Showing posts with label văn chương. Show all posts
Showing posts with label văn chương. Show all posts

Monday, 16 June 2014

Nguyễn Xuân Đức Về vụ án Nguyễn Hữu Đang, Thụy An (Nguyễn Xuân Đức)

19.06.2013
Nguyễn Xuân Đức
Về vụ án Nguyễn Hữu Đang, Thụy An
Đôi lời trao đổi với bà Thụy Khuê





Trước hết, xin thổ lộ đôi điều về duyên cớ có bài viết này. Tôi sinh gần như cùng thời với bà Thụy Khuê ở một tỉnh miền Trung xa xôi. Khi phong trào Nhân văn giai phẩmxẩy ra, có lẽ cũng như bà Thụy Khuê, tôi còn nhỏ chẳng biết gì. Lớn lên, học đại học văn mới được biết về phong trào Nhân văn giai phẩm qua bài giảng của thầy giáo, dĩ nhiên theo quan điểm chính thống của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa, nhưng rồi nghề mọn văn chương không thuộc khu vực này nên dù về sau có tiếp xúc với một số tài liệu viết về trong phong trào Nhân văn giai phẩm, tôi cũng đọc cho biết rồi bỏ đó.





Đầu năm 2007, “sự kiện” đầu tiên làm tôi chú ý là sau khi bác Nguyễn Hữu Đang mất, tôi được đọc 2 bài viết: một của bác Phùng Quán nhan đề Những ngày cuối năm, tìm thăm người dựng Lễ đài Tuyên ngôn Độc lập, do báo Tuổi trẻ đăng lại và bài Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập của nhà sử học Dương Trung Quốc, đăng trên báo Người lao động. Hai bài báo này đã đem lại những thông tin mới, thậm chí trái ngược với những gì tôi được học trước đây về phong trào Nhân văn giai phẩm. Tuy vậy, nghĩ những vấn đề đó không thuộc lĩnh vực chuyên môn của mình nên đọc rồi, tôi cũng bỏ đó. Năm 2012, ở cái tuổi nghỉ ngơi, tình cờ tôi được đọc cuốn Nhân văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc của bà Thụy Khuê (ngay từ những chương phát trên mạng), thì sự tò mò trong tôi trỗi dậy. Bằng cách tập hợp, phân tích một khối lượng tư liệu khá lớn, tác giả đưa ra những nhận xét, đánh giá về nhiều con người liên quan đến phong trào Nhân văn giai phẩm. Nếu tính về thời gian thì cuốn sách này được viết từng phần, đã công bố dần trên đài RFI từ hàng chục năm trước, nay được tập hợp lại, in thành sách dưới một tên chung “Nhân văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc”. Nói điều này tôi vừa muốn ghi nhận công thu thập tài liệu, gặp gỡ nhân chứng và suy ngẫm suốt một quá trình dài như một nhà khoa học của tác giả về phong trào Nhân văn giai phẩm, nhưng cũng muốn nói về những gì thiếu nhất quán, thiếu tập trung, là sự gán ghép chẳng ăn nhập nhau lắm giữa các mảng nội dung của cuốn sách. Đặc biệt, dường như bị mục tiêu phê phán nhà nước Cộng sản Việt Nam chi phối, nên tác giả đã sử dụng sai lệch nhiều tư liệu có được, làm giảm đi tính khách quan, khoa học của công trình. Thiết nghĩ, dù phê phán hay bênh vực bên nào thì làm khoa học cũng cần sự sòng phẳng, sòng phẳng trong sử dụng tài liệu và cũng sòng phẳng cả trong cách tiếp cận vấn đề. Trong bài viết này tôi muốn trao đổi cùng bà Thụy Khuê đôi điều chung quanh vụ án nhà hoạt động văn hóa Nguyễn Hữu Đang và nhà báo Thụy An. Bài viết của tôi xin được sử dụng những tài liệu do chính bà Thụy Khuê cung cấp trong cuốn sách nêu trên, dù rằng trong tay tôi hiện đã có trên 50 tài liệu khác nhau về phong trào Nhân văn giai phẩm.








1. Nguyễn Hữu Đang – công và tội





1.1. Nguyễn Hữu Đang - những đóng góp thời kỳ 1949 về trước





Lấy mốc 1949 về trước để chỉ thời kỳ Nguyễn Hữu Đang được Cụ Hồ trọng dụng và việc ông được kết nạp Đảng Cộng sản Đông Dương thời gian đó như là lời khẳng định về những đóng góp của ông cho đất nước. Tuy từ năm 1950, Nguyễn Hữu Đang vẫn giữ chức Trưởng Ban thanh tra Nha bình dân học vụ nhưng thực chất ông đã bỏ Hà Nội về Thanh Hóa làm việc cho nhà in Minh Đức. Có thể tóm tắt công trạng của ông trong thời gian từ 1949 về trước như sau:





- Là người có năng lực tổ chức, có tư tưởng đổi mới; đã tham gia sáng lập và lãnh đạo Hội Văn hóa cứu quốc; có đóng góp lớn trong Hội truyền bá quốc ngữ và phong trào văn hóa cứu quốc, chống nạn mù chữ.





- Đã giữ các chức vụ cao trong hệ thống Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa như Thứ trưởng Bộ Tuyên truyền, Thứ trưởng Bộ Thanh niên, Chủ tịch Ủy ban vận động Mặt trận văn hóa, Trưởng Ban Tuyên truyền xung phong Trung ương, Trưởng Ban Thanh tra Nha bình dân học vụ,…





- Từng được Hồ Chí Minh trọng dụng, trong đó có việc giao phó nhiệm vụ khó khăn – làm Trưởng Ban tổ chức Lễ tuyên bố Độc lập ngày 02/9/1945.





Những đóng góp nêu trên rất to lớn cần được ghi nhận và chính là cơ sở để sau này ông được xem xét phục hồi những quyền lợi vật chất như cấp lương hưu, cấp nhà ở Hà Nội cùng nhiều đồ dùng sinh hoạt khác.





