Xây dựng hải quân nhân dân Việt Nam vững mạnh theo tư tưởng Hồ Chí Minh - Phó Đô đốc NGUYỄN VĂN TÌNH
Cập nhật lúc 14h20 - Ngày 25/09/2015
Phó Đô đốc NGUYỄN VĂN TÌNH*
Việt
Nam là một quốc gia biển, vì thế biển đảo là một phần của lịch sử hàng
nghìn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Nền văn minh lúa nước
cũng như những thành quả của cuộc khai thác, sử dụng tài nguyên biển,
truyền thống đánh giặc ngoại xâm và những chiến công trên chiến trường
sông biển đã tác động, ảnh hưởng sâu sắc trong việc hình thành tư tưởng
của Hồ Chí Minh. Trong hệ thống quan điểm của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh
quan tâm khá nhiều đến biển đảo, cũng như xây dựng lực lượng chuyên
trách bảo vệ biển đảo.
Một là, Chủ tịch Hồ Chí Minh sớm nhận thức rõ vai trò của biển Việt Nam trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước.
Từ
năm 1910, với tư cách là thầy giáo dạy học ở trường Dục Thanh (Phan
Thiết), cùng với việc phổ biến những bài ca yêu nước cho học trò của
mình, tranh thủ những giờ ngoại khóa, Nguyễn Tất Thành thường đưa học
sinh đến thăm những bãi biển đẹp (như bãi biển Thương Chánh) với một gợi
cảm sâu xa: biển của ta giàu đẹp, nhưng tại sao người dân Việt Nam vẫn
chịu cảnh lầm than. Những gợi cảm ẩn chứa của Người đã làm thức dậy lòng
yêu nước, tinh thần quật cường dân tộc trong lòng mỗi học trò của mình.
Khi
được đọc, được nghe bằng tiếng Pháp những từ “Tự do, bình đẳng, bác
ái”, Nguyễn Tất Thành nung nấu quyết tâm tìm mọi cách ra nước ngoài,
sang Pháp và các nước phương Tây để xem ở đó có những gì ẩn chứa đằng
sau những lời hoa mỹ ấy. Ra đi bằng cách nào, bằng con đường nào? Người
đã suy nghĩ rất nhiều và cuối cùng quyết định ra nước ngoài bằng đường
biển, trên một chiếc tàu buôn của Pháp. Quyết định ra đi tìm đường cứu
nước cho dân tộc bằng đường biển là quyết định đúng đắn, bởi Người nhận
thức sâu sắc rằng, đây là con đường nhanh nhất có thể đến với các nền
văn minh thế giới, nhất là nước Pháp.
Thực
dân Pháp bằng con đường biển xâm chiếm thuộc địa, nô dịch các nước,
trong đó có Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh tìm đường cứu nước thoát khỏi
ách nô lệ của thực dân Pháp cũng bằng con đường biển, nhưng với chiều
ngược lại, để đi đến nơi xuất phát của những đội quân viễn chinh đi xâm
lược, được che đậy bởi luận điệu lừa bịp “khai hoá văn minh” cho nước
khác. Hơn 30 năm rời xa Tổ quốc, trên nhiều con tàu, bằng đường biển,
Người đã đặt chân đến nhiều châu lục trên thế giới. Trong suốt chặng
đường hành trình đó, Người đã rút ra nhiều kết luận quan trọng về “những
gì ẩn chứa sau nền văn minh tư sản”, nhưng đồng thời cũng khẳng định
biển và đại dương luôn gắn liền với sự phát triển của văn minh nhân
loại.
