Showing posts with label Sài Gòn xưa. Show all posts
Showing posts with label Sài Gòn xưa. Show all posts

Thursday, 1 November 2018

Đại lộ Bonard cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 – Phần 1 (Nguyễn Đức Hiệp - Hiệp's Blog)

Đại lộ Bonard cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20 – Phần 1

 (https://hiepblog.wordpress.com/2015/10/05/dai-lo-bonard-cuoi-the-ky-19-den-giua-the-ky-20-phan-1/)

Đại lộ Lê Lợi ở trung tâm Saigon thời Pháp thuộc có tên gọi là Boulevard Bonard hoặc Boulevard Bonnard. Trước tiên tên gọi là Boulevard Bonard hay Boulevard Bonnard cái nào là đúng?. Theo quyển sách “Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon” (3) do hội đồng thành phố xuất bản năm 1917 thì tên chính thức là Boulevard Bonard chứ không phải Boulevard Bonnard. Đại lộ được đặt tên Bonard, tên của vị chuẩn đề đốc (contre-amiral) sau là phó đề đốc (vice-amiral) hải quân Pháp. Khi đảm đang chức vụ thống đốc Nam Kỳ, chính ông là người chỉ đinh cho viên sĩ quan công binh tên là Coffyn qui hoạch thành phố Saigon cho tương lai và ra lệnh khởi công xây dựng kinh đào “canal de ceinture” phòng thủ.
Ở Chợ Lớn còn có kênh Bonard (rạch Bãi Sậy). Ông Coffyn đã cho đào kinh gọi là kinh Coffyn nối kinh chợ Vãi với rạch Cầu sấu và rạch Bến Nghé, hai bên bờ kinh là đường Bonard. Sau này khi lấp kinh rạch, kinh Coffyn trở thành đại lộ Bonard và rạch Cầu Sấu trở thành “Boulevard de la Somme” (đường Hàm Nghi ngày nay). Chính người Pháp trong số họ cũng có nhiều người nhầm lẫn. Các niên giám, sách vỡ trong giai đoạn cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20 và ngay cả sau này cũng gọi sai là Boulevard Bonnard. Có lẽ sự lầm lẫn này là do có một vị giáo sĩ người Pháp tử đạo do hành hình năm 1852 ở Bắc kỳ trong thời vua Tự Đức cấm đạo có tên là Jean-Louis Bonnard, trước khi liên quân Pháp-Tây Ban Nha đánh Saigon năm 1860.
Trong bài này chúng tôi dùng từ đúng nguyên thủy là Đại lộ Bonard (Boulevard Bonard) nhưng một số các đoạn trích từ niên giám, báo chí… từ Boulevard Bonnard nhầm lẫn vẫn được giữ nguyên theo qui ước trích dẫn.
Vào cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, đại lộ Bonard bắt đầu từ ngã ba đại lộ Bonard với đường Pasteur (trước đó đựợc gọi là “rue de l’Hôpital” từ bến Bạch Đằng đến nhà thương quân đội, sau đổi tên là đường Đồn Đất và ngày nay là đường Thái Văn Lung) đến cuối đại lộ ở góc với đường Mac-Mahon (nay là Nam Kỳ Khởi Nghĩa) tại số 44bis Boulevard Bonard. Lúc này chưa có Nhà hát Thành phố và Chợ Bến Thành và cũng chưa có đường Trần Hưng Đạo. Đường đi Chợ Lớn là từ đường La Grandière (Lý Tự Trọng) đi Route Haute (đường trên tức Nguyễn Trãi sau nay). Saigon chỉ giới hạn đến đường rue Boresserue de Thuan Kieu (Cách Mạng tháng 8). Trên bản đồ 1897, ngoài phạm vi Saigon ta còn thấy hai bên đường trên (route haute) và vài nơi trên “rue de Thuan Kieu” (nay là Cách mạng tháng 8) là các nghĩa trang của cánh đồng mã (plaine des tombeaux).
Đại lộ Bonard lúc này không quan trọng bằng hai con đường từ sông Saigon lên trung tâm thành phố là đường Catinat và đại lộ Charner. Chỉ sau khi nhà hát thành phố và Chợ Bến Thành mới (chợ Mới) sau này được thành lập vào năm 1914, ga xe lửa Saigon-Mỹ Tho được dời từ đầu đường Hàm Nghi gần bến Bạch Đằng đến vị trí ở quảng trường Cuniac (quảng trường Quách Thị Trang) gần chợ Mới và xe hơi và đường bô bắt đầu phát triển thay thế cho vận chuyển, chuyên chở hàng hóa trên kinh rạch vào khoảng thập niên 1920 song song với sự thành lập Boulevard Galliéni (đại lộ Trần Hưng Đạo), con đường huyết mạch nối Saigon với Chợ Lớn thi đại lộ Bonard bắt đầu có lợi thế và chiếm ưu thế về kinh tế so với đường Catiant và đại lộ Charner. Từ đó đại lộ Bonard (Lê Lợi) là con đường được coi như là trung tâm thương mại của thành phố Saigon.
Cũng như hai con đường Catinat (Đồng Khởi) và Charner (Nguyễn Huệ), một số các nhân vật để lại dấu ấn trên đại lộ Bonard, trong đó có bác sĩ Theodose Dejean de la Bâtie, Hua Bon Hoa, Châu Văn Liêm, Nguyễn Phong Cảnh, Nguyễn Đình Khánh (Khánh Ký), Cazeau, Bernard…cho ta một bối cảnh kinh tế, xã hội của con đường này trong lịch sử gắn liền với ký ức của người Saigon.
bonard1
Hình 1 – Bản đồ Saigon 1867 – Giới hạn ỏ phía bắc thành Saigon (citadelle) là cánh đồng mả (plaine de tombeau), ở phía tây là route de Thuan Kieu (nay là Cách mạng tháng 8) và phía tây của trung tâm thành phố gần rạch Bến Nghé là đường Rue de l’Imperatrice (Nam Kỳ khởi nghĩa ngày nay). Đường Bonard chủ yếu là kinh Bonard nối với kinh Charner (nay là đường Nguyễn Huệ) chảy ra sông Saigon và kinh Olivier chảy ra rạch Bến Nghé. Kinh Bonard chảy dài đến vị trí ngày nay là khu Thái Văn Lung và Nguyễn Siêu trước khi đổ ra sông Saigon.
bonard2
Hình 2 – Bản đồ Saigon 1896 – So với bản đồ năm 1867 thì kinh Bonard và Charner đã được lấp và phía tây gần rạch Bến Nghé (Arroyo Chinois), Saigon nới rộng đến đường Boulevard Projeté (Nguyễn Thái Học ngày nay). Các đường mới là rue Bourdais, rue Nemesis, rue Boresse, rue Lefèbre, rue D’Ayot, rue Hamelin, rue Batavia.
Bắt đầu sau này khoảng năm 1914 sau khi chợ Bến Thành (chợ Mới) được xây và đại lộ Bonard được nối dài thêm đến quảng trường Cuniac thì địa chỉ trên đại lộ Bonard được thay đổi. Đại lộ Bonard không còn từ đường Pasteur (Thái Văn Lung) mà bắt đấu từ quảng trường Francis Garnier hay quảng trường nhà hát cho đến quảng trường Cuniac.
Bây giờ ta hảy tìm hiểu các tòa nhà, địa chỉ, nhân vật cư ngụ hay có liên quan đến đại lộ Bonard và cảnh quan chung của Đại lộ Bonard trước năm 1914 và sau này khi đại lộ Bonard nới rộng đến chợ Mới (Bến Thành ngày nay).
Giai đoạn trước 1914
Theo Niên giám Đông Dương năm 1908, các tòa nhà và địa chỉ trên đại lộ Bonard được ghi chép như sau
Số 3 đại lộ Bonard là của hàng hớt tóc, làm tóc (coiffeur) của ông bà Julien Adolphe. Ở góc đại lộ Bonard và rue Pellerin (đường Pasteur ngày nay) là số 28 nơi cư ngụ của ông bà Samuel Gauthier, Phó trưởng phòng sở công chánh thành phố (sous-chef de bureau des traveaux publics). Số 30 Bonard là nơi ở của bà Hyacinthe Vinson, trưởng ga xe lửa Saigon (direction du chemin de fer) của công ty xe lửa Saigon-Mỹ Tho “Société générale du Chemin de fer de Saïgon à My-Tho”, nơi này cũng là văn phòng hỏa xa và sau này là địa điểm của rạp hát Casino đầu tiên ở Saigon sau khi tòa nhà hỏa xa ở Place de Cuniac (quảng trường Quách Thị Trang ngày nay) được xây. Ga xe lửa Saigon lúc này là nơi đến tấp nập của các thương nhân, học sinh từ các tỉnh miền Tây của Nam Kỳ lục tỉnh qua đường xe lửa huyết mạch Saigon-Mỹ Tho.
Cả dãy nhà từ số 32 đến 36 đại lộ Bonard là nơi cư ngụ của các nhân viên Sở Công Chánh (Traveaux publics) thành phố: 32 ông bà Lebriac phụ tá quản đốc các công trình xây dựng của Sở Công Chánh (commis des Traveaux publics), 34 ông bà Eynard (Camille) giám sát (inspecteur) Sở công chánh và 36 ông bà Etienne, quản đốc các công trình của Sở Công Chánh (conducteur des Traveaux publics).
Số 39 là văn phòng của ông Clamont (Bernard), quyền đại diện pháp lý cho công ty Talayrach (fondé de pouvoir de la maison Talayrach).