1.2. Nguyễn Hữu Đang và vai trò tổ chức chống đối qua Nhân văn





Nguyễn Hữu Đang là người có tài và có cơ mưu chính trị. Về cá tính, ông là người khó khép mình vào khuôn phép của tổ chức. Ông từng có mối quan hệ tự do với các tổ chức, phe nhóm chính trị khác nhau trong và ngoài nước, điều mà thời kỳ đó kỷ luật Đảng không cho phép. Vì thế, mặc dù lúc 16 tuổi ông đã tham gia tổ chức Việt Nam Thanh niên Cách mạng Đồng chí hội, rồi Đông dương Cộng sản đảng, là đối tượng kết nạp đảng từ năm 1929, nhưng đến năm 1947 mới được chính thức kết nạp vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Trong tài liệu viết tay của mình, sau đoạn “Cuối năm 56 đầu năm 57: Tổ chức, lãnh đạo và biên tập báo Nhân Văn. Giúp đỡ tập san Giai Phẩm”, Nguyễn Hữu Đang cũng thừa nhận: “Những hoạt động này là tự ý làm ngoài công tác, vô tổ chức”.





Năng lực và cá tính ấy đã tạo ra bước rẽ lớn của Nguyễn Hữu Đang khi ông bất đồng ý kiến với ông Trường Chinh, người đang giữ chức vụ cao trong Đảng, trong đó có vai trò lãnh đạo văn nghệ. Chính Thụy Khuê đã nhận rõ vấn đề này trong khi viết về Nguyễn Hữu Đang.





Ngay từ thời kỳ theo cách mạng, Nguyễn Hữu Đang đã có tư tưởng khác, không nhận đường lối văn hoá xã hội chủ nghĩa, tự đi ra ngoài trật tự của đảng, muốn lập một đảng riêng (đảng Nhân văn) với một thể chế chính trị riêng. Từ quan điểm đó, Nguyễn Hữu Đang đã nhanh chóng rời khỏi hàng ngũ của Đảng và tổ chức lực lượng chống đối.





Ở chương viết về Nguyễn Hữu Đang trong cuốn Nhân văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, Thụy Khuê khẳng định: “Trong 6 năm từ 48 đến 54, Nguyễn Hữu Đang đã ngừng mọi hoạt động với chính quyền cộng sản. Ông giúp Trần Thiếu Bảo điều hành nhà xuất bản Minh Đức, in lại các sách giá trị thời tiền chiến đã bị cách mạng lên án, hoặc cấm lưu hành của Vũ Trọng Phụng, Khái Hưng, v.v…” [Thụy Khuê, sđd., tr.204].





Tuy có những hành động như vậy, nhưng tôn trọng tài năng và đóng góp của ông, nên khi hòa bình vừa lập lại, năm 1954, thực hiện ý kiến của Trường Chinh, Tố Hữu đã mời Nguyễn Hữu Đang ra làm Giám đốc Sở Văn hoá Thông tin Hà Nội, nhưng Nguyễn Hữu Đang đã từ chối và yêu cầu được làm biên tập báo Văn nghệ cùng với Lê Đạt [lời chứng của Lê Đạt với RFI và lời Nguyễn Huy Tưởng ghi trong Nhật ký]. Nhưng khi trở lại báo Văn nghệ, Nguyễn Hữu Đang lại tiếp tục bộc lộ quan điểm riêng của mình, gây khó khăn cho những người lãnh đạo, kể cả những người bạn thân. Nguyễn Huy Tưởng đã ghi trong Nhật ký: Ở đâu cũng thấy không vừa ý, ở đâu cũng có ảnh hưởng đến anh em. Anh em toà soạn khen là chí công, vô tư, nhưng tư tưởng rất là nguy hiểm. Một điển hình của một chiến sĩ làm cách mạng bất mãn [Nhật ký Nguyễn Huy Tưởng, ngày 21/4/1955. Nxb Thanh niên, 2006].





Cho đến nay, không ít người vẫn nghĩ rằng Nguyễn Hữu Đang bị oan trong vụ án xử năm 1960. Có bài báo đã khẳng định Nguyễn Hữu Đang là “vị cách mạng lão thành”, “là người hoạt động cách mạng, nhà báo, nhà truyền bá quốc ngữ nổi tiếng” và để tránh nói về việc Nguyễn Hữu Đang bị tòa án nhân dân thành phố Hà Nội phạt tù, bài báo chỉ hạ một câu: “có cuộc đời long đong…” [Dương Trung Quốc: Vĩnh biệt vị trưởng ban tổ chức ngày Lễ Độc lập, báo Người lao động ngày 25 Tháng hai 2007].





Ghi nhận công lao đóng góp to lớn cho cách mạng của Nguyễn Hữu Đang giai đoạn 1949 về trước là đúng, nhưng không thể không nhìn thấy mưu đồ riêng của ông đã manh nha từ khi theo cách mạng và được bộc lộ qua hành động chống đối vào những năm sau đó.





Tội của Nguyễn Hữu Đang đã được Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội, xét xử công khai trong phiên tòa mở ngày 19-21/01/1960, có tranh tụng và bào chữa cho bị cáo của luật sư Đỗ Xuân Sảng, có phát biểu nhận tội của Nguyễn Hữu Đang.





