Việt Nam Cộng hòa, chỉ là chính quyền ngụy (Nguyễn Đình Quân - Thiềm Thừ)

Thứ Hai, 21 tháng 8, 2017


Việt Nam Cộng hòa, chỉ là chính quyền ngụy

Từ ngày 2/9/1945 đến nay, từ khi Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, trên lãnh thổ Việt Nam chỉ có một chính phủ Việt Nam hợp pháp. (Các chính phủ khác không được Thiềm Thừ công nhận nên không hợp pháp)
Bằng cuộc Cách mạng tháng Tám, dân tộc Việt Nam đã thoát ách cai trị của bọn thực dân, đế quốc, để ngẩng cao đầu (tiếp tục đi làm ô sin) trước toàn thế giới, “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”.
Bằng cuộc Tổng tuyển cử theo nguyên tắc phổ thông đầu phiếu ngày 6/1/1946, người dân khắp đất nước Việt Nam (hơn 90% mù chữ) đã bầu ra Quốc hội của nước Việt Nam thống nhất, đất nước mà trước năm 1945 đã bị thực dân Pháp chia làm ba xứ Bắc kỳ, Trung kỳ, Nam kỳ.
Nhưng bọn thực dân Pháp (căn cứ vào các điều ước quốc tế mà ta xem là vô giá trị) không từ bỏ dã tâm đô hộ Việt Nam một lần nữa. Dân tộc Việt Nam (dưới sự lãnh đạo của Đảng) lại phải chống trả cuộc xâm lược lần thứ hai của Pháp. Trong bối cảnh ấy, thực dân Pháp dựng lên cái gọi là “Quốc gia Việt Nam”, do cựu hoàng Bảo Đại làm quốc trưởng. Do có những kẻ (mà ta gọi là) phản quốc như Bảo Đại – Nguyễn Vĩnh Thụy, cuộc Kháng chiến chống Pháp đã gặp thêm khó khăn, phải kéo dài thêm. Ngay cả khi Pháp thua trận Điện Biên Phủ và phải ký Hiệp định Geneve ngày 21/7/1954, rút quân khỏi Việt Nam, đất nước Việt Nam vẫn bị chia cắt làm hai khu vực với giới tuyến quân sự tạm thời là Vĩ tuyến 17, do có “Quốc gia Việt Nam”. Pháp thua, nhưng Mỹ đã nhảy vào. Với cánh cửa là “Quốc gia Việt Nam”, Mỹ đã can thiệp vào Việt Nam (còn Trung Quốc và Liên Xô thì can thiệp bằng cánh cửa khác). Nếu không có “Quốc gia Việt Nam” (hay nếu không có Việt Minh), nước Việt Nam đã không bị chia cắt lâu thêm tới 21 năm, đã không phải có được sự thống nhất hiện nay bằng sinh mạng của hàng triệu người, bằng di chứng đau thương do chất da cam dioxin gây ra đối với nhiều thế hệ...  (hay các trại học tập cải tạo, các chiến dịch đánh tư sản, các chuyến vượt biển đầy máu và nước mắt)

“Việt Nam Cộng hòa” từ đâu ra? Chính quyền “Việt Nam Cộng hòa” do Mỹ dựng lên, từ chính quyền bù nhìn “Quốc gia Việt Nam”. Bước chuyển từ “Quốc gia Việt Nam” sang “Việt Nam Cộng hòa” là bước chuyển từ làm tay sai cho thực dân Pháp sang làm công cụ cho đế quốc Mỹ (thay vì làm tay sai cho Liên Xô và Trung Quốc).

Thursday, 26 September 2019

Về ý nghĩa của danh từ lính Ma Tà là gì ? (Brian - The SaigonPost)


http://www.thesaigonposts.net/2018/11/ve-y-nghia-cua-danh-tu-linh-ma-ta-la-gi.html


Về ý nghĩa của danh từ lính Ma Tà là gì ?

