Friday, 24 October 2014

Địa danh ở Nam Bộ nhìn từ phương diện ngôn ngữ (Cao Tự Thanh)

Địa danh ở Nam Bộ nhìn từ phương diện ngôn ngữ


Hình thành và phát triển trên một địa bàn có hoàn cảnh địa lý và lịch sử mang nhiều nét đặc thù, các địa danh Việt Nam ở Nam Bộ cũng phản ảnh một lịch sử văn hóa đặc biệt. Phương thức hội tụ ở một địa bàn đa dân tộc có sự giao tiếp nội bộ mạnh mẽ trên nền tảng đều kiện giao thông thuận lợi và kinh tế hàng hóa phát triển đã dẫn tới việc hình thành hệ thống địa danh phong phú mà phức tạp ở vùng này.
Nhìn từ phương diện ngôn ngữ, hệ thống địa danh Nam Bộ chủ yếu bao gồm các địa danh gốc Việt, gốc Việt Hán, gốc Khmer Việt hóa, trong đó mảng địa danh hành chính thời phong kiến phần nhiều là từ Việt Hán hay được Việt Hán hóa để đáp ứng các yêu cầu chuẩn hóa trong công văn của chính quyền, vì lúc ấy người Việt vẫn dùng chữ viết Hán Nôm. Việc Việt Hán hóa này phát triển mạnh từ đầu thế kỷ XIX, sau khi đất nước được thống nhất trở lại và dần dần được chuẩn hóa dưới đời Minh Mạng (1820 – 1840). Nhưng việc Vũng Tàu thành Thuyền Úc, Hòn Đất thành Thổ Sơn, Tháp Mười thành Thập Tháp, Thang Trông thành Vọng Thê, Gò Đen thành Ô Nguyên rồi Hắc Khâu, sông Bến Lức thành Lật Giang, Mặt Dòn thành Hầu Diện, thậm chí rạch Mỏ Cày cũng trở thành Lê Đầu tiểu giang (Lê = cái cày, Đầu = mỏ) đã làm không ít nhà nghiên cứu bối rối. Trong quyển Cours d’histoire annamite (à l’usage des écoles de la Basse – Cochinchine) viết lại lịch sử Việt Nam bằng tiếng Pháp khoảng 1877, Trương Vĩnh Ký đã chép lại các địa danh Khố Sơn tức núi Kho ở Bình Định, Chủ Sơn tức núi Chúa ở Phú Yên bị các sử thần nhà Nguyễn Việt Hán hóa kiểu này, nhưng vì bản in tiếng Pháp không có dấu thanh điệu nên các địa danh nói trên đã biến thành Khô Sơn, Chu Sơn… Tuy nhiên việc dịch ra chữ Hán các địa danh thuần Việt như vậy còn ít nhiều có nguyên tắc để người ta có thể truy nguyên, chứ trong nhiều trường hợp ghi lại các địa danh gốc Khmer Việt hóa bằng chữ Nôm thì ngay cả người bản địa cũng có khi chết dở, như Ca Mao ghi âm Cà Mau, Sa Đích ghi âm Sa Đéc, Thuyết Nột ghi âm Thốt Nốt… Cũng phải kể tới mảng “chữ Nôm của người Hoa” để ghi âm các địa danh thuần Việt như Tây Cống (đọc như Xì Coóng) để ghi âm Sài Gòn, Thủ Long Mộc (đọc như Thủ Lùng Mục) để ghi âm Thủ Dầu Một, Ná Điều (đọc như Lá Thèo) để ghi âm Lái Thiêu, Đầu Đốn (đọc như Tàu Túng) nửa ghi âm nửa dịch địa danh Vũng Tàu. Lối nửa dịch nửa ghi âm này cũng khá phổ biến trong thư tịch Hán Nôm của người Việt nên Rạch Giá thành Giá Khê (Giá = Giá, Khê = Rạch), Quãng Dài thành Trường Uyển (Trường = Dài, Uyển = Quãng), cầu Biện Trẹt thành Biện Kiều. Trong một số trường hợp, các địa danh được văn bản hóa kiểu này còn bị sai lệch bởi ngữ âm Nam Bộ, như Nước Xoáy được dịch là Hồi Oa trong các văn bản chữ Hán, nhưng trong các thế kỷ trước người Việt ở Nam Bộ thường đọc hoa, qua, oa thành một âm mài mại như qua duy nhất, nên có khi Hồi Oa bị ghi là Hồi Qua trong các văn bản quốc ngữ latinh. Đây là chưa nói tới các văn bản tiếng Pháp cũng làm sai lệch một số địa danh Nam Bộ, như Đất Hộ thành Dakho rồi Đakao, Chí Hòa thành Cihoa rồi Kỳ Hòa… Ngoài ra cách đọc âm Việt Hán chịu ảnh hưởng Minh âm, Thanh âm của người Nam Bộ cũng khiến nhiều nhà nghiên cứu phía bắc vốn quen đọc theo Đường âm đọc sai các địa danh và nói rộng ra là cả nhân danh Việt Hán ở Nam Bộ, như Phước An đọc là Phúc Yên, Nhựt Tảo đọc là Nhật Tảo, Võ Tánh, Ngô Nhơn Tịnh, Trương Tấn Bửu đọc là Vũ Tính, Ngô Nhân Tĩnh, Trương Tiến Bảo… Đáng tiếc là hiện nay dường như nhiều người nghiên cứu vẫn chưa chú ý đúng mức tới những trường hợp loại này.