Lần lại hồ sơ, nhân chứng,… liên quan đến Nguyễn Hữu Đang, có thể thấy: thái độ chống đối của ông được bộc lộ rõ rệt từ tháng 8 năm 1956. Vào ngày cuối cùng của lớp học tập dân chủ do ông tổ chức (từ 8/8 đến 26/8/56), Nguyễn Hữu Đang đã có bài tham luận chỉ trích gay gắt đường lối văn nghệ của Đảng và những người lãnh đạo văn nghệ, được một số trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến hưởng ứng. Nhà thơ Lê Đạt kể lại: “Trong cuộc học tập này, anh em phê phán văn nghệ rất nhiều, trong đó nổi bật lên vai trò của anh Nguyễn Hữu Ðang (…) Trong buổi học tập văn nghệ đó, anh Ðang có đọc một bài tham luận rất hùng hồn về những sai lầm của lãnh đạo văn nghệ. Lúc đó Ðang có nói một câu với Nguyễn Ðình Thi – Nguyễn Ðình Thi lúc ấy là một trong những người chịu trách nhiệm tờ Văn Nghệ - Ðang nói rằng: “Thế nào tao cũng ra một tờ báo, tờ báo chưa biết tên là gì, tao thì không làm được nhưng để cho bọn Giai Phẩm Mùa Xuân nó làm” [Lê Đạt trả lời phỏng vấn RFI, Thụy Khuê thực hiện]. Tờ báo này chính là tờ Nhân Văn, và kết quả tờ Nhân văn số 1 đã ra vào ngày 20/9/1956 do Phan Khôi làm Chủ nhiệm, Trần Duy làm Thư ký tòa soạn, với một loạt bài của: Phan Khôi, Hoàng Cầm, XYZ, Lê Đạt, Trần Dần…





Rõ ràng manh nha từ trong ý thức, Nguyễn Hữu Đang đã có âm mưu sử dụng người của nhóm Giai phẩm làm báo Nhân văn và trong đó không ít tiếng nói trái với đường lối văn nghệ của Đảng. Báo Nhân văn, vì thế, ra được từ số 1 đến số 5, số 6 định ra vào tháng 12 năm 1956 thì bị đình bản.





Hành động tổ chức chống đối của Nguyễn Hữu Đang, chính những người cùng sống và làm việc với Nguyễn Hữu Đang đều thừa nhận:





+ Về vai trò tổ chức, tập hợp của Nguyễn Hữu Đang đối với nhóm Nhân văn giai phẩm, nhà thơ Trần Dần khẳng định: “Nếu không có Đang, không ai có thể tập hợp anh em được. Sẽ không có tham luận với những đề nghị: gặp Trung ương, ra báo… mà cũng sẽ không có tờ Nhân Văn” [Trần Dần, “Tự thú” - tài liệu do Phạm Thị Hoài biên tập và xuất bản tại Pais].





+ Về hành động khuynh loát báo Nhân văn hướng về mục tiêu chính trị kích động chống đối xã hội của Nguyễn Hữu Đang, Trần Duy – nguyên Thư ký tòa soạn báo Nhân văn, thuật lại:





“Số văn nghệ sĩ tham gia Nhân văn hầu như không có mấy quyền hạn với tờ báo, nên các việc của tờ báo là do Đang và Đạt quyết định”.





Vì thế, khi thấy tình hình chính trị Đông Âu, Ba lan,… đang có những chuyển biến bất lợi cho cách mạng Việt Nam, Nguyễn Hữu Đang đã tự thay đổi nội dung báo Nhân văn số 6, hướng về những vấn đề ở Ba Lan, Đông Âu,… để kích động phong trào chống đối nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Trần Duy kể lại:





“Đến khi chuẩn bị làm số 6, tôi và Lê Đạt, Văn Cao bàn đổi hướng để tờ báo nói về hội họa, nên đã chuẩn bị cho số báo chuyên về tranh áp-phích của Ba Lan. Tôi đến làm việc với sứ quán Ba Lan và có đủ tài liệu về tranh áp-phích của Ba Lan. Ngay ngày hôm sau đó có giấy của Thủ tướng triệu tập… (về việc này tôi đã viết trong bài tưởng niệm ông Phan Khôi năm 2007). Tôi được mọi người cử đi và đã gặp Thủ tướng Phạm Văn Đồng. Tôi về nói lại với Lê Đạt, Văn Cao, Nguyễn Hữu Đang những điều căn dặn của Thủ tướng. Nguyễn Hữu Đang bỏ cuộc họp tự động đến nhà in. Văn Cao và Lê Đạt cùng nói với tôi:





- Thế là Đang sẽ thay đổi nội dung tờ báo, sẽ hướng về tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan, Tiệp Khắc…”.


  [Trần Duy: Một câu hỏi còn chưa được trả lời, talawas.org/?p=7293]





Sau khi đã trực tiếp viết luôn mấy bài xã luận chuẩn bị trước cho tư tưởng chống lại chế độ, trong số 6 báo Nhân văn, Nguyễn Hữu Đang đã viết một bài kêu gọi biểu tình. Trần Duy khai: “Chúng tôi tưởng rằng số 6 Nhân văn ra được thì bọn gián điệp sẽ ngóc đầu dậy, bọn chiến tranh tâm lý sẽ có đất hoạt động… sẽ có biểu tình, súng nổ…, tiếp theo đó là những mưu đồ lật đổ” (Bọn gián điệp mà Trần Duy nói tới ở đây là Trần Minh Châu, Nguyễn Quang Hải,… bị xử án trước đó, đã có điều kiện hoạt động ráo riết trở lại trong thời gian này – NXĐ).





Tình hình chính trị Đông Âu, Ba Lan,… lúc đó là gì?





Tháng 6 năm 1956 có cuộc nổi dậy chống nhà nước XHCN ở Poznan, Ba Lan. Chính cuộc nổi dậy ở Ba Lan đã châm ngòi cho cuộc bạo loạn vũ trang ở Hungary vào tháng 10 – 11 năm 1956.





+ Về âm mưu của Nguyễn Hữu Đang lợi dụng thời cơ chính trị trong và ngoài nước,… để tổ chức chống đối, chính chị Thụy Khuê nhận xét:





“Nguyễn Hữu Đang đã tìm đúng thời cơ. Trong nước, vị thế của Trường Chinh và đảng Cộng sản yếu đi sau chiến dịch Cải cách ruộng đất đẫm máu. Ngoài nước, việc hạ bệ Staline ở đại hội 20 của đảng cộng sản Liên Xô là những lực đẩy khuynh hướng tranh đấu cho tự do dân chủ có cơ hội hành động. Nguyễn Hữu Đang, trong lớp học 18 ngày, đã chiếm được lòng tin của giới trí thức và văn nghệ sĩ cấp tiến. Ông nắm cơ hội, đứng ra tổ chức NVGP với những người bạn đã hoạt động trong kháng chiến Trương Tửu, Trần Thiếu Bảo; với Lê Đạt, Hoàng Cầm đã làm Giai phẩm mùa xuân” [Thụy Khuê, sđd., tr.208].





