Không có lý ông Hoàng Như Tùng, chỉ
huy trưởng quân y viện Phan Thanh Giản (Cần Thơ, 1975), lại lấy tư liệu từ sách của ông
Trần Mai Hạnh. Ông Hoàng Như Tùng nộp diễn văn của ông cho Hội Nhà Văn Việt Nam
chưa biết chừng cũng ẵm được giải thưởng văn xuôi.
Hồi ký của Nguyễn Tấn Phận kể lại
thời điểm cựu tổng thống Nguyễn Văn Thiệu chuẩn bị ra đi như sau:
Thấy mọi việc
đã sẵn sàng, Tổng thống Thiệu vội vã rút trong hộc tủ ra cây Browning đã lắp đầy
đạn, ông khóa chốt an toàn rồi cho vào túi áo.
Xong xuôi ông bấm interphone gọi Sĩ quan Tùy viên trực lúc đó là HQ Đại úy Trần
Anh Tuấn. Ông đưa cho Đại úy Tuấn một gói quà nhỏ và ra lịnh, “ Chú mang cái hộp
này qua cụ Hương. Nếu không gặp Cụ thì ngày mai đem qua cũng được. Nhớ đừng mở
ra.” Có lẽ ông đã gọi thẳng Tổng thống Hương nên biết cụ còn đang bận tiếp Đại
sứ Pháp, ông Jean-Marie Mérillon, nên mới dặn Đại úy Tuấn như vậy.
Từ phải qua, Tổng Thống Nguyễn văn Thiệu, đang chỉ tay, Đại sứ Hoa Kỳ Ellsworth
Bunk, giữa, Phò TT Nguyễn Cao Kỳ, áo bay đen, dịp đại sứ Bunker thăm Việt Nam
năm 1969. Photo Larry Burrows/Time Life magazine
Khi ông và Đại úy Tuấn vừa bước ra khỏi phòng thì lúc đó Đại sứ Mérillon cũng vừa
từ phòng làm việc của Tổng thống Hương bước ra. Thấy vậy ông Thiệu cùng với Đại
úy Tuấn đi qua tận văn phòng, trao cái hộp quà này cho Tổng thống Hương. Trao
quà xong, Tổng thống Thiệu và Đại úy Tuấn quay trở về bên cánh trái. Khi tới cầu
thang máy, anh cận vệ bấm nút mở cửa cầu thang. Trước khi bước vào, ông Thiệu
xoay lại dặn Đại úy Tuấn, “ Tôi đi qua nhà Đại tướng ăn cơm rồi trở về, chú khỏi
đi theo.” Ông lanh lẹ bước vào thang máy. bấm nút tầng trệt.
Đại úy Tuấn vì thấy có nhiều sinh hoạt khác thường, dự đoán là hôm nay ông Thiệu
sẽ đi. Muốn để cho ông yên tâm nên cả buổi chiều anh cố tìm cách lánh mặt và mỗi
lần theo ông đi đâu, anh đi cách xa ông.
Tại tầng trệt, khi cánh cửa cầu thang mở ra thì Đại tá Điền đã túc trực tại đó.
Tổng thống Thiệu vừa bước xuống bậc tam cấp thì cũng vào lúc hai anh cận vệ xuất
hiện, Sanh và Khình vừa đến để đổi gác, làm ông giật mình. Tổng thống Thiệu và
Đại tá Điền lanh lẹ bước vào xe. Đại tá Điền ngồi bên phải của Tổng thống Thiệu
ở băng sau; Đại tá Điền ngồi vào chỗ ngồi chánh thức của Tổng thống Thiệu – Trần
Thanh Điền muốn làm Lê Lai cứu Chúa! Vừa ngồi vào xe, Tổng thống Thiệu liền hỏi
Đại tá Điền, “ có mấy cây súng? ” Đại tá Điền đáp, “có hai cây: một cây dài, một
cây ngắn.” Đại tá Thiệt lập tức đạp ga cho xe chạy vòng qua sân cỏ, lướt ngang
qua thềm đại sảnh, rồi tiến thẳng ra cổng chánh là đầu đại lộ Thống Nhất.
Năm 2000 tôi
đã phác thảo xong cuốn sách này lần đầu tiên. Cuốn sách này có 19 chương, tôi
đã xong 18 chương, còn 1 chương cuối cùng chưa xong, là chương “Phút sụp đổ của
Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và tắt thở của chính thể Việt Nam Cộng hòa”.
Một khả năng là ông Nguyễn Tấn Phận đã xem được bản phác thảo của ông Trần Mai Hạnh.
Hai là bản phác thảo của ông Trần Mai Hạnh chỉ mới hoàn thành trong khoảng thời
gian đâu đó giữa 2008 và 2015.