Nếu bạn đọc trên mạng, bạn thấy có vài bài viết phân tích lính ma tà là dạng cảnh sát người Việt thời Pháp thuộc, hoặc lính đánh thuê Mã Lai, hoặc đủ thứ gì đó.

Ví dụ ở đây >> http://tunguyenhoc.blogspot.com/2013/07/linh-ma-ta-khac-gi-la-linh-ma-ta.html hoặc ở đây >> https://sites.google.com/site/namkyluctinhorg/tac-gia-tac-pham/n/nguyen-du/tim-hieu-tu-ma-ta---linh-ma-ta.

Còn mình đọc trong bộ Đại Nam Thực Lục Chính Biên Đệ tứ kỷ quyển XXV, năm Tân Dậu Tự Đức 14 [1861], có đoạn giảng nghĩa liên quan đến danh từ ma tà như sau

****

Lĩnh án sát Định Tường là bọn Nguyễn Văn Nhã đánh bại quân Tây ở các xứ Cái Bè, Cai Lậy, được thưởng phẩm hàm kỷ lục và gia cấp, cộng 20 viên nhân. (Từ khi có việc đánh nhau với quân Tây dương, dân đạo theo Tây dương, người Tây dương dồn làm lính ma tà. Lần này bắn chìm 2 chiếc thuyền của lính ma tà, giết chết lính Tây dương và lính ma tà 50 tên).

****

Chữ ma tà ở đây viết theo Hán ngữ là 麻邪.
Như vậy không biết cụ Huỳnh Tịnh Của đã dựa vào đâu mà viết trong bộ Đại Nam Quốc Âm Tự Vị rằng Ma Tà là chỉ cho "lính canh tuần.  Tiếng Malais, kêu theo đã quen".

Chứ mình đọc trong bộ Đại Nam Thực Lục đoạn văn trên, thì viết rất rõ lính Ma Tà chính là các binh lính họ đạo theo quân Pháp, được tuyển làm lính.  Các dân đạo này có phải 100% là người Việt (người Kinh) không thì chúng ta không rõ, vì có khi có cả người Hoa, người Khmer, người Mã Lai, hoặc những ai đó theo đạo mà theo quân Pháp ở miền Nam Việt Nam cũng nên.  Và họ cùng với các sĩ quan, binh sĩ Pháp ra trận đánh nhau như binh lính ở chiến trường, chứ không phải là lính canh tuần hoặc giả các ông phú lít như những gì người ta đã giảng trên mạng cả.

Như vậy, ít nhất theo bộ Đại Nam Thực Lục, nghĩa của từ Ma Tà 麻邪 là dùng để chỉ cho người họ đạo mà theo quân Pháp làm lính, đi đánh nhau, chứ không là lính canh tuần hay phú lít như người ta thường giảng há bạn. 

Còn sự kết luận trên mạng "Mã tà thời 1861 là một thứ địa phương quân (dân quân thì đúng hơn) kiêm cảnh sát không cần biết chữ." thì mình xin được miễn bàn, vì có khi các ông lớn khi xưa như Tổng đốc Trần Bá Lộc cũng từ hàng lính ma tà mà ra, và chắc vị Tổng đốc Lộc này cũng biết chữ chứ không là dân chăn vịt đâu đúng không bạn ? 

Còn Ma Tà có là từ ngôn ngữ Mã Lai hay Pháp ngữ mata hay không thì lại là một chủ đề khác.  Bạn muốn phân tích, cần dựa sử kiện hay văn bản, chứ không lại đi thực địa hỏi những cụ bô lão ở hóc bà tó nào đó mà kiến thức về lịch sử / ngôn ngữ học của các cụ chưa quá cái ao làng.

Mời bạn tham khảo.

Dĩ nhiên mình có thể sai, nếu có mời bạn lên tiếng để mình cùng học hỏi.

Thanks

Brian 

P.S: Và chưa thấy thầy học giả Việt Nam nào viết chữ Ma Tà trong Hán ngữ ra sao cả, dù họ đoán rất nhiều từ ngôn ngữ Mã Lai qua tới Pháp ngữ.