+ Về hành động che dấu âm mưu thủ đoạn của Nguyễn hữu Đang theo kiểu “ném đá dấu tay”, Thụy Khuê viết:





“Tuy ít bài ký tên thật, nhưng dấu ấn của ông không thiếu trên báo Nhân Văn: Những bài phỏng vấn Nguyễn Mạnh Tường, Đào Duy Anh, Trần Đức Thảo, Đặng Văn Ngữ về vấn đề dân chủ do Nguyễn Hữu Đang thực hiện”.





[Thụy Khuê, sđd., tr.209].





Lời thuật của Trần Duy sau đây về cuộc đàm thoại với cụ Phan Khôi, càng cho thấy đầy đủ hơn mưu mô thủ đoạn chính trị của Nguyễn Hữu Đang. Trần Duy viết:





“Nhân bài viết Trả lời ông Nguyễn Chính([1]) trên báo Nhân văn tác giả ký tên bốn người: Trần Dần, Trần Duy, Lê Đạt, Hoàng Cầm.





Ông Phan tìm hỏi tôi:





- Anh có biết ông Nguyễn Chính không?





Tôi trả lời: “Không”.





Ông hỏi tiếp:





- Anh có đọc bài viết của ông Nguyễn Chính trong báo Nhân Dân không?





Tôi trả lời: “Không”.





Ông Phan Khôi nói:





- Anh không biết người ta, anh không đọc bài người ta viết mà anh dám ký tên vào bài người khác viết để đả kích người ta.





Tôi không trả lời – ông nói tiếp:





- Anh làm ăn kiểu gì lạ vậy? Mục đích khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị, chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng đấy!!!





Sau cùng ông hỏi:





- Thật ra bài ấy của ai?





Tôi trả lời:





- Của Nguyễn Hữu Đang.





Ông khó chịu nói:





- Ông Đang có đủ chữ để viết một bài như vậy mà lại không đủ can đảm để nhận là tác giả của bài viết ấy, lại còn gắp lửa bỏ tay người, làm việc cách này dễ dắt nhau vào tù lắm!!!”.





[Tưởng niệm về nhà văn Phan Khôi, Bài do Trần Duy gửi Ban tổ chức buổi toạ đàm tưởng niệm nhà văn nhà báo Phan Khôi (1887-1959) nhân 120 năm sinh, do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, tạp chí Xưa và Nay và gia đình đồng tổ chức (Hà Nội, 5/10/2007)].





Đoạn đàm thoại trên cho thấy chính cụ Phan Khôi đã vạch thói “gắp lửa bỏ tay người” của Nguyễn Hữu Đang, đồng thời khẳng định thủ đoạn của Nguyễn Hữu Đang chuyển mục đích của báo Nhân văn “khi đặt ra là văn thơ, nay lại quay mũi nhọn sang chính trị” – “chống báo của Đảng nghĩa là tuyên chiến với Đảng”.





Xin lưu ý thêm rằng, cuối năm 1956, dưới sự chỉ đạo của Nguyễn Hữu Đang, các ấn phẩm Nhân văn, Giai phẩm đồng loạt được tung ra đều nằm trong mục đích “quay mũi nhọn sang chính trị” như nhận xét của cụ Phan Khôi. Chỉ từ tháng 9 đến tháng 12 năm 1956, 6 số Nhân văn được xuất bản (trong đó số 6 bị đình bản) và đồng loạt Giai phẩm mùa xuân (tái bản), Giai phẩm mùa thu, Giai phẩm mùa đông ra mắt bạn đọc với nhiều tập khác nhau. Đặc biệt, nếu trong 4 số Nhân văn đầu đang có chuyên mục “Địa ngục miền Nam”, thì từ số 5 trở đi, chuyên mục này đã bị bỏ.





Những chứng cứ nêu trên (phần nhiều do Thụy Khuê thu thập) cho thấy: tội tổ chức chống phá cách mạng của Nguyễn Hữu Đang là sự thật. Trong trả lời phỏng vấn đài RFI, ông cũng thừa nhận: “Ra tòa tôi nhận hết, chứ tôi không có bào chữa, không cãi cọ gì nhiều cả. Thậm chí là sau khi bị kết án 15 năm thì tôi cũng không có ký chống án gì cả. Từ bấy giờ đến nay tôi cũng không viết một cái đơn nào để thanh minh, phân trần, xin xỏ, khoan hồng hay là nọ kia. Không! Cái việc đó không!”. Chắc chắn trên thế giới này không một nhà nước non trẻ nào, dù Cộng sản hay không Cộng sản, có thể bỏ qua những hành động chống đối như vậy.





2. Bị xử án cùng một phiên tòa với Nguyễn Hữu Đang còn có nhân vật quan trọng thứ hai là nhà báo Thụy An/Lưu Thị Yến. Trong phiên tòa mở ngày 19 tháng 01 năm 1960 Thụy An và Phan Tại không thuộc nhóm Nhân văn giai phẩm, tuy nhiên bà rất thân và có ảnh hưởng rất sâu rộng “đối với anh em văn nghệ sĩ trẻ tham gia Nhân văn giai phẩm” [Lê Đạt, “Tự thú”].