Với
lòng yêu nước thiết tha và đi đến nhiều nước bằng đường biển, Hồ Chí
Minh từng bước hiểu nền văn minh của nhân loại, dần đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, đến với con đường cứu nước, giải phóng dân tộc
đúng đắn. Khi về Trung Quốc, mở các lớp huấn luyện, đào tạo thế hệ những
người cộng sản Việt Nam đầu tiên, Người cũng chỉ đạo đưa người sang
Trung Quốc bằng cả đường bộ và đường biển. Sau Cách mạng Tháng Tám thành
công, trên cương vị là Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, với tầm
nhìn chiến lược, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ đạo xây dựng lực lượng vũ
trang nhân dân có đầy đủ thành phần, lực lượng. Trong cuộc kháng chiến
chống thực dân Pháp kéo dài chín năm gian khổ, Người quan tâm chỉ đạo
các lực lượng vũ trang tiến công địch trên chiến trường sông biển và mở
các con đường vận tải chi viện cho các chiến trường bằng đường biển, lập
nên những chiến công trên dòng sông Lô (1947), sau đó là chiến dịch
Biên Giới (1950)... Trước đó, sự ra đời của các đội vận tải biển gắn
liền với những chiến công trên chiến trường sông biển miền Trung và Nam
Bộ là minh chứng cụ thể. Năm 1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trực tiếp
giao nhiệm vụ cho một bộ phận cán bộ miền Nam trong đoàn quân Nam tiến
chở vũ khí vào Bến Tre bằng thuyền. Chuyến đi đó thành công, là cơ sở
quan trọng để hình thành chủ trương mở con đường Hồ Chí Minh huyền thoại
trên biển Đông trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước sau này. Tư
tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của biển thể hiện rõ nét nhất thông qua lời
di huấn khi Người về thăm bộ đội Hải quân năm 1961. Nói chuyện với cán
bộ, chiến sĩ, Người nhấn mạnh: “Ngày trước ta chỉ có đêm và rừng. Ngày
nay ta có ngày, có trời, có biển. Bờ biển ta dài, tươi đẹp, ta phải
biết giữ gìn lấy nó”1. Luận điểm này là sự khái quát rất
ngắn gọn và dễ hiểu về lịch sử truyền thống, khái niệm mới về Tổ quốc,
cũng như về tiềm năng của biển nước ta và trách nhiệm của mọi thế hệ
trong việc khai thác, quản lý, bảo vệ biển. Khi đất nước đang chìm trong
đêm dài nô lệ, chúng ta dựa vào địa hình hiểm trở của núi sông, dựa vào
đêm để đánh giặc. Khi dân tộc được giải phóng, Tổ quốc theo tư tưởng Hồ
Chí Minh còn là vùng biển rộng lớn với nhiều tiềm năng cần được khai
thác để phục vụ cho công cuộc xây dựng xã hội mới. Đây cũng là cơ sở để
Đảng ta định ra nhiều chủ trương, giải pháp phát triển kinh tế biển, gắn
với bảo đảm quốc phòng - an ninh, nhất là hình thành Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020.
Hai là, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam.
Với
quan điểm đúng đắn về xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, Chủ tịch Hồ
Chí Minh chủ trương xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam phải có đầy đủ
quân chủng, binh chủng. Từ chủ trương đó, ngay sau khi miền Bắc được hòa
bình (năm 1954), việc xây dựng lực lượng chuyên trách để bảo vệ vùng
biển mới giải phóng từ Móng Cái đến vĩ tuyến 17 là vấn đề hết sức cần
thiết. Đó cũng là cơ sở cho việc ra đời Cục Phòng thủ bờ biển - tiền
thân của Hải quân nhân dân Việt Nam sau này.
Vừa
là lãnh tụ thiên tài, lại là người thủy thủ đầu tiên, với nhiều kinh
nghiệm khi còn là thủy thủ trên những chiếc tàu buôn có mặt hầu hết các
đại dương, đối với Hải quân, Bác ân cần dạy bảo những điều cụ thể, từ
xây dựng lực lượng, huấn luyện cách đánh, cũng như các thao tác của mỗi
thành viên trên tàu.
Trong
giai đoạn 10 năm xây dựng hải quân trong thời bình (1955-1964), Người
đã dành thời gian đến thăm, động viên và giao nhiệm vụ nhằm xây dựng và
phát triển lực lượng Hải quân nhân dân đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ
chủ quyền vùng biển, hải đảo, thềm lục địa thiêng liêng của Tổ quốc.