(VOV5) - Nhà xuất
bản chính trị Quốc gia - Sự thật vừa ra mắt bạn đọc cuốn tiểu thuyết tư
liệu lịch sử "Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75" phiên bản tiếng Anh của
nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh.
Những tài liệu nguyên bản được xem là tuyệt mật ở thời điểm trước năm
1975 của phía Việt Nam Cộng hoà và Hoa Kỳ cùng những tư liệu tác giả
viện dẫn trong cuốn sách gắn với sự kiện lịch sử trọng đại của đất nước
có độ chính xác và tin cậy cao. Đây là cuốn sách vừa có giá trị về văn
học, vừa có giá trị về lịch sử và báo chí.
Bìa cuốn “Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75” – Phiên bản tiếng Anh.
Nghe âm thanh bài viết tại đây:
Phóng viên: Thưa nhà báo, nhà văn Trần Mai Hạnh, giữa cuốn tiểu thuyết
"Biên bản chiến tranh 1-2-3-4. 75" và sự kiện lịch sử trưa 30/04/1975 ở
Dinh Độc Lập có mối quan hệ rất khăng khít. Ông là nhà báo chứng kiến và
viết bài tường thuật đầu tiên về giờ phút lịch sử ấy, xin ông cho biết
sự kiện này liên quan gì đến sự ra đời của cuốn sách?
Ông Trần Mai Hạnh: Sự kiện lịch sử ấy cực kỳ
quan trọng và nó quyết định sự ra đời của cuốn sách vì hai lý do. Một là
tôi được chứng kiến giờ phút lịch sử đó, viết bài tường thuật đầu tiên
về nó. Và cũng tại giờ phút lịch sử ấy tôi bừng thức lên suy nghĩ là sự
kiện lịch sử chỉ diễn ra có một lần, và mỗi ngày, sự kiện lịch sử ấy sẽ
xa đi và sẽ bị lớp bụi thời gian phủ mờ đi. Từ đó, tôi mới nảy sinh suy
nghĩ là phải phục dựng lại những giờ phút lịch sử về sự sụp đổ của chính
quyền Sài Gòn diễn ra cụ thể như thế nào.
Phóng viên: Tại sao cuốn tiểu thuyết tư liệu chiến tranh lại có
nhiều tư liệu, chi tiết chính xác từng ngày, từng giờ đến như vậy. Cơ
duyên nào đã giúp ông tiếp cận được với kho tư liệu tuyệt mật này?
Ông Trần Mai Hạnh: Phía sau của cuốn "Biên bản chiến tranh 1-2-3-4.75"
là cả một câu chuyện cũng rất ly kỳ, thậm chí là đầy tính tiểu thuyết,
có thể viết thành một cuốn sách. Có thể nói là do cơ may và cơ duyên
lịch sử.
Tôi tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh từ đầu, với tư cách là đặc phái viên
của TTXVN. Tôi rất may mắn khi có mặt ở Dinh Độc lập trưa 30/04/1975
vào giờ phút lịch sử đó.
Khi đó, tôi là đặc phái viên TTXVN đi theo nhà báo Đào Tùng nên được đi
theo, tiếp xúc, gặp gỡ tất cả những cơ quan quan trọng nhất trong giờ
phút đầu của giải phóng tôi tiếp cận được với các tài liệu. Tôi đánh máy
lại hết tất cả những gì thu thập được. Sau 2 tháng ở Sài Gòn, khi tôi
ra Hà Nội trên đường biển, toàn bộ ba-lô của tôi đầy một balo tài liệu
và chiếc máy chữ.
Rồi sau giải phóng, phía Mỹ triệu tập tất cả tướng lĩnh Sài Gòn thoát
chạy ra nước ngoài để bắt viết tường trình lại toàn bộ cuộc chiến những
ngày cuối cùng. Tất cả những tài liệu đó, Trung tâm Lịch sử quân sự Lục
quân Hoa Kỳ lấy lại, in thành sách tiếng Anh để giảng dạy trong các
trường quân sự của Mỹ. Tôi đã mượn được những tài liệu đó được dịch sang
tiếng Việt để nghiên cứu.
Năm 2000 tôi đã phác thảo xong cuốn sách này lần đầu tiên. Cuốn sách này
có 19 chương, tôi đã xong 18 chương, còn 1 chương cuối cùng chưa xong,
là chương "Phút sụp đổ của Bộ Tổng Tham mưu quân đội Sài Gòn và tắt thở
của chính thể Việt Nam Cộng hòa". Tôi chưa tìm được tài liệu gốc của
những tướng, lính quân đội Sài Gòn những ngày cuối cùng ở Bộ Tổng tham
mưu họ viết, họ kể lại. Nhưng cuộc sống là cơ duyên. Một Đại tá tình báo
được phân công làm nhiệm vụ hỏi cung tất cả những tướng ở Sài Gòn từ
cấp Đại tá trở lên, có cậu con trai học vợ tôi dạy văn. Anh là người
cũng máu mê viết lách, nên trên bàn cung ghi chép, anh có đặt tờ giấy
than để lấy lại một bản làm tư liệu để viết. Tất cả những lời khai đó là
có hết. Khi chúng tôi gặp nhau đã nảy sinh ra ý định hợp sức tài liệu
lại, viết một cuốn tiểu thuyết "Bộ Tổng tham mưu quân đội Sài Gòn ngày
cuối chiến tranh".