Số 41 Bonard là nơi giáo sư Marc-Ange Canavaggio cư ngụ. Ông Marc-Ange Canavaggio, thuộc gia đình Canavaggio gốc đảo Corse có tiếng tăm ở Saigon lúc này. Ông có bằng luật, được bổ nhiệm giáo sư tạm thời vào năm 1906 ở Sở Giáo dục Nam kỳ (Service de l’Enseignement en Cochinchine).  Một người khác trong gia đình Canavaggio là ông Paul Canavaggio (anh của Marc-Ange), chủ nhiều đồn điền canh nông và các cơ sở bán muối ở Nam Kỳ. Paul Canavaggio là hội viên của Hội đồng Quản hạt (Conseil Colonial) cư ngụ ở số 229 đường rue Bourdais (nay là đường Calmette). Ông có giao thiệp rộng với các người Việt. Ông là bạn của nhà văn nhà báo Nguyễn Chánh Sắt, ông Lương Khắc Ninh và ông Gilbert Trần Chánh Chiếu, và đứng ra lập và bảo trợ tờ báo Lục Tỉnh Tân Văn.
Trước đó tháng 2 năm 1901, giấy phép thành lập báo Nông cổ Mín đàm cũng được cấp cho ông François Canavaggio, một nhà kinh doanh rất thành công của gia đình Canavaggio và là chủ một đồn điền ở Xuân Vinh gần Thủ Đức. Ông François Canavaggio, lập gia đình với một phụ nữ người Việt, chính là cha của hai ông Paul và Marc-Ange Canavaggio. Báo Nông cổ Mín đàm (1901-1924) sau này được giao cho ông Gilbert Trần Chánh Chiếu làm chủ bút. Con của ông Gilbert Chiếu là Jean Minh được học bổng vào trường College Chasseloup-Laubat cùng năm 1900 với Jules-François Canavaggio cũng là con của ông François Canavaggio.
Ông François Canavaggio còn là phó chủ tịch Phòng Canh nông Nam Kỳ (Chambre d’Agriculture de Cochinchine) và là hội viên Hội đồng Quản hạt. Nhà của ông ở rue Chasseloup-Laubat (Nguyễn Thị Minh Khai ngày nay) gần trường Chasseloup-Laubat và hiện nay biệt thự này (số 128 Nguyễn Thị Minh Khai) vần còn (10). Năm 1898, trong khu đất canh tác ở gần Thủ Đức của ông François Canavaggio, giám đốc thảo cầm viên Saigon đã trồng thử nghiệm các loại cây gutta-percha mang từ Singapore sang. Do ông Canavaggio là phó chủ tịch Phòng Canh nông Nam Kỳ nên đất của ông Canavaggio được dùng làm nơi thủ nghiệm trồng các loại cây, trong đó có gutta-percha và cây cao su (Hever Brasiliensis) (12), Loại cây gutta-percha có nguồn gốc từ vùng bán đảo Malaysia, cho ra chất nhựa dùng để làm chất cách điện, trám răng, làm đồ trang trí, làm trái đánh banh golf, và làm thuốc trong y học. Đây là loại cây cho nhiều nhựa hơn cây cao su và vào cuối thế kỷ 19 là loại cây có lợi ích kinh tế lớn và được kỷ nghệ ở nước Anh dùng nhiều như trong sản xuất chất cách điện cho đường dây điện tín xuyên biển.
Ông Trần Chánh Chiếu là một nhà yêu nước, ông mong muốn cải cách canh tân xã hội và con người Việt Nam. Ông cùng các người Việt trí thức khác lập ra phong trào Minh Tân ở Nam Kỳ khuyến khích người Việt vào thương trường, công nghệ cạnh tranh với người Hoa, Pháp và Ấn độ qua hội đoàn “Nam Kỳ Minh tân Công nghệ xã”. Ông Gibert Chiếu cũng ủng hộ ngầm phong trào Đông Du của Phan Bội Châu. Vì ủng hộ phong trào Đông Du ông bị nhà cầm quyền theo dõi và vào tháng 10 1908 ông bị bắt qua vụ “L’Affaire Gilbert Chieu”. Do ông François Canavaggio là người có giấy phép xuất bản tờ “Nông cổ Mín đàm” và chịu trách nhiệm nên cũng bị chỉ trích. Toàn quyền Đông Dương, ông Klobukowski tháng 12 1908 đã ra sác lậnh sửa đổi giấy phép xuất bản báo Nông cổ Mín đàm (9). Theo đó ông François Canavaggio phải bảo đảm không có bài báo nào nói xấu bất kỳ góc cạnh nào về nhà cầm quyền Pháp và phải nộp bản thảo báo lên chính quyền Nam Kỳ đại diện bởi phó soái Nam Kỳ là ông Bonhoure để kiểm duyệt 4 ngày trước khi báo được xuất bản. Mổi bài viết bằng tiếng Việt đều phải được dịch ra tiếng Pháp khi nộp và sau khi đã được chấp thuận báo được in thì không một bài báo nào khác được kẹp vào báo đã in.
Số 55 đại lộ Bonard là của ông bà Amedee Courtot, thủ quỉ cho công ty xây dựng Graf Jacques (maison Graf Jacques). Số 57 ông bà Lemaal, nhân viên sở công chánh. Số 59 là nơi ở của ông bà Flambon, kế toán viên cho công ty Graf Jacques (maison Graf Jacques). Công ty Graf Jacques có các xưởng xây dựng cơ khí sản xuất và sửa chữa các tàu, sà lúp ở Khánh Hội. Các xưởng ở Khánh Hội của công ty Graf Jacques sau này cũng làm các tàu hơi nước (bac à vapeur) chở xe và hành khách qua sông Hậu ở bắc Cần Thơ (L’Éveil économique de l’Indochine, 24 novembre 1918). Công ty còn nhập các máy động cơ, cung cấp và thiết lập máy móc dụng cụ cần thiết cho các đồn điền cao su.
Số 61 là nơi cư ngụ của ông bà Brizon, giám đốc một công ty địa ốc (directeur de la sociétée immobilière), số 63 là ông Alphonse Grosjean, nhân viên trắc địa ở sở Địa chính (géomètre au Cadastre) Saigon.
Số 44 là nơi Benjamin Espelette, giáo sư trung học, cư ngụ và cạnh bên ở số 44bis là ông Eugène Dejean, thư ký thuế vụ (commis des Douanes)
(Theo Niên giám Đông Dương 1908, Annuaire General de l’indochine 1908)
Khách sạn Hôtel Continental nằm ở góc đường Catinat và đại lộ Bonard. Nơi đây cũng là trụ sở Hội đồng thành phố và và văn phòng thị trưởng trước khi tòa thị sảnh thành phố (Mairie) hay tòa đô chính (nay là Ủy ban Nhân dân Thành phố) được xây sau này. Số 8 Bonard là quán cà phê, quán ăn và nhà nghĩ “Café de la musique” nổi tiếng của ông bà Pancrazi, người Pháp gốc đảo Corse.
bonard3
Hình 3 – “Café de la musique” số 8 Boulevard Bonard (góc Boulevard Bonard và rue Catinat)
Số 16 là Cercle colonial, số 32 là tòa soạn của báo “La dépêche de Saigon”. Bên kia đường ở số 19 là văn phòng của nhà nhiếp ảnh J. Brignon. Số 39, là ông Albert biên tập viên của tờ báo Courrier Saigonnais (redacteur du Courrier Saigonnais), trong khi ở số 49 là nơi biên tập của tờ báo Colon (Redaction du journal le Colon)
Số 42 là văn phòng của nhà quay phim Louvet (Cinematographe Louvet). Ông Louvet là một trong những người đầu tiên mang phim ảnh chiếu cho công chúng trước khi có rạp Casino Saigon. Trong lịch sử điện ảnh Việt Nam thì phim đầu tiên chiếu ở Saigon là vào năm 1898 ở nhà hát cũ của thành phố (vị trí ngày nay là khách sạn Caravelle). Năm 1908, ông Louvet mở rạp chiếu phim ở góc đường rue Vannier (Ngô Đức Kế ngày nay) và đại lộ Charner. Sau đó ông dời địa điểm chiếu phim về cơ sở của công ty điện ảnh “Pathé frères” ở số 63 rue d’Ormay (Mạc Thị Bưởi) gần góc đại lộ Charner. Phim chỉ được cho phép chiếu từ buổi chiều tối đến 11 giờ đêm nên tại nơi này về đêm rất vui náo nhiệt so với các nơi khác trong thành phố. Nhưng chỉ vài năm sau khi rạp Casino Saigon rộng rãi hơn được thành lập vào năm 1910 thì địa điểm chiếu phim của ông Louvet không còn cạnh tranh được với rạp Casino mới. Chúng ta không biết gì thêm về ông Louvet sau này.
Số 42bis là văn phòng của công ty đồn điền cao su “Société Suzannah”. Công ty Société Suzannah được thành lập vào ngày 27 tháng 2 năm 1907 với số vốn là 150000 đồng Đông Dương (piastres) do nhóm nghiên cứu mà ông Louis Cazeau đứng đầu thành lập. Công ty Société Suzannah có các đồn điền cao su rộng 3400 mẫu (hectare) ở Dầu Giây thuộc tỉnh Biên Hòa và sau này còn có thêm các đồn điền ở An Lộc. Cây cao su được lấy hạt giống từ Singapore và đã trồng rất thành công ở đồn điền Dầu Giây. Trước kia ông Cazeau cũng là giám đốc của công ty nổi tiếng xe (tramway) hơi nước ở Nam Kỳ, “Société générale des tramways à vapeur de Cochinchine” (SGTVC). Công ty SGTVC có các tuyến đường xe lửa công cộng chuyên chở hành khách Saigon-Chợ Lớn và đắc biệt tuyến đường xe lửa Saigon-Mỹ Tho. Ông Cazeau là hội viên trong Hội đồng Quản hạt (Conseil colonial) và cũng chính là người đã xây dựng khách sạn Hôtel Continental ở ngay góc đại lộ Bonard và đường Catinat mà hiện nay như ta biết vẫn còn.