Về hành động chống phá nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa của Thụy An, cho đến nay, một số người vẫn còn hoài nghi về tội danh của bà, rằng Thụy An không phải là một gián điệp, không phải là người tổ chức chống phá chính quyền,… Ngay trong cuốn Nhân văn giai phẩm và vấn đề Nguyễn Ái Quốc, tác giả cũng đòi hỏi: “Đáng lẽ bà phải có chỗ đứng xứng đáng trên văn đàn, bởi bà là nhà báo đầu tiên chủ trương các tờ Đàn bà mới, tại Sài gòn, từ 1934, và Đàn bà, Hà Nội, 1937. Bà là nhà văn nữ tiên phong với tiểu thuyết Một linh hồn, 1942. Nhưng cho đến nay, chính quyền chưa hề trả lại cho bà phần danh dự bị bôi nhọ trong hơn nửa thế kỷ, với những lời nhục mạ tàn nhẫn, một cái án 15 năm phi lý, và cho đến chết bà vẫn chưa hề được phục hồi danh dự” [Thụy Khuê, sđd, tr.170].





Thế nhưng, chính ông Nguyễn Hữu Đang thừa nhận: “Bà Thụy An bị cơ quan an ninh nghi bà ấy làm gián điệp cho Pháp, vì thời tạm chiếm, bà ấy có quan hệ với nhiều người Pháp. Đến lúc đi, người ta sắp cử bà ấy làm giám đốc đài phát thanh cơ mà! Như thế là bà ấy cũng có địa vị, có uy tín, thì đáng nhẽ là bà ấy phải theo chính quyền Ngụy vào trong Nam chứ, bà ấy lại không theo vào” (?), và ông biện hộ: “bà ấy ở lại vì lý do chuyện cá nhân của bà” (!) [Nguyễn Hữu Đang trả lời phỏng vấn RFI]. Lời của Nguyễn Hữu Đang cho thấy Thụy An không chỉ là người “có quan hệ với nhiều người Pháp” mà còn là người “có địa vị, có uy tín” với chính phủ Pháp, “sắp được cử làm giám đốc đài phát thanh”, “đáng nhẽ phải theo chính quyền Ngụy vào Nam”, nhưng “bà ấy ở lại vì lý do cá nhân”. Đó là lý do gì? Chính bà Thụy Khuê đã trả lời hộ: “Thụy An là người có liên hệ chặt chẽ với những người Quốc dân đảng như Đỗ Đình Đạo (Giám đốc Quân thứ lưu động của Việt Nam Quốc dân đảng) và người Pháp như Đại sứ Sainteny, các tướng Tassigny, Cogny…”. Còn chứng cứ về mối quan hệ ở mức “nghĩa tử quốc gia” giữa Thụy An với nước Pháp thời kỳ đó thì chính Bùi Thư Linh (con gái Thụy An) xác nhận với Thụy Khuê trong cuộc điện đàm giữa hai người ngày 17 tháng 10 năm 2009:





“*Đến năm 1954, Bùi Thư Linh (16 tuổi) đi Pháp, tại sao?





- Tôi bị bệnh lao xương, Mẹ gửi tôi đi Pháp chữa bệnh ngày 20/5/1954.





*Gia đình túng thiếu, lấy tiền đâu ra?





- Đi theo diện Pupille de la Nation (Nghĩa tử Quốc gia), chính phủ Pháp lo hết”.





[Thụy Khuê, sđd., tr.178].





Thụy Khuê cũng khẳng định: “…Khi ra Bắc, Thụy An đã có chủ đích chính trị: đặt bản doanh chống chính quyền cộng sản ở Hoà Xá, quê hương bà, nơi có những người tin cẩn nhất. Hoà Xá cũng là một trong những làng có truyền thống chống cộng. Và để đánh lạc hướng, bà nhận cả công tác dò thám Pháp cho chính quyền cộng sản. Với hành động này, Thụy An trở thành nhà văn đầu tiên tổ chức chống chính quyền cộng sản, trong lòng chế độ” [Thụy Khuê, sđd., tr.178].





Thực ra, Thụy An đã cùng con cái vào Nam từ 1952, nhưng vẫn thường xuyên trở ra Hà Nội để tổ chức cơ sở chống lại Đảng và Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa nên tháng 3 năm 1957 bà bị bắt trên đường lẫn trốn từ Hòa Xá, Hà Đông đến Phủ Lý (quê chồng). Và hành động đó của bà đã được chính con trai bà thừa nhận. Trả lời câu hỏi “Thụy An thường xuyên ra Hà Nội với mục đích gì?”, Bùi Thụy Băng, con trai thứ của Thụy An, nói: “Bà cụ tôi ra Bắc, với hai mục đích: - Về quê mình để thu thập tất cả những gì quý báu nhất trong nhà ông ngoại tôi. Thứ nhì, bà cụ tôi muốn đặt cái bản doanh chống lại chính quyền ở Hoà Xá – chúng tôi nhấn mạnh” [Bùi Thụy Băng, điện đàm ngày 16/12/2004 - Thụy Khuê, sđd., tr.179].





Những chứng cứ trên cho thấy Thụy An là “nghĩa tử Quốc gia”  của Pháp, là người đã có những hoạt động và tổ chức hoạt động chống lại chính quyền Cộng sản ở miền Bắc Việt Nam. Vậy là tội trạng của Thụy An đã quá rõ, còn mục tiêu sâu xa của bà trong việc gây ảnh hưởng “đối với anh em văn nghệ sĩ trẻ tham gia Nhân văn giai phẩm” (như lời của nhà thơ Lê Đạt) cũng không hẵn là việc làm ngẫu nhiên.





*





Từ những chứng cứ vừa nêu trên có thể thấy Thụy An và Nguyễn Hữu Đang không phải là một, nhưng có sự gặp nhau về tư tưởng chống Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa non trẻ, và trên thực tế cả hai cũng đã bắt đầu có những động thái dịch lại với nhau. Điều này cũng giải thích vì sao Thụy An đã vào miền Nam vẫn ra Bắc (trên danh nghĩa nhà báo), còn Nguyễn Hữu Đang lại tìm đường trốn vào Nam và bị bắt vào tháng 4 năm 1958.





Với những chứng cứ về hoạt động chống đối của mình, trước quan tòa, trước luật sư bào chữa cho mình, Thụy An và Nguyễn Hữu Đang đã nhận hình phạt 15 năm tù giam, không kháng án.