Bước qua thời Pháp thuộc, khi người Việt dùng chữ quốc ngữ latinh thì các địa danh kể cả địa danh hành chính là từ gốc Việt và gốc Khmer Việt hóa ở Nam Bộ tăng lên. Chữ quốc ngữ latinh đã đưa tới cách đọc thống nhất về địa danh và cả nhân danh Nam Bộ, nên không ai lầm Hàm Luông ra Hàm Long, Huỳnh Tấn Phát thành Hoàng Tiến Phát nữa. Nhưng mặc dù chữ Hán đã không còn được sử dụng như chữ viết chính thức của quốc gia song tư duy ngôn ngữ Việt Hán vẫn còn đậm nét trong sinh hoạt xã hội, nên từ 1975 trở đi người ta thấy xuất hiện những địa danh hành chính như tỉnh Minh Hải dù rằng không ai nói trong Hán tự thì đó là chữ minh nào (sáng, tối, kêu, khắc…). Ở một dạng thức khác hơn, có người lại đi tìm hiểu ý nghĩa của những địa danh Việt Hán xuất hiện trong thế kỷ XX như Long An, rồi kết luận Long An được viết với Long là hưng thịnh và An là yên ổn. Tỉnh Long An được thành lập theo Sắc lệnh số 143 – NV ngày 22. 10. 1956 của chính quyền Ngô Đình Diệm, muốn biết chính xác hai chữ Long An được viết bằng mã chữ Hán nào thì phải hỏi Ngô Đình Diệm, vì trong Hán tự có ít nhất 8 chữ Long và 8 chữ An khác nhau. Cũng có thể nghĩ rằng Ngô Đình Diệm đã muốn dùng chữ Long An với ý nghĩa hưng thịnh yên ổn, nhưng sự hưng thịnh yên ổn đối với chính quyền Ngô Đình Diệm cũng đồng nghĩa với việc tiêu diệt hết những người kháng chiến cũ ở Tân An và Chợ Lớn lúc ấy, vậy thì những chuyện vô vị như vậy cần gì phải thảo luận lăng nhăng?
Tháng 5. 2007
_____