Số 55-59 là trụ sở của Ngân hàng Nam kỳ (Banque Cochinchine). Và cuối đường bên trái cạnh Ngân hang Nam Kỳ là số 61-63 trụ sở bót Cảnh sát quận 1 (commissariat 1er arrondissement). Cuối đại lộ Bonard là giao điểm của ba đường: đại lộ Bonard, đường MacMahon (Nam Kỳ Khởi Nghĩa) và đường rue de Cap St Jacques (Nguyễn Trung Trực ngày nay).
(Theo Niên giám Đông Dương, Annuaire Generale de l’Indochine 1910)
Giai đoạn sau 1914
Như đã đề cập ở trên thì khoảng năm 1914 sau khi chợ Bến Thành (chợ Mới) được xây và đại lộ Bonard được nối dài thêm đến quảng trường Cuniac thì địa chỉ trên đại lộ Bonard được thay đổi. Giai đoạn này chứng kiến sự phát triển của đường bộ và xe hơi nối với Chợ Lớn. Vị trí kinh tế của đại lộ Bonard quan trọng hơn so với vị trí đại lộ Charner và đường Catinat về hướng sông Saigon.
bonard4
Hình 4 – Đại lộ Bonard toàn cảnh nhìn từ quảng trường nhà hát thành phố
Số 3 Bonard là cửa hàng của Hãng rượu The Crystal, 3 Boulevard Bonnard. Sau này chuyển về địa chỉ số 19 Bonard.
bonard5
Hình 5 – Quảng cáo hảng rượu The Crystal ở số 19 Bonard (trên báo Écho Annamite ngày 23/2/1922)
Số 21 Đại lộ Bonard ngay góc với Đại lộ Charner là cửa hàng xe hơi Autohall. Nơi đây bán các loại xe hơi như Dodge Brothers, Citroën của công ty “Établissement Bainier d’Indochine” (É. Bainier) của ông Bainier. Ông Bainier đến Saigon vào đầu thế kỷ 20 và là một người có đầu óc kinh doanh trong lãnh vực xe hơi mới bắt đầu chớm nở.
Qua bên kia đường, số 28 là cửa hàng café và khách sạn “Grand Hôtel des Nations” của ông bà Pancrazi. Sau này vào thập niên 1950 tòa nhà được xây lại và là cửa hàng thực phẩm “Épicerie Saigonnaise Lien-Seng”.
bonard6
Hình 6 – Café nhà hàng khách sạn Hôtel des Nations, góc đại lộ Bonard và đại lộ Charner, của ông bà Pancrazi (hình chup đầu thế kỷ 20).
bonard7
Hình 7 – Cửa tiệm “Épicerie Saigonnaise Lien-Seng” cuối thập niên 1950
So 23-29 Boulevard Bonard là trụ sở của công ty “Société anonyme des garages indochinois”, đại lý chính thức độc quyền bán xe hơi hiệu Chevrolet. Garage Bonard nằm ở vị trí cạnh bên thương xá Grands Magasins de Charner (GMC) và đối diện với rạp Casino Saigon (1). Sau này nơi đây trong thập niên 1960 là garage xe hơi Kim Long.
Số 30 là rạp Casino Saigon của công ty “Société anonyme pour l’exploitation des cinemas” do ông Léopold Bernard thành lập khoảng năm 1910. Ngoài rạp chiếu phi, Casino ở Saigon, công ty của ông Bernard còn xây dựng các rạp hát ở một số nơi khác ở Nam kỳ như rạp Casino Mỹ Tho (Casino de Mytho), rạp Casino Bến tre (Casino de Bentre) và rạp Casino Cần Thơ (Casino de Cantho) phục vụ nhu cầu xem phim xinê (ciné) của dân chúng ở Nam Kỳ Lục tỉnh.
Sau này rạp Casino Saigon được chuyển sang số 28 Bonard rộng rãi hơn, ngay góc đại lộ Bonard và đường Pellerin (đường Pasteur ngày nay) và số 30 trở thành một cơ sở của rạp Casino là nhà hàng khách sạn “Brasserie des sports” do Daniel Courrèges, bạn của ông Bernard, quản lý (15). Trong sách hướng dẫn du lịch Angkor đi từ Saigon của Claudius Madrolle in năm 1925, có ghi chú chi tiết các khách sạn ở Saigon trong đó có ghi Hôtel du Casino et Brasserie des Sports, cách nhà ga Saigon 2 phút, có 30 giường ngũ, có điện và vòi tắm sen trong mỗi phòng. Giá mướn phòng là 4$, giá ăn sáng, trưa, tối là 50 cents, 1$50 và 1$50. Giá cho nguyên tháng phòng và ăn từ 100 đến 150$, nếu chỉ ăn thôi là 45$.Trong khi giá ở Hotel des Nations của ông bà Pancrazi gần đó là 7$ mỗi ngày mướn phòng và ăn.
Rạp Casino chiếu các phim mới thịnh hành ở Paris như phim hài “Ce bon Lucien” ra mắt năm 1918 thì không lâu ở Casino Saigon đã có chiếu. Các phim được ưa chuộng khác như phim nhạc “Marinella” (1936) do Tino Rossi đóng, “Arènes joyeuses” (1935), “L’Equipage” (1935) với tài tử Annabella và Jean Murat đóng, “Toni” (1935) của đạo diễn nổi tiếng “film noir” là Jean Renoir. Ngoài ra rạp Casino cũng là nơi có trình diễn các vỡ kịch như Déillusione cạnh tranh với nhà hát thành phố.
Đặc biệt vào mùa mưa, Casino Saigon là nơi có tổ chức các cuộc đánh quyền anh (boxe hay võ tay) rất phổ thông thu hút nhiều người đến xem, đến nổi ban quản lý Casino Saigon phải hạn chế số lượng người vào như tin đăng trên báo Écho Annamite (13/5/1925) như sau
“Tin thể thao
Đánh quyền anh (boxe)
Trong lúc này là mùa mưa, ông Tellier đã phải tổ chức các trận đánh boxe trong phòng của rạp Casino và do không đủ rộng, số chổ ngồi bị hạn chế nên ông đã quyết định tạm ngưng số lượng vào cửa dùng thẻ ưu tiên đặc biệt ở Casino Saigon.
Vì thế, chỉ những ký giả viết về thể thao và các nhân viên mới có thể dùng thẻ ưu tiên vào. Không bất kỳ lý do nào là có thể vào them.
Những báo sau có cột viết về thể thao
(1 thể ưu tiên cho mỗi báo)
Le Courrier Saigonnais, L’Opinion, L’Echo Annamite, L’Impartial, L’ Écho des Sports, Saigon-Sportif Cong luan Bao, Trung lap Bao, La Voix Libre.
Casino de Saigon”
(dịch theo bản tin viết bằng tiếng Pháp trên báo Écho AnnamiteTiếng Vọng An Nam)
Những võ sĩ đánh quyền anh là người Việt, Pháp và ngay cả người Phillipin (Phi Luật Tân) cũng có mặt. Trên báo Écho Annamite ngày 13/5/1925 có đăng tin thể thao về các trận đánh quyền anh ở Casino Saigon như sau
“Ngày mai 14 tháng 5 vào lúc 21 giờ
Các trận đánh quyền anh lớn
4 hiệp
KID THOMAS đấu với VANG
Người Việt – người Việt (Annamite – Annamite)
8 rounds revanche
KID ALFRED đấu với IROJANI
Người Phi Luật Tân – Người đảo Corse (Philippin – Corse)
6 hiệp
MATRAT đấu với SIRE
Người thành phố Dijon – Người Paris (Dijonais – Parisien)
Grand combat revanche en 12 ’rounds
AYOT đấu với T. R. SOSA
Người thành phố Marseille – Người Phi Luật Tân (Marseillais – Philippin)
(dịch theo bản tin tiếng Pháp trên Écho Annamite – Tiếng Vọng An Nam)
Sau khi ông Bernard Léopold mất năm 1918, người em vợ của ông là Constant René Blot lên thay thế quản lý công ty “Société anonyme pour l’exploitation des cinemas” cho đến khi Pháp rút khỏi Việt Nam (15). Năm 1955, rạp Casino Saigon được xây lại trên đường Pasteur (59 Pasteur) cạnh rạp cũ ở góc đường. Rạp Casino sau năm 1975 được đổi tên là rạp Vinh Quang và trở thành Sân khấu Kịch Sài Gòn vào năm 1998. Cách đây vài năm rạp bị phá để xây khách sạn Liberty Central Hotel kết thúc một lịch sử đặc thù lý thú của phim ảnh Saigon trong thế kỷ 20.
bonard8
Hình 8 – Rạp Casino Saigon ở 28 đại lộ Bonard, ngay góc đại lộ Bonard và đường rue Pellerin (Pasteur ngày nay) (hình chụp đầu thế kỷ 20, thập niên 1920)
bonard9
Hình 9 – Nhà hàng khách sạn “Brasserie des Sports” ở số 30 đại lộ Bonard, bên cạnh (phải) là rạp Casino Saigon.
Số 50 là phòng mạch của bác sĩ Laimé chuyên khoa tai, mủi và họng như đăng trong Écho Annamite (23/2/1922)
Docteur Laimé
Ex-assistant ad’. des Hôpitaux de Paris, spécialiste des maladies du Nez, de la Gorge et des Oreilles.
50 Boulevard Bonnard
Consultations : Lundi, Mercredi, Jeudi et Vendredi de 10 à 11 heures et de 15 à 18 h. et sur Rendez-vous.
Số 54 là tiệm nhiếp ảnh của nhà nhiếp ảnh Việt Nam tiên phong trong lãnh vực nhiếp ảnh: ông Nguyễn Đình Khánh tự Khánh Ký. Trong báo “Écho Annamite” ngày 13/6/1925, có đăng quảng cáo tiệm nhiếp ảnh Khánh Ký như sau
Khanh-Ky & Cie
Phtographie Industrielle et Artistique
Prix Modérés
Ex-premiers ope’rateurs des Grandes Maisons de Paris
54 Boulevard Bonnard, 54 – Saigon
Téléphone No. 410