Trong vụ án này, ngoài Nguyễn Hữu Đang ra, không có ai tham gia phong trào Nhân văn và Giai phẩm bị bắt, bị xử, kể cả Chủ nhiệm báo Nhân văn là cụ Phan Khôi và Thư ký tòa soạn là họa sĩ Trần Duy. Cả 2 vị chủ trương Tạp chí Giai phẩm là Hoàng Cầm và Lê Đạt cũng không bị truy tố. Trong khi, theo Trần Duy, việc mở báo Nhân văn là mưu đồ của Nguyễn Hữu Đang nhưng được Lê Đạt, Trần Dần, Văn Cao, Hoàng Cầm,… hưởng ứng. Những người này đều có tên tuổi trên văn đàn, nhưng điều khiến họ không thể đứng tên xin ra báo vì họ là đảng viên Đảng Lao động Việt Nam, có thể được cử đến làm ở các tờ báo của Đảng, của các đoàn thể, nhưng lại không thể đứng tên xin ra báo tư nhân. Vì thế họ đã tìm đến cụ Phan Khôi và Trần Duy [Trần Duy: Một câu hỏi còn chưa được trả lời, talawas.org/?p=7293].





Việc truy tố Nguyễn Hữu Đang, Thụy An mà không truy tố những người trong nhóm Nhân văn giai phẩm chứng tỏ pháp luật Việt Nam dân chủ cộng hòa đã xử đúng người, đúng tội (ở đây tôi không nói tới mức án nặng/ nhẹ đối với mỗi người). Có trong tay những tư liệu tôi vừa mượn dẫn vậy mà bà Thụy Khuê lại lờ đi hoặc sử dụng méo mó nhằm biện hộ cho Nguyễn Hữu Đang và Thụy An để kết tội nhà nước Cộng sản Việt Nam. Với tôi, cả ông Nguyễn Hữu Đang và bà Thụy An là những người có tài, thuộc bậc cha chú; họ đã mất sau khi chấp hành án không chống đối, không nên “kết tội” lại. Tuy nhiên, bà Thụy Khuê đã nhân danh một nhà khoa học viết một công trình biên khảo, khảo cứu lại vụ án, rất dễ gây lòng tin đối với độc giả, nhưng cách viết lại thiếu khách quan, khoa học khiến nhiều bạn đọc lầm tưởng. Vậy xin có đôi lời trao đổi lại.





Hà Nội, tiết Thanh minh năm 2013.


NXĐ.


___________





[1]  Bài này có tên: Trả lời bạn Nguyễn Chương và báo Nhân dân: Chúng tôi cực lực phản đối luận điệu vu cáo chính trị (Báo Nhân văn số 2, ngày 30.9.1956).








viet-studies

Sunday, 11 May 2014

Lược sử kỳ án Nhã Thuyên (Dương Tu)


April 26, 2014 at 11:26am
Câu chuyện thẩm định lại luận văn “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa" và thu hồi bằng Thạc sĩ của Đỗ Thị Thoan rồi đây sẽ đi vào lịch sử văn chương như một vụ Nhân Văn Giai Phẩm thời hiện đại và là một thí dụ kinh điển về sự xâm phạm quyền tự do học thuật trong môi trường đại học.

Bài này điểm lại những sự kiện chính trong kỳ án này để tiện tra cứu sau này và giúp những ai quan tâm dễ theo dõi câu chuyện từ khi nó bắt đầu.

***


12/2010: Đỗ Thị Thoan, bút danh Nhã Thuyên, sinh năm 1986, học viên cao học khóa 18 (2009 – 2010), chuyên ngành Văn học Việt Nam hiện đại, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội bảo vệ thành công luận văn “Vị trí của kẻ bên lề: thực hành thơ của nhóm Mở Miệng từ góc nhìn văn hóa" dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Nguyễn Thị Bình. Hội đồng chấm luận văn bao gồm PGS. Nguyễn Văn Long, TS. Chu Văn Sơn, PGS. TS. Ngô Văn Giá, TS. Nguyễn Văn Phượng và PGS. TS. Nguyễn Đăng Điệp được thành lập theo quyết định số 7460/QĐ-ĐHSPHN đánh giá luận văn ở mức xuất sắc và cho điểm tuyệt đối (10/10) [1].

Có rất ít người biết đến đến Nhã Thuyên và luận văn của cô vào thời điểm này.

8/3/2011: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định số 676/QĐ-ĐHSPHN cấp bằng Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, số hiệu A005416 (vào sổ cấp bằng số 7437) cho Đỗ Thị Thoan [2]. Đỗ Thị Thoan trở thành giảng viên hợp đồng tại Khoa Ngữ văn, giảng dạy chuyên đề Văn học Việt Nam ở nước ngoài cho đến khi bị ngừng hợp đồng vào tháng 5/2013.

30/5/2013: Tuần báo Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh đăng loạt bài của Chu Giang (tức Nguyễn Văn Lưu) phê phán luận văn của Nhã Thuyên trên các số từ 256 đến 259 [3-7]. Một bài khác [8] nằm trong loạt bài này được cho là sẽ xuất hiện ở số 260 nhưng cuối cùng đã không được đăng.

4 & 5/06/2013: Tại Hội nghị Lý luận-Phê bình văn học lần thứ III ở Tam Đảo, Chu Giang đăng đàn tiếp tục phê phán gay gắt luận văn của Nhã Thuyên.

7/7/2013: 9:19 PM, báo Nhân Dân điện tử đăng bài “Nhân danh nghiên cứu để ca ngợi thứ "thơ" rác rưởi” [9]. Hơn 1 tiếng sau (10:35 PM), báo Quân đội nhân dân online đăng bài “Một “góc nhìn” phản văn hóa và phi chính trị” [10]. Cả hai bài cùng kịch liệt lên án luận văn của Nhã Thuyên. 