Lẽ ra nói chuyện địa danh thì không nên nói chuyện khác lạc đề, nhưng trên blog thì lăng nhăng chút chút cũng được.
Tức là vì muốn Việt Hán hóa nên dưới đời Minh Mạng rất nhiều danh từ thuần Việt được “chuẩn hóa”, nhưng gọi trái lòn bon là Nam trân, mù u là Nam mai, cây bần là Thủy liễu, cá rô là Quá sơn ngư… thì cũng còn được. Có điều nhiều danh từ được Việt Hán hóa trước đó rất tùy tiện, Đậu xanh là Thanh đậu, đậu đen là Hắc đậu thì hợp lý, nhưng khế là Dương đào (đào Tây dương), mãng cầu Xiêm là Phật đầu lê (lê đầu sư) thì bắt đầu khó rồi nha.

Đâu khoảng 1983, 1984 đọc cuốn Lịch sử khẩn hoang đồng bằng Nam Bộ gì đó do ông Huỳnh Lứa chủ biên, thấy có một bài viết nông dân Nam Bộ trước kia trồng đủ loại đậu như đậu xanh đậu đen đậu đỏ vân vân, chuyện đó bình thường, nhưng lại thấy thêm Đậu hợp hoan, giật nảy mình xong phì c
ười suýt sặc nước trà lên mũi. Mấy bữa sau tới thư viện lại tình cờ gặp y, mới hỏi Đậu hợp hoan là đậu gì, y cũng rất thành thật nói Tôi thấy trong Đại Nam Nhất thống chí viết như thế thì chép như thế chứ thật tình là không biết. Bèn chìa luôn quyển Cấn Trai thi tập của Trịnh Hoài Đức vừa mượn ra, hỏi phải mấy chữ Hợp hoan đậu này không, thấy y ú ớ bèn nói Thưa anh đó là trái me…

Tại sao người làm nghề buôn bán được gọi là thương nhân?

Thương nhân là từ mượn tiếng Hán , vốn nghĩa là người nước Thương. Dưới thời nhà Thương, hoạt động kinh tế đã khá phát triển, nhu cầu trao đổi sản phẩm làm nảy sinh một bộ phận dân cư sống bằng nghề buôn bán. Khi nhà Thương bị mất về tay nhà Chu, quý tộc cũ của nhà Thương bị tước đoạt đất đai, không còn cơ sở bảo đảm quyền lực kinh tế và chính trị. Thương nhân, tức người nước Thương, khi ấy chỉ có thể làm nghề buôn bán để nuôi thân. Về sau, người đi buôn không chỉ có người nước Thương nhưng từ thương nhân vẫn được dùng để chỉ hạng người này.

Thursday, 16 October 2014

Về cây đuốc sống Lê Văn Tám (Trần Trọng Tân - Sài Gòn Giải Phóng)

Nhân ngày 17 tháng 10
Về cây đuốc sống Lê Văn Tám
Thứ năm, 16/10/2008, 23:56 (GMT+7)
Trong bài “Một tháng đứng đầu sóng ngọn gió không thể nào quên” đăng trên Báo Sài Gòn Giải Phóng ngày 23-9-2008, tôi có viết:

“Đêm 17-10, thiếu niên Lê Văn Tám được anh Lê Văn Châu tổ chức, đã tình nguyện bí mật đột nhập vào bên trong, mang theo diêm và xăng, đã đốt được kho đạn rất lớn của Pháp, gần cầu Thị Nghè. Khi rút lui bị dính xăng, bén lửa, đã cháy thành một cây đuốc sống, nêu tấm gương sáng ngời của thiếu niên Việt Nam xả thân vì nước”.

Đọc bài báo đó, có người gọi điện thoại cho tôi biết rằng, họ đã đọc một số sách, được xuất bản trong dịp kỷ niệm 300 năm Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh thì chỉ có ghi một trận đánh vào kho đạn Thị Nghè vào ngày 8-4-1946. Trong trận này không thấy nêu “Cây đuốc Lê Văn Tám”. Có người đã gửi cho tôi một tài liệu được lấy trên mạng thông tin điện tử, trong đó giáo sư Phan Huy Lê đã tiết lộ: “Nhân vật lịch sử anh hùng Lê Văn Tám hoàn toàn không có thật”.