Năm 1926 khi nhà chí sĩ Phan Châu Trinh mất ở Saigon, nhà nhiếp ảnh Khánh Ký đã chụp ảnh đám tang từ đường Pellerin (nay là Pasteur), gần tiệm nhiếp ảnh của ông, đến nghĩa trang Gò Công gần Tân Sơn Nhất. Bộ ảnh này của Khánh Ký có giá trị lịch sử và hình ảnh của ông đã được dùng trên báo chí và một số hiện nay được trưng bày ở nhà lưu niệm Phan Châu Trinh cạnh mộ Phan Châu Trinh ở Saigon. Khi thi hào Ấn Độ viếng thăm Saigon tháng 6 1929, trong dịp viếng nhà in Imprimerie Nguyen Van Cua, nhà nhiếp ảnh Khánh Ký đã có chụp ảnh thi hào Tagore cạnh chủ nhà in là ông Nguyễn Văn Của.
Tham Khảo
  1. Annuaire complet (européen et indigène) de toute l’Indochine, commerce, industrie, plantations, mines, adresses particulières… : Indochine, adresses, 1ère année 1933-1934, éditeurs L. Lacroix-Sommé, R. J. Dickson et A. J. Burtschy, impr. A. Portail (Saigon), 1933.
  2. L’Information d’Indochine. économique et financière, Saigon, 1935, 1936, 1940.
  3. Notice historique, administrative et politique sur la ville de Saigon. Publiée par les soins du secrétaire général de la mairie, Impr. de l’Union (Saigon), 1917
  4. Annuaire général de l’Indo-Chine française, 1901, Part 2, 1905, 1906, 1908.
  5. Annuaire de l’Indo-Chine, 1890, T1, pp. 198-199, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1890.
  6. Annuaire de l’Indo-Chine, 1897, T1, Imprimerie Coloniale, Saigon, 1897.
  7. Annuaire de la Cochinchine française pour l’année 1870, Imprimerie du Governemnt, Saigon 1869.
  8. Écho Annamite, 10/11/1921, 13/5/1925, 13/6/1925, 29/12/1928.
  9. Bulletin officiel de l’Indochine française, A1908 N12, p. 1112-1113
  10. Tim Doling, Old Saigon building of the week: 128 Nguyen Thi Minh Khai, http://www.historicvietnam.com/128-nguyen-thi-minh-khai/
  11. Tim Doling, Date with the wrecking ball: Saigon hospital, http://www.historicvietnam.com/saigon-hospital/
  12. Bulletin économique de l’Indo-Chine, 1898/07/01 (A1,N1)-1898/12/01 (A1,N6), pp. 142, Imprimerie commerciale Rey, Saigon.
  13. Húa Hoành, Giai thoại Nam Kỳ Lục Tỉnh,
  14. Claudius Madrolle, Guide aux Ruines Khmères, Vers Angkor. Saïgon. Phnom-Penh, Hachette (Paris), 1925.
  15. Tim Doling, Icons of Old Saigon: The Casino de Saigon, http://saigoneer.com/saigon-buildings/3726-icons-of-old-saigon-the-casino-de-saigon