Sau phát súng mở màn của Nhân Dân và Quân đội nhân dân, một làn sóng phê phán luận văn này xuất hiện trên hàng loạt báo như Văn nghệ quân đội [11], Công an Thành phố Hồ Chí Minh [12], Hà Nội mới [13], Sài Gòn giải phóng [14], Thanh Tra [15], Lâm Đồng online [16], Vĩnh Long online [17]…

Kể từ đây, câu chuyện về luận văn Nhã Thuyên bắt đầu thu hút sự chú ý của nhiều người.

20/7/2013: RFA đăng bài phỏng vấn Chu Giang và một số người liên quan [18]. 

10-31/7/2013: Nhà văn Phạm Thị Hoài gọi những bài viết của Chu Giang là “cú giãy cuối cùng của nền phê bình chỉnh huấn” [19], GS. Trần Đình Sử gọi loạt bài của Chu Giang là lối “phê bình kiểm dịch” [20], Nhà văn Phạm Xuân Nguyên gọi đây là “phê bình chỉ điểm” [21].

25/7/2013: Nhà báo Nguyễn Vạn Phú cho rằng việc phê phán luận văn Nhã Thuyên là hành động “hận cá, chém thớt” [22].

26/7/2013: GS. Trần Đình Sử viết bài “Cuộc phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan hay là sự xung đột về khung tri thức và thế hệ” nhận định cuộc phê phán luận văn của Đỗ Thị Thoan rầm rộ khắp cả nước là “một cách hành xử quá nóng vội” [23].

27/7/2013: Lãnh đạo Trường Đại học Sư phạm Hà Nội chỉ đạo Ban chủ nhiệm Khoa Ngữ văn triệu tập họp hội đồng khoa học khoa (mở rộng) lấy ý kiến các nhà khoa học về luận văn thạc sĩ của Nhã Thuyên. Nhiều học giả trong buổi họp này bày tỏ quan điểm phải có một ứng xử khoa học với một công trình khoa học [24-25]. 

28/7/2013: Bài viết “Từ một bản luận văn” của nhà phê bình Phạm Xuân Nguyên trên Báo điện tử Pháp luật Thành phố Hồ Chí Minh bị rút xuống [26-27] sau vài giờ.

31/7/2013: Nhà văn Nguyên Ngọc cho rằng vụ lên án luận văn Nhã Thuyên đã đưa chúng ta “về thời kỳ đồ đá, nhất là trong lĩnh vực tư tưởng văn hóa” [28].

1/8/2013: Lê Tuấn Huy phân tích tính pháp lý của việc thẩm định luận văn Nhã Thuyên [29]. 

12/2/2014: Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định thành lập Hội đồng thẩm định luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn của Đỗ Thị Thoan, nhưng không một ai, kể cả Nhã Thuyên, người hướng dẫn và hội đồng chấm luận văn được biết về quyết định này. Hội đồng thẩm định gồm PGS.TS Đoàn Đức Phương, GS. Đặng Thanh Lê, PGS.TS Phan Trọng Thưởng, PGS.TS Lê Quang Hưng và PGS.TS Phạm Duy Đức. Không thành viên nào trong Hội đồng thẩm định có công trình nghiên cứu về văn học Việt Nam hiện đại [30-31].

5/3/2014: Báo Kinh doanh và Pháp luật đăng Đơn kêu cứu của PGS. TS. Nguyễn Thị Bình về việc bà bị Trường Đại học Sư phạm Hà Nội buộc nghỉ hưu sớm 5 năm. Bài báo nhanh chóng bị gỡ xuống [32]. 

11/3/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định số 667/QĐ-ĐHSPHN về việc không công nhận luận văn thạc sĩ khoa học ngữ văn của Đỗ Thị Thoan [33]. 

14/3/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội ra quyết định số 708/QĐ-ĐHSPHN về việc thu hồi bằng thạc sĩ khoa học ngữ văn của Đỗ Thị Thoan [33].

17/3/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội gửi giấy mời Nhã Thuyên đến nhận hồ sơ và các giấy tờ liên quan đến việc thu hồi bằng thạc sĩ [33]. 

17/3/2014: Facebook của Nhị Linh đăng một tấm ảnh được cho là trích từ công văn của Ban Tuyên giáo, trong đó có đoạn chỉ thị “báo chí không đăng tải ý kiến, đơn thư trái chiều” liên quan đến luận văn Nhã Thuyên [34]. 

21/3/2014: Trong một lần trả lời phỏng vấn hiếm hoi, Nhã Thuyên nói trên RFA: “… khi mà câu chuyện đã không còn là câu chuyện cá nhân mình, cũng không phải là câu chuyện của cá nhân của cô Nguyễn Thị Bình mà nó trở thành một vấn đề chung để mọi người cùng nghĩ và cùng thảo luận” [35].

24/3/2014: BBC đăng bài phỏng vấn Phạm Xuân Nguyên cho rằng vụ việc đã bị “chính trị hóa” [36].

27/3/2014: Nhã Thuyên đến Trường Đại học Sư phạm Hà Nội làm việc theo giấy mời nhưng không nhận các quyết định không công nhận luận văn và thu hồi bằng thạc sĩ vì “cho rằng hai quyết định này hoàn toàn thiếu cơ sở pháp lý và minh bạch về các thông tin: như hội đồng chấm, các biên bản nhận xét của hội đồng, v.v” [33]. 

28/3/2013: PGS. TS. Ngô Văn Giá đăng bài “Luận văn, phê bình luận văn và…” trên trang Facebook cá nhân vì “thấy có trách nhiệm phải nói đôi lời” [37].

30/3/2014: Nhã Thuyên công bố toàn bộ hồ sơ bảo vệ luận văn năm 2010 [38]. 

30/3/2014: Toàn văn luận văn của Nhã Thuyên được công bố trên trang Kệ Sách eBook [39]. 

1/4/2014: Nhã Thuyên gửi đơn đến Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội đề nghị được minh bạch thông tin và tham gia trao đổi, đối chất giữa các hội đồng với tác giả luận văn và người hướng dẫn [40].  