Nhà văn Trần Mai Hạnh chụp lưu niệm cùng bà Nguyễn Kim Nga, Trưởng ban Biên tập sách quốc tế
Phóng viên: Ngoài việc
gom tư liệu, trình bày và sắp xếp tư liệu thì công sức sáng tạo của tác
giả như thế nào để đảm bảo tính chân xác và thuyết phục?
Ồng Trần Mai Hạnh: Đầu tiên có
người nói cuốn sách này là tư liệu báo chí, không phải văn học, tôi mới
nói rằng ở đây tác giả đã phải hóa thân hoàn toàn sang phía bên kia để
dựng lại hoàn toàn. Tác giả có mặt trong tất cả các phiên họp, tất cả
các mặt trận, tất cả các quyết định, tất cả các suy tư của các tướng
lĩnh, thậm chí cả trong các phát biểu để dựng nên. Hóa thân như là hư
cấu rồi.
Nếu tôi in cuốn sách đó từ năm 2002 thì đã không ai nhắc đến cuốn sách
nữa. Bởi vì sao? Vì khi ấy tôi viết vẫn với ý thức địch - ta, vẫn cứ bên
cách mạng và bên phản cách mạng, vẫn người chiến thắng và kẻ thất bại.
Tuy nhiên, chiến tranh là điều không ai muốn cả. Hòa bình là niềm khát
khao của nhân loại. Hòa bình là vô giá. Trong tôi rung lên một nỗi xúc
động sâu xa về thân phận con người, khát vọng hòa bình của con người,
những chuân chuyên mà con người phải trải qua. Và tôi quyết định viết
lại cuốn sách này với ánh sáng hoàn toàn khác, đi đến tận cùng của sự
thật. Sự thật không bị bất cứ thiên kiến chủ quan nào chi phối. Không
phải thắng trận thì viết thế nào cũng được, thua trận muốn giải thích ra
sao cũng được. Sự thật là sự thật và thời gian sẽ trả lại sự thật cho
về sự thật.
Phóng viên: Sự tiết chế của người viết và sự logic trong câu chuyện như thế nào, thưa ông?
Ông Trần Mai Hạnh: Cái logic ở
đây là mình phải tìm đến tận cùng của sự thật. Ví dụ trong cuộc họp ở
Cam Ranh, phải tìm được tất cả những người có mặt trong cuộc họp đó,
người ta phát biểu như thế nào. Sau này ra nước ngoài, khi viết hồi ký,
khi trả lời phỏng vấn các báo, những người đó đều nói cả, mình phải nhặt
tất cả những cái đó. Rồi có những người bị giam giữ trong trại cải tạo
họ tường trình lại.
Quân đội Sài Gòn cũng rất quân phong quân kỷ. Khi thất bại rút chạy,
Thiệu lệnh cho tất cả các tướng lĩnh chạy về đều phải viết tường trình
cụ thể giờ phút sụp đổ như thế nào, trách nhiệm của cá nhân ra làm sao.
Tất cả tướng lĩnh viết hai bản, một bản nộp cho Thiệu, một bản nộp cho
Cao Văn Viên. Nên trưa 30/04, khi quân giải phóng vào, trên bàn Cao Văn
Viên còn đầy đủ tất cả những bản tường trình của tất cả các tướng lĩnh.
Nhờ thế mà tôi mới viết nổi cuốn sách này, chứ không làm sao mà dựng
được chính xác đến như thế. Cái hay của tác giả là tác giả có tất cả các
cái tường trình ấy mà không một nhà báo nào có được.
Phóng viên: Được biết
đây là cuốn sách đạt giải thưởng văn học nghệ thuật đầu tiên của Hội Nhà
văn được tổ chức dịch sang tiếng Anh và xuất bản từ trong nước ra nước
ngoài. Ông có thể chia sẻ gì về sự ra đời của cuốn "Biên bản chiến tranh
1-2-3-4.75" phiên bản tiếng Anh?