Thursday, 9 August 2012

Ngôn ngữ Sài Gòn xưa: những chữ vay mượn 3 (Nguyễn Ngọc Chính)

Đây là bài thứ 3 trong loạt bài nghiên cứu về những chữ vay mượn trong ngôn ngữ Sài Gòn xưa. Sau khi bàn về tiếng Tàu, tiếng Pháp, chúng ta chuyển sang tiếng Anh và bước vào một nền văn hóa đã có những ảnh hưởng “tốt” cũng như “xấu” vào đời sống của người Việt trong khoảng 30 năm chiến tranh vừa qua.

Có người gọi cuộc chiến vừa qua là “nội chiến” giữa hai miền Nam-Bắc nhưng, theo báo chí phương Tây, đó là “cuộc chiến tranh Việt Nam” hay nói một cách khác là “cuộc đối đầu giữa hai phe”, một bên là Tự do gồm Việt Nam Cộng hòa, Hoa Kỳ và 5 nước Đồng minh (gồm Australia, New Zealand, Đại Hàn, Thái Lan và Philipin) và một bên là Cộng Sản gồm Việt Nam Dân chủ Cộng Hòa, Liên Xô và Trung Quốc.

Tinh thần của bài viết này không bàn đến việc “đúng” hay “sai” của cuộc chiến mà chỉ xoáy quanh những ảnh hưởng của nền văn hóa Mỹ đối với ngôn ngữ Việt trong suốt 30 năm chiến tranh.

Nước Mỹ còn được gọi là Hoa Kỳ hay Huê Kỳ (cờ hoa). Danh xưng này đã xuất hiện trong văn chương Việt Nam từ cuối thế kỷ thứ 19 qua thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ”. Vũ Trọng Phụng trong Vỡ đê, xuất bản năm 1936, có đoạn viết: “…Dung tìm bao diêm ở ô kéo, đốt một cây đèn hoa kỳ lên, tắt phụt ngọn lửa ở đèn dầu xăng. Nhìn ra sân, thấy trời tối om, Dung bèn bỏ bao diêm vào túi…”.

Nguyễn Công Hoan trong Nhớ và ghi về Hà Nội giải thích: “…Đèn Hoa Kỳ là đèn của bọn Mỹ sang ta buôn dầu hoả. Muốn bán được dầu hoả, nó phải làm đèn cho người mua dầu dùng (...). Dầu của Mỹ, viết tắt là Socony (Standard Oil Company of New York), cạnh tranh với dầu của Anh viết tắt là Shell.

Bất cứ ở thành thị hay nông thôn, hễ có đại lý dầu Mỹ, là ở gần đó, có ngay đại lý dầu Anh. Và trái lại. Nhà bán dầu Mỹ có biển sơn màu vàng, nhà bán dầu Anh có biển sơn màu đỏ. Những nơi bán dầu xăng ô tô, Anh Mỹ cũng cạnh tranh như vậy. Ở Hà Nội, còn có xe dầu đi bán ở phố, cũng sơn màu của hãng... Trụ sở của Ủy ban Khoa học Kỹ thuật ở phố Trần Hưng Đạo, số 39, là trụ sở cũ của hãng dầu Shell của Anh, nên quét vôi màu đỏ. Ngày trước ta gọi là nhà dầu Shell (...).

Royal Dutch Shell (người bình dân gọi là hãng dầu “con sò”) đã thực hiện một chiến dịch “tiếp thị” ngoạn mục là “biếu không” đèn Hoa Kỳ cho người Việt vốn chỉ quen dùng dầu lạc hay nến (bạch lạp) để thắp sáng mà không quen dùng dầu hỏa. Dĩ nhiên, khi đèn Hoa Kỳ đi vào đời sống của người Việt thì cũng là lúc mọi người làm quen với việc dùng dầu hỏa để đốt đèn.

Nhãn hiệu Shell lần đầu tiên xuất hiện vào năm 1891 qua logo “con sò” trên thùng dầu hỏa mà Marcus Samuel và các cộng sự chuyển đến vùng Viễn Đông. Nhất Thanh trong Đất lề quen thói (1968) giải thích thêm: “Cuối thế kỷ XIX người Tây đem dầu lửa, cũng gọi dầu hôi, vào dùng và bán (...). Hãng bán dầu đã chế ra thứ đèn nhỏ, ngọn lửa vừa bằng ngọn đèn dầu chay, đèn được cho không kèm theo mỗi thùng dầu bán ra, để làm quảng cáo; không rõ lúc ấy dầu lửa từ xứ nào nhập cảng, mà cái đèn kia được gọi là đèn Hoa-kỳ; ngày nay tại nhiều nhà nó vẫn là bạn cố tri bên cạnh cái điếu thuốc lào.