Hiểu Hải quân là lực lượng non trẻ, lại đảm nhiệm trọng trách nặng nề,
Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ, phải trên cơ sở học tập kinh nghiệm chiến
đấu hiện đại, đồng thời kế thừa và vận dụng sáng tạo nghệ thuật quân sự
Việt Nam, truyền thống đánh giặc của tổ tiên, phải thể hiện tính đặc thù
của Hải quân Việt Nam cả về tổ chức biên chế, vũ khí trang bị kỹ thuật
cũng như cách đánh.
Lần
về thăm bộ đội Hải quân đầu tiên (tháng 3-1959), khi đến thăm cán bộ,
chiến sĩ biên đội những con tàu sắt đầu tiên do Trung Quốc viện trợ, Bác
căn dặn: Các chú xây dựng Hải quân thì phải học tập các nước anh em là
đúng. Nhưng không phải học như thế nào thì làm y nguyên như thế, mà phải
vận dụng vào điều kiện nước ta sao cho thích hợp, kể cả việc dùng chữ.
Cũng lần ấy, Bác đã gợi ý thay đổi cách gọi của một số ngành, vị trí lên
tàu rất Việt Nam. Ví dụ như: “buồng hàng hải” thành “buồng lái”; “buồng
thủy vũ” (tức là nơi để vũ khí dưới nước) thành “buồng vũ khí dưới
nước”. Bác còn dạy cho chiến sĩ cách tết dây mồi sao cho đẹp, ném đi
được xa. Đáng ghi nhớ nhất là lần Người từng đội mũ hải quân, tự tay cầm
lái tàu “Hải Lâm” (tàu du lịch của Bác giao cho Hải quân quản lý) đưa
Titốp - anh hùng phi công vũ trụ Liên Xô thăm Vịnh Hạ Long là
một minh chứng sống động về những suy nghĩ, trăn trở, sự gắn bó, ân cần
của vị lãnh tụ với sự trưởng thành của Hải quân nhân dân Việt Nam. Trong
điều kiện miền Bắc còn nhiều khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương
xây dựng Quân chủng Hải quân phù hợp với tình hình phát triển kinh tế và
tiềm lực của đất nước, điều kiện môi trường, chiến trường sông biển
Việt Nam. Người nói: Hải quân Việt Nam phải học tập kinh nghiệm chiến
đấu hiện đại, nhưng không được quên truyền thống đánh giặc của tổ tiên.
Phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam của dân tộc Việt Nam chứ không
phải hải quân của thế giới... Người đồng thời chỉ rõ con đường xây dựng
Hải quân Việt Nam phải là con đường nâng cao ý chí độc lập tự chủ, tự
lực, tự cường. Muốn vậy, phải coi trọng công tác lãnh đạo, chỉ huy; chăm
lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần, nâng cao chất lượng kỹ thuật
tàu. Thường xuyên rèn luyện toàn diện, phấn đấu không ngừng tiến bộ về
mọi mặt để xây dựng hải quân mau chóng trưởng thành. Đến thăm những con
tàu, đơn vị đảo, Người nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ hải quân phải không
ngừng trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng, lòng yêu quê hương, đất
nước. Điều đặc biệt, Người chỉ rõ yêu quê hương, đất nước đối với cán
bộ, chiến sĩ hải quân là phải bằng những điều cụ thể. Đó là phải yêu đảo
như nhà mình, phải chịu khó cải tạo, xây dựng đảo thành những mảnh đất
vừa giàu, vừa đẹp, vừa có lợi cho mình, vừa ích cho đất nước.
Ba
là, cùng với tư tưởng về xây dựng lực lượng hải quân non trẻ, Chủ tịch
Hồ Chí Minh luôn theo dõi, chỉ đạo sát sao mỗi bước trưởng thành, lớn
mạnh của Hải quân nhân dân Việt Nam.