Ông Trần Mai Hạnh: Cuốn sách
này kỳ lạ lắm. Cuốn sách này đã được Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự
thật in. Gần như cuốn sách này có số phận của nó, nó tự cất bước, không
phụ thuộc vào ý định của tác giả. Tôi không đi thi, nhưng cuốn sách của
tôi đã được giải thưởng của Hội Nhà văn Việt Nam năm 2014 và tôi cũng
không thể ngờ được cuốn sách được Giải thưởng văn học các nước ASEAN năm
2015. Ở Giải thưởng ASEAN 2015, một số chương cuốn sách này được dịch
sang tiếng Anh được mọi người rất quan tâm. Nhiều đơn vị mong muốn mình
dịch sang tiếng Anh để rồi từ tiếng Anh người ta dịch sang tiếng của họ
như Indonesia, Malaysia... nhiều thứ tiếng. Ngày 04/01/2016, Ban Chấp
hành Hội Nhà văn Việt Nam ra quyết định dịch tác phẩm "Biên bản chiến
tranh 1-2-3-4.75" sang Anh ngữ để giới thiệu với bạn đọc thế giới về
cuộc chiến gian khổ và những khát vọng hòa bình của nhân dân Việt Nam.
Tôi nghĩ rằng giá trị lịch sử của cuốn sách, sự hi sinh của rất nhiều con người đã nâng bước cho cuốn sách.
VOV.VN - Bài tham luận của nhà văn Trần Mai Hạnh tại
Hội thảo “Đổi mới tư duy tiểu thuyết” do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức
ngày 28/2/2018 tại Hà Nội.
LTS: Khai
thác đề tài lịch sử để xây dựng tác phẩm văn học là vấn đề không chỉ
giới văn chương mà đông đảo dư luận quan tâm. Tạp chí Lý luận Phê bình
của Hội đồng Lý luận-Phê bình Văn học Nghệ thuật Trung ương số ra tháng
4/2018 đăng bài tham luận của nhà văn, nhà báo Trần Mai Hạnh tại Hội
thảo “Đổi mới tư duy tiểu thuyết” do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức ngày
28/2/2018 tại Hà Nội. Bài tham luận có tiêu đề “Về một cách nhìn lịch sử
trong tiểu thuyết đương đại”. VOV.VN xin giới thiệu với bạn đọc.
Nhà văn, nhà báo Trần Mai Hạnh tham luận tại Hội thảo đổi mới tư duy tiểu thuyết.
1. Lịch sử trong dòng chảy tiểu thuyết đương đại
Tôi
may mắn được tham gia Chiến dịch Hồ Chí Minh, có mặt tại Dinh Độc Lập
trưa 30-4-1975, chứng kiến và viết bài tường thuật đầu tiên về những giờ
phút lịch sử trọng đại của dân tộc. Ngay trong giờ phút huy hoàng ấy,
tôi bỗng nhận ra rằng, những sự kiện lịch sử vừa diễn ra, phút chốc đã
trở thành quá khứ, và sẽ ngày một lùi xa trong lớp bụi thời gian. Có một
học giả đã cảnh báo rằng: "Chúng ta cần phải có các chứng cứ về vật
chất để củng cố các tuyên bố của mình. Chúng ta phải cảnh giác trước
rằng, trí nhớ sẽ tàn tạ theo năm tháng, và con người ta có thể sẽ sử
dụng các ký ức mập mờ để khôi phục các sự kiện trở thành một câu chuyện
mà người ta muốn tin và muốn làm hài lòng người khác”.
Vì
vậy tôi nảy sinh ý tưởng phục dựng lại trung thực sự thật đã diễn ra
trong những ngày tháng sụp đổ cuối cùng của Việt Nam Cộng hòa (chính
quyền Nguyễn Văn Thiệu) bằng chính những tài liệu nguyên bản tuyệt mật
về cuộc chiến của phía bên kia (phía Việt Nam Cộng hòa và phía Hoa Kỳ).
Sau hàng chục năm truy tìm, tập hợp, đối chiếu, sàng lọc tư liệu, trong
đó có những tài liệu nguyên bản tuyệt mật để xây dựng nên cuốn “BIÊN BẢN
CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75”, cách nhìn về các sự kiện lịch sử của tôi dần
định hình theo thời gian, và gói lại trong ít dòng in ở bìa 4 cuốn sách
như sau:
“Những sự kiện lịch sử chỉ diễn ra một
lần, cũng như đời mỗi con người chỉ sống có một lần. Nhưng để hiểu hết
chân giá trị của lịch sử, để hiểu đúng một con người lại cần có thời
gian, nhiều khi không thể chỉ đánh giá một lần. Lịch sử và cuộc sống
luôn là một dòng chảy liên tục, bất tận. Trong cuộc sống hiện tại ngày
hôm nay có nền tảng và những giá trị tinh thần vô giá của quá khứ, đồng
thời nó cũng chứa đựng mầm mống và sức sống mãnh liệt của tương lai”.