Bức tranh Đèn Hoa Kỳ của họa sĩ Bùi Xuân Phái

Như vậy, thuật ngữ “đèn Hoa Kỳ” (còn gọi là đèn “hột vịt” tại miền Nam), đốt bằng dầu hỏa (còn gọi là dầu lửa hay dầu hôi), đã xuất hiện từ rất lâu, trước khi có cuộc Chiến tranh Việt Nam.

Người ta còn dùng từ ngữ dầu Tây để gọi dầu hỏa khi mới du nhập vào Việt Nam. Ngày xưa, loại dầu này được đựng trong thùng sắt tây như trong bức tranh Bán dầu Tây của Henri Oger năm 1909 (1). Loại thùng sắt này sau khi đựng dầu được tái chế thành thùng gánh nước hoặc cắt ra làm các vật dụng khác như đồ chơi cho trẻ em bằng thiếc.

Tranh Bán dầu tây của Henri Oger

Một trường hợp tiếng Anh khác đã du nhập vào Việt Nam từ lâu là trò chơi của trẻ con: “Oẳn tù tì” dịch từ “One, Two, Three”. Hầu như mọi người Việt đều đã từng ra cái búa, cái kéo hoặc cái bao sau khi đọc câu “Oẳn tù tì. Ra cái gì? Ra cái này!”. Hai người chơi và có một trong 3 lựa chọn, cái búa thì đập cái kéo, cái kéo thì cắt cái bao và cái bao lại bao được cái búa.

Về nặt giáo dục, tiếng Anh du nhập miền Nam qua hai thời kỳ, dưới hai dạng ngôn ngữ: tiếng Anh của người Anh (British English) và tiếng Anh của người Mỹ (American English). Thời Đệ nhất Cộng hòa (1955-1963), tiếng Anh song song với tiếng Pháp, được chọn làm sinh ngữ chính và phụ, tùy theo sự lựa chọn của học sinh từ bậc Trung học (lớp Đệ thất trở lên). Tài liệu giảng dậy tiếng Anh vẫn lệ thuộc vào chương trình của người Pháp nên chịu ảnh hưởng của British English (còn gọi là Ăng-lê –Anglais). Một trong những sách học tiếng Anh phổ biến trong thời kỳ này là bộ L’Anglais Vivant của nhà xuất bản Hachette (Pháp).

“L’Anglais Vivant” của nhà xuất bản Hachette

Đệ nhị Cộng hòa (1963-1975) là thời thịnh hành của American English tại miền Nam. Điều này cũng dễ hiểu vì sự có mặt của quân đội Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam (2). Ngôn ngữ Sài Gòn xưa chịu ảnh hưởng sâu đậm của tiếng Mỹ trong thời kỳ này và có những vay mượn rất lý thú.

OK (okay) có lẽ là một từ nổi bật nhất trong tiếng Mỹ được sử dụng rộng rãi tại miền Nam và nhiều quốc gia trên thế giới. Một số người cho rằng từ này bắt nguồn này bộ tộc da đỏ Choctaws ở Châu Mỹ. Chữ “okeh” của người Choctaw có nghĩa tương tự như từ OK của người Mỹ. Tuy nhiên, cũng có rất nhiều tranh cãi về thuật ngữ này. Theo chuyên gia ngôn ngữ Allen Walker Read,  OK là dạng viết ngắn của cụm từ “all correct”. Những người khác thì cho rằng OK là dạng chữ tắt của các từ Hy Lạp có nghĩa là mọi thứ đều ổn cả. Không phải ai cũng đồng ý với những giải thích này nên kết luận hãy còn bỏ ngỏ.

Tại miền Nam, còn phát sinh từ ngữ OK Salem, một từ ghép thường được dùng bởi giới bình dân, ít học như gái bán ba (bar), dân xích lô hoặc trẻ đánh giày. Một hình ảnh phải nói là rất xấu trên đường phố thời đó: trẻ con thường chạy theo các chú GIs (Government Issues – ám chỉ lính Mỹ vì dùng đồ chính phủ cấp phát) để chìa tay xin thuốc lá hay kẹo chewing-gum (kẹo cao su)… miệng thì OK Salem rối rít.

Thuốc hút Salem có vị bạc hà (menthol), rất thịnh hành khi lính Mỹ đến Việt Nam, họ mua từ PX (Post Exchange – một hình thức Quân tiếp vụ, chỉ bán cho quân nhân Hoa Kỳ) và tuồn hàng ra thị trường chợ đen (black market). Người Sài Gòn chê Salem là loại thuốc dành cho… phụ nữ, thuốc dành cho đàn ông “sành điệu” phải kể đến Pall Mall, Lucky Strike, Philip Morris, Camel, Winston…

Salem được giới ăn chơi Sài Thành “chiết tự” thành Sao Anh Làm Em Mệttrong khi Pall Mall được giới lính tráng biến thành cụm từ Phải Anh Là Lính, Mời Anh Lên Liền… Có điều thuốc Salem tại Mỹ được phát âm là “xê-lầm” nhưng khi sang đến Việt Nam lại biến thành “xa-lem” nên nếu có sang Mỹ mà hỏi mua thuốc “xa-lem” chắc chắn người bán sẽ lắc đầu quầy quậy!  

Thuốc lá Salem

Number one cũng là một cụm từ được dùng thường xuyên tại miền Namvới ngụ ý… số dzách hay số một. Người bình dân dùng number one thay cho good chẳng hạn như trong câu tiếng Anh “bồi”: “You number one GI!”. Phản nghĩa với number one sẽ là number ten, hoặc tệ hơn nữa là “nâm-bờ ten tháo giường” được Việt hóa từ “number ten thousand” (số mười ngàn). Ai dám bảo là dân Việt không có óc khôi hài?

Cao bồi là thuật ngữ đã đi vào ngôn ngữ miền Nam khi hàng loạt các loại “phim miền Tây” (Western movies) hay còn gọi là “phim cao-bồi”, được chiếu tại các rạp xi nê. Cowboys vốn là những chàng trai chăn bò, có người hành động một cách nghĩa hiệp “trừ gian diệt bạo” nhưng cũng có những kẻ “đầu trộm đuôi cướp” trong bối cảnh Miền Tây Hoang dã (the Wild Wild West) tại Hoa Kỳ thời lập quốc. Bên cạnh các cowboys còn có sự hiện diện của sheriff với ngôi sao trên ngực, họ là những cảnh sát do dân trong thị trấn bầu lên để thực thi luật pháp.  