Khi Cục phòng thủ bờ biển mới thành lập, hiểu rõ vị trí quan
trọng của vùng biển miền Bắc trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội,
trong mối quan hệ với cách mạng thế giới cũng như cách mạng miền Nam,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm theo sát mỗi bước trưởng thành của
Hải quân nhân dân Việt Nam. Khi các lực lượng của Quân chủng Hải quân
bắt đầu bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đánh đuổi tàu khu
trục Ma Đốc, bắn rơi máy bay, bắt giặc lái Mỹ đầu tiên, lập nên chiến
thắng trận đầu ngày 2 và ngày 5-8-1964, tiếp đó là những trận
chiến đấu không cân sức cùng quân và dân miền Bắc chống chiến tranh phá
hoại bằng không quân và hải quân của Mỹ, Quân chủng lập nhiều chiến
công, bắn chìm và bắn bị thương hàng chục tàu thuyền, máy bay Mỹ. Bác đã
gửi thư khen ngợi Hải quân đã anh dũng chiến đấu, tích cực diệt địch,
bắn rơi máy bay, đánh đuổi tàu chiến Mỹ, đoàn kết lập công, bảo vệ vùng
trời, vùng biển của Tổ quốc. Đó là lời khen, sự động viên kịp thời, tiếp
thêm sức mạnh cho cán bộ, chiến sĩ tiếp tục nêu cao ý chí quyết tâm dám
đánh, quyết đánh và biết đánh thắng Mỹ. Với tầm nhìn chiến lược, với
việc vận dụng kinh nghiệm truyền thống đánh giặc của dân tộc, Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh chủ trương chi viện cho chiến trường miền Nam bằng
hai con đường trên bộ và trên biển. Theo chủ trương đó, con đường biển
huyền thoại được khai thông từ cuối những năm 50, đầu những năm 60 của
thế kỷ XX. Theo dõi sự vận hành của tuyến đường biển, Đảng ta và Chủ
tịch Hồ Chí Minh luôn chỉ đạo sát sao, từ việc xây dựng lực lượng, xác
định tuyến đi, phương thức vận chuyển sao cho hiệu quả. Thực hiện sự chỉ
đạo đúng đắn của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh, trực tiếp là Quân ủy Trung
ương; với khẩu hiệu “Vì miền Nam ruột thịt”, cán bộ, chiến sĩ hải quân
đã vượt qua hàng chục cơn bão lớn, hàng trăm cuộc vây ráp của kẻ thù,
nghiên cứu áp dụng nhiều phương thức vận chuyển độc đáo. Trong 14 năm
(1961-1975), bộ đội hải quân đã thực hiện vận chuyển hàng trăm ngàn tấn
vũ khí, hàng hóa cho chiến trường miền Nam, chủ yếu là đến những nơi mà
con đường vận chuyển chiến lược Trường Sơn chưa vươn tới, góp phần quan
trọng vào sự nghiệp giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Nhằm
cắt đứt mối liên hệ giữa miền Bắc xã hội chủ nghĩa với cách mạng thế
giới, hậu phương lớn với tiền tuyến lớn miền Nam, đế quốc Mỹ đã dùng
nhiều thủ đoạn nham hiểm bao vây, phong tỏa miền Bắc. Thực hiện quyết
tâm của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị chính trị đặc biệt tháng
8-1964, Hải quân nhân dân Việt Nam đã vượt qua mọi hiểm nguy, đóng vai
trò là lực lượng nòng cốt, nghiên cứu sáng chế ra nhiều phương tiện, khí
tài và tổ chức rà phá hàng ngàn quả thủy lôi, bom từ trường của đế quốc
Mỹ, nhanh chóng khai thông các cửa sông, cửa biển, luồng lạch, bảo đảm
giao thông thông suốt, bảo đảm sự chi viện kịp thời cho chiến trường
miền Nam. Theo dõi hoạt động rà phá của hải quân, và khi biết được chúng
ta đã tháo gỡ được quả thủy lôi đầu tiên tại Cửa Hội, Người vừa động
viên, vừa nhắc nhở cán bộ, chiến sĩ hải quân phải thật sự khôn khéo,
tránh mọi tổn thất hy sinh.