Và tôi nghĩ, cũng tương tự như vậy,
trong dòng chảy của tiểu thuyết đương đại hôm nay chứa đựng cả những vấn
đề của QUÁ KHỨ (lịch sử), những vấn đề của HIỆN TẠI và cả những vấn đề
cùng những ước vọng, dự cảm của TƯƠNG LAI.
2. Sự thật - niềm tin lịch sử
Vậy, nhìn nhận, đánh giá sự kiện lịch
sử, xây dựng tác phẩm văn học lấy đề tài từ các sự kiện lịch sử cần dựa
trên những nguyên tắc căn cốt nào? Từ thực tế xây dựng cuốn “BIÊN BẢN
CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75”, tôi nhận thấy:
Thứ nhất-Phải tôn trọng sự thật khách quan của lịch sử: Lịch
sử là tự nó viết ra – đó chính là sự thật. Lịch sử không phải do bên
thắng trận muốn nói thế nào cũng được, và bên thua trận muốn giải thích
thế nào cũng xong. Điều cốt lõi của lịch sử chính là sự thật. Sự thật
lịch sử không hề bị hoen gỉ bởi thời gian, nó thách thức những mưu toan
xuyên tạc, bóp méo của con người. Sự thật cuối cùng rồi cũng trở về với
sự thật. Phục dựng sự thật sụp đổ của Việt Nam Cộng hòa (chính quyền
Nguyễn Văn Thiệu) trong 4 tháng cuối cùng của chiến tranh trong khuôn
khổ một cuốn tiểu thuyết tư liệu lịch sử, tôi quan niệm rằng, trước hết
sự sụp đổ đó phải được minh chứng bằng các tài liệu nguyên bản tuyệt mật
về cuộc chiến, các văn bản gốc, những bức điện chỉ huy tác chiến, nhân
chứng của các sự kiện lịch sử thuộc phía bên kia chứ không phải do nhà
văn tưởng tượng, hư cấu ra.
Nói như
vậy không có nghĩa là hạ thấp giá trị sáng tạo, khả năng dung tưởng
phong phú của nhà văn. Mà trái lại, nếu không có khả năng sáng tạo và
dung tưởng phong phú, thì dù tài liệu có đầy đủ đến đâu cũng không thể
xây dựng nên một cuốn tiểu thuyết có giá trị. Chỉ có điều khả
năng sáng tạo, hư cấu của nhà văn phải hướng tới việc khắc họa trung
thực và nâng tầm sự thật của các sự kiện lịch sử chứ không phải xuyên
tạc, bóp méo, đổi trắng thay đen các tình tiết, các sự kiện và các nhân
vật của lịch sử nhằm phục vụ ý đồ riêng của mình.
Thứ hai-Phải chinh phục niềm tin của người đọc: Những
sự kiện , tình tiết, nhân vật thuộc về một phần của lịch sử mà nhà văn
xây dựng trong tác phẩm của mình, trước hết phải là sự thật. Đó không
phải là sản phẩm của trí tưởng tượng, hư cấu, bịa đặt. Niềm tin vào sự
thật của người đọc sẽ tạo nên niềm tin vào lịch sử. Một tác phẩm viết về
đề tài lịch sử của dân tộc mà bị dư luận và người đọc cho rằng – thậm
chí chứng minh rõ ràng rằng đó là bịa đặt, là xuyên tạc lịch sử, tác
phẩm đó đương nhiên thất bại. Không thể đùa nghịch, bỡn cợt với lịch sử.
Không thể lên mặt với lịch sử, tùy tiện sửa chữa, nhào nặn lịch sử theo
ý đồ riêng của mình nhằm giáo huấn cuộc sống hôm nay.
Thứ ba-Viết về đề tài lịch sử đương đạiphải rất khắt khe về sự thật: Trong
trường hợp cụ thể của tôi là cuốn “BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75”
viết về cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước hàng triệu người trực tiếp
tham gia, thì đương nhiên tác phẩm phải chịu sự kiểm nghiệm vô cùng khắt
khe về sự thật và về tính chân thật. Trong thời đại công nghệ thông tin
bùng nổ, toàn cầu là một thế giới phẳng, công cụ Google trợ giúp đắc
lực cho người đọc tra cứu tìm hiểu, và trong ma trận tham chiến của mạng
xã hội, những sự kiện, tình tiết trong tác phẩm mà tác giả muốn người
đọc tin là sự thật cần phải có bằng cứ vững chắc lắm mới có thể đứng
vững được.