Phim cao bồi đầu tiên tại Mỹ thuộc loại phim câm (silent film) mang tênThe Great Train Robbery được sản xuất vào năm 1903. Những phim cao bồi nổi tiếng thời Sài Gòn xưa phải kể đến Gunfight at the O.K. Corral(năm 1957 với các tài tử Burt Lancaster, Kirk Douglas), Rio Bravo (1959 với John Wayne, Dean Martin, Ricky Nelson), The Misfits (1961 với Clark Gable, Marilyn Monroe, Montgomery Clift), The Good, the Bad and the Ugly (1966 với Clint Eastwood, Lee Van Cleef), Little Big Man (1970 với Dustin Hoffman, Faye Dunaway)…

Cao bồi đeo ngôi sao Sheriff
(ảnh chụp năm 1971 tại Alamo Village, San Antonio, Texas)

Từ ngữ cao bồi sau khi du nhập vào miền Nam lại có những biến thể về ý nghĩa. Người lái xe cao bồi được hiểu là lái ẩu, ăn mặc cao bồi là diện những bộ quần áo lố lăng, khó coi…

Tôi còn nhớ, ngày xưa thường hát Học sinh hành khúc của Lê Thương (nghe bản nhạc này tại http://www.youtube.com/watch?v=f2oYKkPgnFs&feature=related ) với những lời ca tụng một thế hệ học sinh của tương lai đất nước:

Học sinh là người tổ quốc mong cho mai sau.
Học sinh xây đời niên thiếu trên bao công lao…”

Thế nhưng bài hát này đã được ai đó, chắc là mấy cậu học trò “rắn mắt”, cải biên thành:

Học sinh cao bồi mặc áo sơ mi ca rô
Học sinh là người hủ tiếu ăn hai ba tô…”

Chả là học sinh chỉ có đồng phục quần xanh-áo trắng nên anh nào mặc áo ca rô thì bị “chụp mũ” là học sinh cao bồi. Còn cái vụ hủ tiếu mà ăn tới “hai, ba tô” thì phải “xét lại”, có thể vì “bí vận” nên câu trước “áo sơ mi ca rô” câu sau có vần “hủ tiếu ăn hai ba tô” chứ học sinh làm gì có tiền mà ăn nhiều đến thế.

Tiện đây cũng xin nhắc lại chuyện phim ảnh của Sài Gòn xưa. Để diễn tả một một sự kiện có tính cách kinh dị, người ta còn dùng từ ngữ “hít-cốc”, xuất xứ từ cái tên của đạo diễn Alfred Joseph Hitchcock, “ông vua phim kinh dị” của nền điện ảnh Hoa Kỳ với khoảng 50 bộ phim kéo dài suốt 6 thập kỷ.

Người Sài Gòn đã có dịp xem rất nhiều phim hít-cốc “toát mồ hôi lạnh” như The Man Who Knew Too Much (1956, với James Stewart và Doris Day – trong phin này Doris Day hát bài What Will Be, Will Be – Que Sera, Sera và đoạt giải Oscar âm nhạc hay nhất), Vertigo (1958, với James Stewart, Kim Novak), Psycho (1960, với Anthony Perkins, Janet Leigh), The Birds (1963, với Tippi Hedren, Rod Taylor)… (Xem thêm bài viết về Điện ảnh Sài Gòn tạihttp://nguyenngocchinh.multiply.com/journal/item/10). 

Một trong những tác động xấu của người Mỹ đến miền Nam trong cuộc chiến vừa qua là hiện tượng xì-nách ba (snack bar) mọc lên như nấm sau cơn mưa tại Sài Gòn. Khác hẳn với snack bar nguyên thủy ở Hoa Kỳ, thường được hiểu là nơi bán các loại thức ăn nhẹ (snack) như hot dogs, hamburgers, french fries, potato chips, corn chips… còn kèm theo đồ uống.

Sang đến Việt Nam, xì-nách ba trở thành nơi lui tới của những người lính Mỹ xa nhà để uống rượu giải sầu và được phục vụ bởi các cô gái bản xứ. Họ thường là gái quê, ít học và có chút nhan sắc, ăn mặc “thời thượng” với chiếc mini jupe ngắn cũn cỡn. Gái xì-nách ba, hay còn gọi là gái bán ba, thường chỉ ngồi uống nước ngọt hay nước trà với khách nên lính Mỹ gọi đó là Saigon Tea có giá từ 1 đến 2 đô la một ly. Các cô làm ở xì-nách ba không hẳn là gái điếm vì không phải cô nào cũng “đi khách”.

Cũng từ các cô gái bán ba phát sinh ra loại tiếng Anh “giả cầy” kiểu “broken English”. Người ta nghe loáng thoáng trong câu chuyện giữa các cô “đấu hót” với lính Mỹ “Hello GI, you buy me Saigon tea” (Chào anh lính, anh mua cho em ly Sài Gòn ti nhé) hay còn rùng rợn với câu “No star where”, một cụm từ trấn an mà các cô dịch thẳng từ tiếng Việt Không sao đâu!

Lính Mỹ còn đưa vào Việt Nam một số thuật ngữ được dùng từ hồi chiến tranh Triều Tiên. Để gọi người đà bà lớn tuổi họ dùng mama-san, đàn ông thì gọi là papa-san còn con nít là baby-san. Cũng vì thế, trong câu chuyện ở snack bar người ta thường bắt gặp những từ này khi các cô gái bán ba muốn nói về gia đình mình. Mama-san còn được dùng để chỉ người điều hành snack bar, tương tự như tài-pán, người phụ trách điều động gái nhảy tại các dancing thời Pháp thuộc.

Kinh doanh xì-nách ba là một nghề hái ra tiền tại Sài Gòn bên cạnh những dịch vụ như tắm hơi (steam bath), mát-xa (massage) nhưng cũng chính các nghề này đã khiến cuộc sống trong xã hội mất đi sự lành mạnh, đưa đẩy một số phụ nữ vào con đường tội lỗi. Tuy nhiên, người ta cũng hiểu đó là những hệ quả không thể nào tránh khỏi của một đất nước trong tình trạng chiến tranh.

Sài Gòn và những quán bar, tắm hơi, massage

Xã hội miền Nam bên cạnh nghề thu hút một số người làm việc tại các quán ba còn có một giai cấp cao hơn, họ làm việc cho các hãng thầu tư nhân của Mỹ như hãng RMK được thành lập từ đầu thập niên 60 với các công trình xây dựng xa lộ Biên Hòa, quốc lộ 4 tại Phụng Hiệp… hoặc các cơ quan trực thuộc chính phủ Hoa Kỳ như USAID.

Nói chung, họ là những người đi làm sở Mỹ với mức lương cao nhưng phải đạt một trình độ tiếng Anh khả dĩ trong công việc hàng ngày. Những người có trình độ cao hơn thì làm thông dịch viên, ngay như Trường Sinh ngữ Quân đội cũng có những khóa đào tạo thông dịch viên đồng hóa với cấp bậc trung sỹ để về phục vụ tại các tiểu khu có cố vấn Mỹ.

Năm 2011, tại Little Saigon, đã có một buổi họp mặt “Cựu nhân viên sở Mỹ” nhân dịp Giáng sinh. Gần 400 cựu nhân viên đã đến dự cuộc hội ngộ này, đa số là những người đã từng làm việc tại Tòa đại sứ, Tổng lãnh sự Mỹ, các cơ quan chuyên môn như DAO, CIA, MACV, USAID, USIS cùng những nhân viên hãng thầu RMK của tư nhân.  

Cuối thập niên 60 và đầu thập niên 70 là thời kỳ Sài Gòn chịu ảnh hưởng từ của phong trào hippy (hippie) của Mỹ. Người ta thấy xuất hiện những từ ngữ có liên quan đến hippy như hoa hippyhippy bụi đờihippy choai choaihippy yaourt… Những kiểu thời trang hippy cũng xuất hiện: váy ngắn (mini jupe, miniskirt), quần ống loe (quần chân voi), áo dài hippy thì ngắn cũn cỡn mặc chung với quần ống loe còn con trai thì tóc dài đến độ nhìn từ xa không thể nào phân biệt được giới tính…

Văn hóa hippy bao gồm từ phong cách ăn mặc “bụi” đến những tư tưởng phóng khoáng, chống lại những quy ước cứng nhắc của xã hội. Có thể nói, phong trào hippy là biến tấu của chủ nghĩa hiện sinh (existentialism) theo kiểu “yêu cuồng, sống vội” với Jean Paul Sarte, Françoise Sagan từ văn hóa Pháp.