Kế
thừa truyền thống đánh giặc của tổ tiên, tìm cách đánh phù hợp với vũ
khí, trang bị, kỹ thuật và con người Việt Nam, với phương châm: lấy nhỏ
đánh lớn, lấy ít địch nhiều; lấy vũ khí nhỏ tinh gọn đánh vũ khí hiện
đại; bí mật, táo bạo, bất ngờ, áp sát, luồn sâu, đánh hiểm, đánh trúng,
trong kháng chiến chống Mỹ, Hải quân nhân dân Việt Nam thành lập lực
lượng đặc công nước. Qua 7 năm liên tục chiến đấu trên chiến trường Cửa
Việt - Đông Hà, đặc công nước đã tổ chức đánh hơn 300 trận, bắn chìm 339 tàu thuyền của Mỹ - ngụy,
phá hủy hàng ngàn tấn phương tiện chiến tranh, góp phần xứng đáng vào
sự nghiệp giải phóng miền Nam. Hơn nửa thế kỷ xây dựng, chiến đấu và
trưởng thành, từ 141 cán bộ, chiến sĩ và 20 chiếc ca nô gỗ đầu tiên, đến
nay Hải quân nhân dân Việt Nam đã phát triển trở thành một quân chủng
tương đối hoàn chỉnh, cơ bản có đủ những binh chủng cần thiết (tàu mặt
nước, tàu ngầm, tên lửa bờ biển, hải quân đánh bộ, đặc công nước, công
binh). Các thế hệ cán bộ chiến sĩ quân chủng hải quân đã đúc kết nên
truyền thống vẻ vang “Chiến đấu anh dũng, mưu trí sáng tạo, làm chủ vùng
biển, quyết chiến quyết thắng”, xây dựng quân chủng thực sự là lực
lượng nòng cốt của sự nghiệp bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo, thềm
lục địa thiêng liêng của Tổ quốc. Thành quả của 52 năm qua bắt nguồn từ
nhiều yếu tố, trong đó yếu tố quyết định là sự lãnh đạo sáng suốt của
Đảng và Bác Hồ kính yêu.
Bốn
là, thấm nhuần tư tưởng Hồ Chí Minh xây dựng lực lượng Hải quân nhân
dân Việt Nam vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Biển
nước ta từ xưa tới nay luôn đóng vai trò quan trọng trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Kinh tế biển đã thực sự trở thành ngành kinh tế
mũi nhọn trong sự nghiệp đổi mới đất nước. Biển còn là không gian chiến
lược đặc biệt quan trọng đối với quốc phòng và an ninh quốc gia. Lịch
sử dựng nước và giữ nước của dân tộc đã cho chúng ta thấy biển luôn là
một hướng tiến công quan trọng của hầu hết các cuộc xâm lược của kẻ thù
bên ngoài, có khi là hướng tiến công chủ yếu.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng đã xác định: phải đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo, gắn với bảo đảm quốc phòng - an
ninh và hợp tác quốc tế, phải xây dựng nước ta trở thành một quốc gia
mạnh về phát triển kinh tế biển trong khu vực. Gần đây, Hội nghị lần thứ
tư Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá X đã bàn và quyết định Chiến lược
biển Việt Nam đến năm 2020, nhằm làm cho nước ta giàu lên từ biển, mạnh
lên từ biển. Những quan điểm, mục tiêu đó phản ánh trung thành mong ước
của Bác Hồ kính yêu “Bờ biển ta dài, tươi đẹp. Ta phải biết giữ gìn lấy
nó”. Tiến ra khơi, khai thác nguồn lợi của biển làm giàu cho đất nước
đang trở thành nhu cầu cấp bách trước mắt và lâu dài. Hướng ra biển để
khai thác và làm chủ biển trở thành vấn đề sống còn của dân tộc chúng
ta. Trong cuộc hành trình tiến ra biển và làm chủ biển, một trong những
vấn đề hết sức quan trọng là phải xây dựng lực lượng bảo vệ biển thực sự
vững mạnh, đặc biệt là hải quân. Cụ thể là:
Trước hết, phải xây dựng Hải quân nhân dân Việt Nam vững mạnh về chính trị, làm cơ sở để nâng cao sức mạnh tổng hợp của quân chủng. Tiếp
tục bồi dưỡng nâng cao lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội cho cán bộ,
chiến sĩ, xây dựng bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Trong bất kỳ tình huống nào,
Hải quân nhân dân Việt Nam vẫn một lòng tuyệt đối trung thành với Đảng,
với Tổ quốc và nhân dân, luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng,
sẵn sàng chiến đấu, tỉnh táo và kiên quyết đánh bại mọi âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch
trong và ngoài nước. Mỗi con tàu, hòn đảo, đài trạm sẽ trở thành những
pháo đài thép bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ
quốc.