Một ví
dụ, trong tác phẩm của tôi có tất cả 273 nhân vật, từ Tổng thống Nguyễn
Văn Thiệu, tới các thành viên chính phủ, tướng lĩnh Bộ Tổng tham mưu,
các quân binh chủng, Quân đoàn, Sư đoàn xuống tới cấp tiểu đoàn, đại
đội và các cấp chính quyền địa phương đều phải chính xác cả về tên họ và
chức phận của từng người. Không chỉ chính xác họ, tên mà còn cả chữ lót
nữa. Chỉ cần sai một chữ thôi lập tức bị phản ứng.
Ví dụ Phó
Tổng thống Nguyễn Cao Kỳ mà viết là Phó Tổng thống Nguyễn Văn Kỳ thì
tác phẩm sẽ đổ luôn. Khi miêu tả Phước Long thất thủ, tôi viết: “Mặc dù
lúc ấy đang cữ gió đông bắc khô hanh, nhưng không hiểu sao đúng ngày
Phước Long thất thủ, những cơn mưa xối xả đã đổ xuống cả Phước Long và
Sài Gòn”. Để độc giả không cho rằng tác giả bịa ra cơn mưa cho tình hình
thêm bi đát lâm li, tôi đã phải trích thêm một câu: “ Nhận định về dị
biệt này của thời tiết, một tờ báo của Sài Gòn ngày ấy đã viết: Dường
như ngay cả ông trời cũng rơi nước mắt khóc cho Phước Long” (Tr.9). Thế
có nghĩa là cơn mưa thật - chính xác tới cả cơn mưa.
Thứ tư-Yêu cầu về tính chân thật của các sự kiện lịch sử mà tác phẩm đề cập đến là gì?
Đó, tựu chung có thể là:
a.Sự kiện, tình tiết lịch sử đó đúng là đã diễn ra.
b.Sự thật về các con người, kể cả hành
động, tâm trạng, tính cách, thậm chí cả ngôn ngữ giao tiếp khi họ tham
gia vào các sự kiện, tình tiết lịch sử đó
c. Sự thật về bối cảnh đa chiều của cuộc sống trong không gian sự kiện lịch sử đó diễn ra.
d-Sự thật về những tác động tức thì, kể cả hệ lụy lâu dài (nếu có) của sự kiện lịch sử đó.
Khi đã truy tìm, sưu tầm đầy đủ tài liệu
từ rất nhiều nguồn, kể cả ở trong nước và ở ngoài nước, kể cả phía Việt
Nam Cộng hòa và phía Hoa Kỳ, tôi đã hóa thân sang phía bên kia để xây
dựng nên “Biên bản chiến tranh” mà mình ôm ấp. Phải dựng lại chi tiết,
sống động các phiên họp tuyệt mật của Hội đồng an ninh quốc gia của
Thiệu cũng như của Bộ tư lệnh các Quân đoàn, Sư đoàn; việc chỉ huy tác
chiến cũng như diễn biến tháo chạy hỗn loạn tại các mặt trận…Muốn phục
dựng mà không được tận mắt chứng kiến, đương nhiên tôi phải dùng sự dung
tưởng mạnh mẽ và phong phú của nhà văn. Nhưng tất cả sự dung tưởng đó
đều dựa trên căn cứ của những tài liệu nguyên bản tuyệt mật và những bản
văn tin cậy của phía bên kia.
”BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75” có lẽ
là cuốn tiểu thuyết đầu tiên dưới mỗi chương đều ghi chú kỹ càng các
nguồn tài liệu mà tác giả viện dẫn, sử dụng để xây dựng nên chương sách
đó. Điều đó có tác dụng chinh phục niềm tin sự thật – niềm tin lịch sử
của người đọc. Tôi suy nghĩ rất rõ ràng rằng: Nếu không tôn trọng sự
thật, đem quan điểm chính trị chủ quan của mình áp đặt vào các sự kiện,
sự việc và tình tiết, trình bày nó theo mong muốn của mình, thì cuốn
tiểu thuyết tư liệu lịch sử đó sẽ hỏng hoàn toàn, cuộc sống sẽ đào thải
nó ngay. Trong gần 600 trang sách, tôi không chen bất cứ nhận xét, bình
luận cá nhân nào, hoàn toàn không có sự hiện diện của tác giả, tự nội
dung tác phẩm với những tài liệu gốc, bản văn và các cứ liệu tin cậy
viện dẫn nói lên tất cả.