Cuối thập niên 60s phong trào phản đối chiến tranh Việt Nam đã nở rộ tại Mỹ với khẩu hiệu “Make love not war". Biểu tượng của phong trào hippy là hoa không lá (còn gọi là hoa hippy), đó là hình tượng của Power Flower (sức mạnh của hoa) được bắt đầu từ năm 1965 tại khu Berkerly, California. Người ta còn nhớ mãi hình ảnh một cô gái hippy đã gắn hoa trên họng súng của một quân nhân thi hành nhiệm vụ giữ trật tự trong một cuộc biểu tình phản chiến.

“Power Flower” – Hoa Hippy

Ở Sài Gòn, các người đẹp gắn hoa hippy lên tóc, cài lên tai, dán lên mắt kính để làm duyên. Người ta còn vẽ hoa lên xe hơi, lên xe Honda, thậm chí đôi lúc còn thấy hoa hippy xuất hiện trên cyclo, xe ba gác, xe bò. Cô em gái tôi có một chiếc áo khi ủi đồ bị than rớt cháy thủng một lỗ, thế là cô gắn luôn một cái hoa hippy, trước là để ngụy trang sau là chạy theo… thời trang! Có thể nói Sài Gòn khi đó giống như Trăm hoa đua nở, nhại tên một chiến dịch thanh trừng chính trị ở miền Bắc.   

Tôi còn nhớ, Trường Sinh ngữ Quân đội vào cuối thập niên 60 có một Chuẩn úy từ Thủ Đức về. Anh Thịnh là một chuẩn úy trẻ, có học vị cao nhưng lại rất lè phè trong lối sống. Hằng ngày anh đến trường bằng chiếc xe hơi bỏ mui (decapotable) được trang trí bằng những bông hoa hippy. Thế là anh chuẩn úy trẻ có tên “Thịnh Hippy” kể từ đó.

Bức hình này gợi nhớ “Thịnh Hippy” ở trường SNQĐ

Có thể nói, phong trào hippy cũng lan rộng đến người lính qua chuyện về “Thịnh Hippy” nhưng nói chung, những người lính trận mỗi khi có dịp đi phép về thành phố chắc chắn không thể chấp nhận lối sống hippy của các thanh niên, thiếu nữ tại chốn phồn hoa đô hội.

Những người hằng ngày phải đương đầu với súng đạn làm sao có thể “thông cảm” với những người hằng đêm đi “bum” tại các phòng trà, dancing. Một đằng thì phải hy sinh tính mạng để “tham chiến” còn một đằng thì lại ăn chơi để “phản chiến”. Đó là một trong những “mâu thuẫn” trong chiến tranh Việt Nam. Phải chăng đó cũng là một trong những lý do khiến miền Nam sụp đổ?  

===

Chú thích:

(1) Henri Oger (1885-1936?) tên đầy đủ là Henri-Joseph Oger là một người Pháp tình nguyện sang Bắc Kỳ đi lính và được biết đến qua bộ sưu tập tranh mộc bản vẽ các sinh hoạt thường nhật của người Việt vào đầu thế kỷ 20. Trong khoảng 20 tháng làm việc tại Hà Nội (1907-1909), ông là người đã cùng các họa sĩ, thợ khắc mộc bản, thợ in và các nhà Nho cố vấn (tất cả trên ba mươi người) hoàn thành tác phẩm Technique du peuple annamite (Kỹ thuật của người An Nam), một công trình nghiên cứu về văn minh vật chất của vùng Hà Nội vào đầu thế kỷ 20.

Ở nước ngoài, một ít bản hiện lưu giữ dưới dạng vi phim tại các ĐH như Johns Hopkins Baltimore, Southern Illiois Carbondale, California Berkeley, Cornell. Tại Pháp, lưu ở Thư viện nghệ thuật và khảo cổ học - Paris IV Sorbonne. Tại Nhật, lưu ở ĐH Keio, Minato-Ku. Riêng ở Việt Nam là nơi ấn hành hiện cũng chỉ còn biết đến hai bản: một bản (không đầy đủ) lưu giữ tại Thư viện quốc gia Hà Nội, và một bản khác (tương đối tốt) lưu giữ tại Thư viện dưới thời Việt Nam Cộng hòa.

(2) Trên thực tế, tháng 9/1950 Tổng thống Mỹ Harry Truman đã cử một Phái bộ Cố vấn Quân sự (Military Assistance Advisory Group - MAAG) đến Việt Nam để trợ giúp quân viễn chinh Pháp trong cuộc chiến tranh Đông Dương chống lại những người Việt Minh. Phái bộ này không thực hiện nhiệm vụ như những quân nhân chiến đấu mà chỉ giám sát việc sử dụng các trang thiết bị quân sự viện trợ của Mỹ trị giá 10 triệu đô la.

Sau Hiệp định Geneve 1954, quân Pháp rút khỏi Việt Nam. Để giúp những người Việt chống Cộng, chính phủ Mỹ đã quyết định viện trợ quân sự của Mỹ sẽ chuyển trực tiếp cho chính phủ Ngô Đình Diệm, khi đó số cố vấn tại MAAG đã tăng lên đến 740 người.
Viện trợ quân sự của Mỹ tăng nhanh chóng từ 50 triệu đô la (1959) lên đến 144 triệu đô la (1961).

Bộ chỉ huy Viện trợ Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam (The US Military Assistance Command, Vietnam), viết tắt là MACV, được thành lập vào tháng 2/1962, về danh nghĩa là cơ quan chỉ huy quân sự toàn bộ các lực lượng quân sự Mỹ tại Việt Nam, nhưng trên thực tế, có quyền hạn chỉ huy về mặt quân sự của toàn bộ các lực lượng quân sự của Hoa Kỳ, Việt Nam Cộng hòa và các đồng minh tại Nam Việt Nam.

Văn phòng Tùy viên Quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, tên chính thức là Defense Attaché Office (DAO) được Hội đồng Tham mưu trưởng Liên quân Hoa Kỳ được thành lập tháng 1/1973. Đây là một cơ quan thống nhất phụ trách các tuỳ viên quân sự Hoa Kỳ tại Việt Nam, đồng thời quản lý việc hiện diện của quân đội Mỹ tại Việt Nam sau khi ngừng bắn.

(3) Có thể nói, tại Việt Nam, hippy chỉ là một phong trào có tính cách thời trang trong khi tại Mỹ hippy là cả một chiến dịch phản chiến qua đủ mọi hình thức: ca nhạc, tư tưởng, lối sống… Phong trào Hippy bắt đầu từ năm 1967 với một đại hội nhạc trẻ Summer of Love được tổ chức trong 3 ngày (16, 17 và 18/6/1967) tại Monterey, phía bắc tiểu bang California, cách San Francisco không xa.

San Francisco (Be Sure to Wear Flowers in Your Hair) là bài hát tiêu biểu của đại nhạc hội do John Phillips viết và ca sĩ Scott McKenzie trình diễn với ca từ:

If you're going to San Francisco,
be sure to wear some flowers in your hair...
If you're going to San Francisco,
you're gonna meet some gentle people there

Thành phố San Francisco được xem là cái nôi của Hippy sau đó lan rộng đến các thành phố New York, Los Angeles, Philadelphia, Seattle, Portland, Washington, D.C., Chicago, Miami, Montreal, Toronto, Vancouver, và qua tận Châu Âu.