Nhiệm
vụ thường xuyên và có ý nghĩa rất quan trọng hiện nay là phải tiếp tục
nâng cao chất lượng huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, nâng cao và tăng
cường khả năng quản lý, bảo vệ chủ quyền vùng biển, đảo của Tổ quốc. Thực
hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “học tập kinh nghiệm chiến
đấu hiện đại, nhưng không quên truyền thống đánh giặc của tổ tiên”. Thực
hiện huấn luyện bộ đội theo đúng phương châm: cơ bản, thiết thực, vững
chắc, coi trọng huấn luyện đồng bộ, chuyên sâu, sát với thực tế tình
hình, các phương án chiến đấu của các lực lượng tàu, đảo, phòng thủ căn
cứ và đối tượng tác chiến. Tổ chức tốt diễn tập hiệp đồng tác chiến giữa
các lực lượng nhằm nâng cao trình độ cũng như bản lĩnh của cán bộ,
chiến sĩ. Hiện nay, Nhà nước, Bộ Quốc phòng đang tạo ra những điều kiện
tốt nhất để tăng cường huấn luyện cho bộ đội. Đây cũng là cách tốt nhất
để chuẩn bị sẵn sàng đối phó hiệu quả với mọi cuộc chiến tranh xâm lược,
kể cả chiến tranh sử dụng vũ khí công nghệ cao.
Cùng
với huấn luyện, phải từng bước nâng cao năng lực quản lý vùng biển,
tăng cường lực lượng tuần tiễu, trinh sát, theo dõi, nắm chắc tình hình
mặt biển, các hoạt động xâm phạm chủ quyền, gây rối an ninh chính trị,
trật tự, an toàn xã hội trên biển, đảo, nhất là các vùng trọng điểm. Chủ
động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng vũ trang và các địa phương xử
lý kịp thời, chính xác mọi tình huống theo đúng quan điểm đường lối của
Đảng, luật pháp của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và phù hợp
với thông lệ quốc tế.
Cùng
với sự quan tâm đầu tư của Nhà nước, Bộ Quốc phòng, phát huy cao độ ý
chí tự lực, tự cường, tiếp tục hoàn thiện tổ chức biên chế, xây dựng lực
lượng, nâng cao chất lượng các loại vũ khí trang bị kỹ thuật đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới. Để đáp ứng nhiệm vụ
làm nòng cốt trong sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc,
Hải quân nhân dân Việt Nam cần được kiện toàn tổ chức lực lượng theo
hướng tinh gọn, mạnh, linh hoạt, cơ động nhanh, có sức chiến đấu cao,
coi trọng tính hợp lý, đồng bộ giữa các lực lượng thường trực và lực
lượng dự bị động viên, lực lượng chiến đấu với cơ quan phục vụ. Xây dựng
lực lượng phù hợp với điều kiện hiện nay, đồng thời từng bước đáp ứng
cho chiến tranh trong tương lai nếu xảy ra. Ưu tiên xây dựng đối với các
lực lượng làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, lực lượng bảo vệ mục tiêu
trọng điểm trên biển, đảo và thềm lục địa. Bảo đảm cho các lực lượng
trong quân chủng có thể tác chiến độc lập, liên tục dài ngày ở vùng biển
gần cũng như vùng biển xa thắng lợi.
Là
một quân chủng chiến đấu bằng lực lượng binh chủng hợp thành và phương
tiện kỹ thuật hiện đại, cùng với đầu tư phù hợp để mua sắm trang bị,
đóng mới tàu thuyền, xây dựng hạ tầng cơ sở, cần phát huy ý chí tự lực,
tự cường, thực hiện tốt Cuộc vận động “Quản lý, khai thác vũ khí trang
bị kỹ thuật tốt, bền, an toàn, tiết kiệm và an toàn giao thông”. Duy trì
tốt hoạt động của vũ khí, trang bị kỹ thuật hiện có, đồng thời nắm bắt
các thành tựu khoa học - công nghệ mới nhất để nghiên cứu cải
tiến, sáng chế, góp phần đổi mới trang thiết bị, cơ sở hậu cần, kỹ thuật
theo hướng ngày càng hiện đại, đáp ứng ngày càng đầy đủ nhiệm vụ xây
dựng và sẵn sàng chiến đấu của Quân chủng Hải quân.