3. Không gian 4 chiều của Biên bản chiến tranh
Không ai được phép độc quyền về cách
nhìn, cách phán xét cũng như cách thức xây dựng tác phẩm văn học từ các
sự kiện lịch sử của dân tộc. Nhưng chỉ có điều, bất kể từ góc độ nào,
cách nhìn nào, người viết cũng phải tôn trọng sự thật lịch sử, góp phần
làm bật lên sự thật và giá trị của các sự kiện và tình tiết quan trọng
của lịch sử. Trong “BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75” tôi đã sử dụng
không gian 4 chiều để soi rọi làm rõ sự thật, bật lên ý nghĩa quan trọng
của các sự kiện và tình tiết lịch sử. Tác phẩm chỉ phục dựng sự sụp đổ
của chính quyền Sài Gòn bằng chính các tài liệu tuyệt mật và bản văn tin
cậy của phía bên kia, không nhắc tới Đảng Cộng sản Việt Nam và Quân
Giải phóng, nhưng áp lực của Quân Giải phóng vẫn đè nặng trong toàn bộ
tác phẩm và chính sự sụp đổ tan tành của cả một thể chế tay sai (chính
quyền Sài Gòn được Mỹ nuôi dưỡng) đã làm nổi bật chiến thắng vĩ đại của
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước dưới sự lãnh đạo sáng suốt và tài
tình của Đảng ta. Ví dụ sự kiện Phước Long thất thủ, được nhìn nhận dưới
4 chiều ánh sáng như sau:
a-Chiều thứ nhất từ phía chính quyền Sài
Gòn: Chính Thiệu thừa nhận và giải thích tại cuộc họp khẩn cấp Hội đồng
an ninh quốc gia rằng mất Phước Long là một thất bại nghiêm trọng nhưng
không đủ sức chiếm lại Phước Long, có chiếm lại cũng không thể giữ được
(Tr.7)
b-Chiều thứ hai từ phía Mỹ: Mỹ cho tàu
Hạm đội 7 hùng hổ tiến về vùng biển Việt Nam, báo động khẩn cấp căn cứ
thủy quân lục chiến của Mỹ ở Ôkinaoa nhưng không dám hành động. Đại sứ
Mỹ thông báo với Thiệu: “Việc yểm trợ của Hoa Kỳ lúc này là chưa được
phép”.
c-Chiều thứ ba từ áp lực đè nặng của
Quân Giải phóng do chính phía Sài Gòn thừa nhận. Bộ Tổng tham mưu báo
cáo với Thiệu là 20 máy bay của không quân Sài Gòn đã bị tên lửa Sam7
của quân đội miền Bắc bắn hạ ở Phước Long.
d-Chiều thứ tư là những phân tích, đánh giá về sự kiện Phước Long thất thủ của các chính khách và báo chí trên thế giới.
Không gian 4 chiều như một sân bóng đá
giúp việc soi rọi, đánh giá kỹ càng, sâu sắc sự thất thủ Phước Long của
quân đội Sài Gòn nói riêng và các sự kiện, tình tiết lịch sử khác trong
cuốn sách dưới đủ các góc độ.
4. Quả cảm trước sự thật lịch sử - nhân văn trước số phận con người
Viết về sự kiện lịch sử đương đại, “BIÊN
BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75” chịu sự phán xét từ rất nhiều phía – phía
chúng ta (những người chiến thắng); phía chính quyền Sài Gòn và phía Hoa
Kỳ (những người thất bại); sự xung đột về ý thức hệ và chính giới nhiều
nước từng quan tâm, từng là đồng minh của Hoa Kỳ và chính quyền Sài Gòn
v.v.v Vì vậy, những sự kiện và tình tiết nếu không đúng sự thật trong
tác phẩm sẽ lập tức chịu sự phản ứng gay gắt. Trưa 27-4-2017, ngay sau
Lễ kỷ niệm 42 năm Ngày Giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước và ra
mắt Phiên bản tiếng Anh cuốn “BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75” do Đài
Tiếng nói Việt Nam , Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Sự thật và Hội Nhà
văn Việt Nam tổ chức, hãng thông tấn và Đài phát thanh nước ngoài đã lập
tức phỏng vấn tác giả, nêu lên những tranh cãi về cuộc chiến. Bài phỏng
vấn của BBC tiếng Việt dài 3 trang khổ A4 tôi đã in kính gửi Chủ tịch
Hội Nhà văn Việt Nam Hữu Thỉnh để báo cáo. Vì vậy nhà văn phải có tinh
thần quả cảm trước sự thật lịch sử, phải nắm chắc các chứng cứ để sẵn
sàng đương đầu bảo vệ sự thật các sự kiện và tình tiết lịch sử mà mình
đã xây dựng, viện dẫn trong tác phẩm.