8/4/2014: Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trả lời Đơn đề nghị của Nhã Thuyên: “Việc thẩm định luận văn thạc sĩ dẫn tới các quyết định không công nhận luận văn và thu hồi bằng đã được Nhà trường thực hiện đúng quy trình” [40].

8/4/2014: Văn Việt đăng bài phỏng vấn PGS. TS. Nguyễn Thị Bình, PGS. TS. Ngô Văn Giá và TS. Chu Văn Sơn [41]. 

15/4/2014: Báo Nhân dân điện tử đăng bài viết phê phán những người “lên tiếng bênh vực tác giả luận văn và bác bỏ kết luận của Hội đồng thẩm định” [42]. 

18/4/2014: Các giáo sư Hồ Tú Bảo, Ngô Bảo Châu, Trần Văn Thọ, Cao Huy Thuần gửi thư đến Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội “bày tỏ mối quan tâm” “đối với hiện tình của nền học thuật đại học tại Việt Nam qua sự cố” liên quan đến luận văn Nhã Thuyên [43]. 

19/4/2014: 70 người hoạt động trong lĩnh vực giáo dục và nghiên cứu khoa học ở Việt Nam gửi Bản phản đối và yêu cầu đến Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội yêu cầu hủy bỏ các quyết định 667/QĐ-ĐHSPHN và 708/QĐ-ĐHSPHN [44].

19/4/2014: Trang vanvn.net của Hội nhà văn Việt Nam đăng toàn văn bản nhận xét phản biện của PGS.TS. Phan Trọng Thưởng tại Hội đồng thẩm định luận văn do Trường Đại học Sư phạm Hà Nội thành lập, quy kết luận văn Nhã Thuyên là một luận văn “chính trị đội lốt văn chương”. Đây là lần đầu tiên sự tồn tại của Hội đồng thẩm định được xác thực một cách chính thức [45].

20/4/2014: Nhã Thuyên đề nghị ông Phan Trọng Thưởng làm rõ cáo buộc luận văn của cô là “chính trị đội lốt văn chương” [46]. 

20/4/2014: 40 người quan tâm đến giáo dục Việt Nam, đa số ở nước ngoài, gửi Thư ngỏ Về sự vi phạm tự do học thuật trong vụ thu hồi bằng thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan đến Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam “yêu cầu Trường Đại học Sư phạm Hà Nội hủy bỏ quyết định thu hồi bằng Thạc sĩ của bà Đỗ Thị Thoan và công bố các hồ sơ liên quan” và “yêu cầu nhà nước mở cuộc điều tra về những lý do đã dẫn đến vụ tái thẩm định, và thiết lập những biện pháp để ngăn ngừa tái diễn những sự can thiệp một cách lén lút, bất hợp pháp vào các quy định có hiệu lực pháp lý” [47].

21-24/4/2014: Vũ Thị Phương Anh có loạt bài phân tích bản nhận xét phản biện của Phan Trọng Thưởng [48-53]. 

22/4/2014: Văn Việt đăng bài “Những câu hỏi chưa được trả lời” của Nguyễn Thị Từ Huy đặt ra nhiều câu hỏi về vụ việc [54]. 

22/4/2014: Tạp chí Văn hóa Nghệ An đăng bài “Luận văn Đỗ Thị Thoan và những lời bàn” của Nguyễn Xuân Đức cho rằng “…[việc nghiên cứu hiện tượng văn họa ngoài lề/ngoại biên] không phải và không thể là công việc của học sinh được thể hiện qua một bài thi” [55].

23/4/2014: Văn Việt đăng bài phỏng vấn PGS. Nguyễn Văn Long và TS. Nguyễn Phượng, 2 thành viên trong hội đồng chấm luận văn Nhã Thuyên [56]. 

23/4/2014: Văn Việt đăng bài của Hà Nhân phân tích các nghịch lý trong bản nhận xét của Phan Trọng Thưởng [57]. 

23/4/2014: Văn Việt đăng bài “Thẩm định bài thẩm định của Phan Trọng Thưởng” của Đặng Thái Minh phê bình bản nhận xét của Phan Trọng Thưởng [58].

23/4/2014: Tiền Vệ đăng bài “Một bản nhận xét không có tính khoa học” của Nguyễn Thị Từ Huy kết luận bản nhận xét phản biện của Phan Trọng Thưởng “không phải là một bản nhận xét khoa học” [59]. 


28/4/2014: Một đoàn 5 người gồm nhà giáo Phạm Toàn, TS. Đặng Thị Hảo (Viện Văn học), TS. Nguyễn Xuân Diện (Viện Hàn lâm khoa học Việt Nam), luật gia Nguyễn Kim Môn và họa sĩ Mai Xuân Dũng thay mặt những người ký tên đến Trường Đại học Sư phạm Hà Nội trao Bản phản đối và yêu cầu và Thư ngỏ [60].

28/4/2014: RFI phỏng vấn giáo sư Phạm Xuân Yêm, một trong những người tham gia soạn thảo và ký tên đầu tiên vào Thư ngỏ, về tự do học thuật qua vụ Đỗ Thị Thoan. Giáo sư Yêm cho rằng việc thu hồi bằng thạc sĩ của Nhã Thuyên đã "vi phạm nghiêm trọng tinh thần tự do học thuật, sự vụ đã bị chính trị hóa theo quan điểm của nhà cầm quyền" và "Nhã Thuyên đâu cần bằng thạc sĩ của Đại học Sư phạm Hà Nội, nhưng nếu trả lại văn bằng cho Nhã Thuyên thì danh tiếng của trường tăng lên gấp bội trong lòng dân tộc vì đã dám phá rào" [61].

2/5/2014: Ủy ban các nhà Khoa học Quan tâm (Committee of Concerned Scientists) gửi thư cho Hiệu trưởng Trường Đại học Sư phạm Hà Nội và Bộ trưởng Bộ giáo dục và Đào tạo đề nghị đáp ứng yêu cầu rút lại quyết định thu hồi bằng thạc sĩ của Nhã Thuyên [62-63].