Để
đánh thắng kẻ thù tiến công xâm lược nước ta từ hướng biển phải phối
hợp hiệp đồng chặt chẽ với các lực lượng, ngay trong thời bình phải chú
trọng xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân
trên vùng biển đảo vững chắc, trong đó Hải quân nhân dân Việt Nam là lực
lượng nòng cốt. Đây là một trong những nội dung quan
trọng trong quá trình triển khai chương trình hành động thực hiện Nghị
quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ tám khoá IX, Chiến
lược biển Việt Nam đến năm 2020. Để hoàn thành tốt, một mặt phải nâng
cao chất lượng, hiệu quả phối hợp tuyên truyền về chủ quyền vùng biển,
đảo của Tổ quốc trong các tầng lớp nhân dân, nhằm nâng cao nhận thức về
chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ quốc gia trên các vùng biển, đảo và trách
nhiệm công dân trong việc bảo vệ, khai thác tài nguyên vùng biển đảo
nước ta. Xây dựng và nâng cao chất lượng huấn luyện, quản lý lực lượng
tự vệ biển, lực lượng dự bị động viên có cơ cấu và số lượng hợp lý. Chủ
động hiệp đồng chặt chẽ giữa hải quân với các lực lượng vũ trang, các
lực lượng quản lý, bảo vệ và khai thác tài nguyên trên biển, đảo, trong
đó chú trọng luyện tập các phương án sát với tình huống của chiến tranh.
Quán triệt và để thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ X của Đảng, Hải quân nhân dân Việt Nam phải tham gia tích
cực vào quá trình phát triển kinh tế - xã hội biển, đảo. Đặc
biệt là phát huy năng lực hiện có, tận dụng tối đa thế mạnh của các
doanh nghiệp vào những ngành kinh tế biển. Chủ động hướng dẫn, hỗ trợ
ngư dân làm ăn, sinh sống trên các vùng biển xa, tổ chức hiệu quả việc
cứu hộ, cứu nạn, khắc phục hậu quả thiên tai. Đẩy mạnh các hoạt động đối
ngoại quân sự, nhất là với hải quân các nước trong khu vực, hướng tới
xây dựng vùng biển hòa bình và ổn định.
Để
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ, vấn đề quan trọng có ý nghĩa quyết
định là phải tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tiếp tục xây dựng Đảng bộ
trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện và sức chiến
đấu của các tổ chức đảng. Thực hiện tốt Cuộc vận động Xây dựng,
chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2) khoá VIII,
Nghị quyết Trung ương 3 khoá X, đẩy mạnh thực hiện Cuộc vận động “Học
tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”. Xây dựng mỗi chi bộ
đảng, mỗi cán bộ, đảng viên trong quân chủng phải thực sự là những tấm
gương tiêu biểu về phẩm chất đạo đức, bản lĩnh chính trị và năng lực
hành động. Chú trọng xây dựng chi bộ tàu, đảo, nhà giàn đủ sức lãnh đạo
đơn vị hoạt động độc lập, kể cả tác chiến xảy ra trên biển, đảo, hoàn
thành nhiệm vụ trong mọi tình huống.
Nguồn: Bộ Quốc phòng - Viện Lịch sử quân sự Việt Nam, Viện Khoa học xã hội và nhân văn quân sự: Chủ tịch Hồ Chủ Minh với sự nghiệp xây dựng quân đội,
Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2007, tr.591-605.
(http://dangcongsan.vn/tu-lieu-van-kien/tu-lieu-ve-dang/sach-chinh-tri/books-1924201511165546/index-092420151112164627.html)
–––––––––––––––
* Nguyên Ủy viên Trung ương Đảng, nguyên Chính ủy Quân chủng Hải quân.
1. Dẫn theo: Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam, Nxb. Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2005, tr.80