Do một tai họa nghề nghiệp, từ đỉnh vinh
quang bỗng rơi vào tình cảnh bi thảm của số phận, tôi mới thực sự thấm
thía, ngộ ra rất nhiều điều, và có điều kiện suy ngẫm, nhìn nhận cuộc
sống một cách điềm tĩnh và thấu đáo. Có những đêm chợt thức, tôi bừng
tỉnh nhớ lại dọc đường chiến dịch, từ Huế đến Tây Nguyên, Sài Gòn tôi đã
chứng kiến bao câu chuyện đau thương của con người. Những xác chết chưa
phân huỷ hết dọc đường chiến dịch. Có bà mẹ ôm xác con, chạy bộ di tản
theo quân đoàn 2 từ Pleiku xuống tận Tuy Hòa, suốt ba ngày đêm cứ ôm
xác con chạy vì không tìm được chỗ chôn con. Cũng là đồng bào mình chứ
ai? Mình có nên viết về những điều đó bằng sự lạnh lùng, hả hê của người
thắng trận không, hay viết với sự cảm thông sâu sắc với thân phận con
người trong chiến tranh. Tôi đã chọn cách thứ hai, phục dựng sự sụp đổ
trong những ngày tháng cuối cùng của chính quyền Sài Gòn với cái nhìn
điềm tĩnh, khách quan, không thiên kiến, nhân văn trước số phận những
người thuộc phía bên kia, đảm bảo sự trung thực của ngòi bút trước các
sự kiện, sự việc, tình tiết đã diễn ra.
Với việc thẩm định và xuất bản, Nhà xuất
bản Chính trị quốc gia - Sự thật, cơ quan xuất bản chính trị của Đảng
và Nhà nước đã cấp giấy khai sinh cho “ BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75”
đi vào đời sống với số phận của nó. ..
5. Giá trị văn học và giá trị lịch sử
Một cuốn tiểu thuyết lịch sử ra đời sẽ
chịu sự phán xét của dư luận về cả giá trị văn học và giá trị lịch sử
của nó. Đạt được cả giá trị văn học và giá trị lịch sử hài hòa trong
tác phẩm là điều mong ước của bất cứ nhà văn nào. Tôi mong muốn “BIÊN
BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75” có giá trị văn chương, nhưng trước hết nó
phải có giá trị vững chắc về sự thật các sự kiện, tình tiết lịch sử và
số phận các nhân vật mà tác phẩm đề cập đến. Bởi lẽ, nếu giá trị sự
thật về các sự kiện lịch sử mà tác phẩm đề cập tới bị đổ vỡ thì đương
nhiên giá trị văn chương cũng không còn đất sống.
Trong ba năm, “BIÊN BẢN CHIẾN TRANH
1-2-3-4.75” được tái bản 4 lần với số lượng lớn, không kể những lần in
nối bản và được dịch sang tiếng Anh giới thiệu với bạn đọc thế giới.
Bạn đọc đón nhận “BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75” trước hết vì giá trị
sự thật, tính chân thật của các sự kiện, tình tiết và nhân vật lịch sử
được phản ánh, xây dựng trong cuốn sách rồi mới đến phẩm chất văn chương
của tác phẩm.
Khi bắt đầu xây dựng cuốn tiểu thuyết tư
liệu lịch sử này, ngay khi chiến dịch Hồ Chí Minh kết thúc thắng lợi,
tôi đã hiểu rằng, dù dữ dội và đau đớn đến đâu, cuộc chiến tranh nào rồi
cũng qua đi. Những năm tháng khổ đau, máu và nước mắt của bất cứ bên
tham chiến nào cũng không bao giờ bị lãng quên và tất yếu trở thành một
phần của lịch sử. Nhưng lịch sử không yên nghỉ, mà nó luôn thức với ánh
sáng chiếu rọi mách bảo chúng ta cần phải làm gì trong cuộc đấu tranh
bảo vệ những phẩm giá tốt đẹp của hiện tại và tương lai trong một thế
giới đang lên cơn sốt, trĩu nặng âu lo vì những tham vọng, chiến tranh
và xung đột.
Tôi viết “BIÊN BẢN CHIẾN TRANH
1-2-3-4.75” ngay cả trong những giờ phút đắng cay của số phận, và phát
biểu tại cuộc Tọa đàm về “Đổi mới tư duy tiểu thuyết” theo lời mời của
Hội Nhà văn Việt Nam hôm nay, cũng chính từ những suy nghĩ ấy.
Một lần nữa tôi xin bày tỏ niềm biết ơn
sâu sắc tới Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam đã quyết định trao Giải
thưởng Văn học của Hội cũng như đề cử trao Giải thưởng Văn học ASEAN cho
“BIÊN BẢN CHIẾN TRANH 1-2-3-4.75” và quyết định tổ chức dịch tác phẩm
sang Anh ngữ.
VOV.VN -Hội nhà văn VN đã trao giải nhất văn học
cho cuốn tiểu thuyết Biên bản chiến tranh 1-2-3-4-75 - của nhà báo Trần
Mai Hạnh. (https://vov.vn/van-hoa/van-hoc/nha-bao-tran-mai-hanh-chia-se-ve-bien-ban-chien-tranh-1-2-3-475-755734.vov)