Giáo sư Phan Huy Lê còn cho biết, tiết lộ ra chuyện này là để trả món nợ với ông Trần Huy Liệu. Sau Cách mạng Tháng 8-1945, ông Trần Huy Liệu đã tự viết về nhân vật Lê Văn Tám, một thiếu nhi tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng giặc Pháp ở Thị Nghè. Ông Liệu đã nói với ông Lê rằng: “Sau này khi đất nước yên ổn, các anh là nhà sử học, các anh nên nói lại giùm tôi, lỡ khi đó tôi không còn nữa”. Những năm sau năm 1945, ông Liệu đã giữ chức Viện trưởng Viện Sử học Việt Nam và đã mất năm 1969. Giáo sư Lê cũng đề cập đến chi tiết phi lý trong chuyện này là: “Cậu bé Lê Văn Tám, sau khi tẩm xăng vào người và tự châm lửa đốt, vẫn còn khả năng chạy từ ngoài vào kho xăng với quãng đường 50 mét. Tôi đã hỏi một số bác sĩ và họ cho rằng với sức nóng của lửa xăng, một em bé không thể chạy xa như vậy”.

Về phần tôi, khi viết về sự kiện “Cây đuốc sống Lê Văn Tám”, tôi đã tìm hiểu từ cuốn “Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975) của Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh, xuất bản năm 1994. Chỉ đạo nội dung cuốn sách này là Ban tổng kết chiến tranh của Thành ủy Đảng Cộng sản Việt Nam thành phố Hồ Chí Minh. Chủ biên là đồng chí Trần Hải Phụng (nhiều năm làm Tư lệnh các lực lượng vũ trang của Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định) và đồng chí Lưu Phương Thanh (phụ trách nghiên cứu lịch sử Đảng). Theo sách này thì đánh kho đạn Thị Nghè có hai lần. Lần thứ nhất vào ngày 17-10-1945 và lần thứ hai vào ngày 8-4-1946.

Về trận thứ nhất, ở trang 63 của sách này có ghi:

“Ngày 17-10-1945, tại mặt trận phía Bắc, quân ta phục kích ở cầu Tham Lương đánh lui đoàn xe của địch gồm 8 chiếc chở lính có xe thiết giáp yểm trợ, hành quân lên Hóc Môn, ta phá hủy 5 xe và diệt một số tên. 10 giờ, kho đạn Thị Nghè nổ dữ dội. Đây là kho chứa bom đạn từ bến tàu bốc lên, đặt tại khu đường Docteur Angier (nay là đường Nguyễn Bỉnh Khiêm) cạnh vườn thú, được bố trí hệ thống phòng thủ nghiêm ngặt, xung quanh kho có hào sâu, tường cao 2 mét, chăng kẽm gai và hệ thống tháp canh, có đèn quét ban đêm. Một đại đội Âu Phi thường xuyên tuần tra canh gác.

Đội viên cảm tử Lê Văn Tám mới 13 tuổi, được giao nhiệm vụ giả câu cá, cắt cỏ ở bến sông để quan sát. Đêm 17-10 (1945) Tám tự quyết định một mình đánh kho đạn, lừa bọn lính gác, lọt vào ẩn nấp bên trong với chai xăng và bao diêm. Buổi sáng, chờ lúc sơ hở, em tưới xăng vào khu vực chứa đạn và châm lửa. Lửa cháy loang, một tiếng nổ long trời, kéo theo hàng loạt tiếng nổ liên tiếp, làm rung chuyển cả thành phố. Lê Văn Tám bị dính xăng bắt lửa, tự biến mình thành cây đuốc sống, đã hy sinh anh dũng. Kho bị phá hủy hoàn toàn. Đài phát thanh phía bên kia đường bị sập một phần lớn. Đại đội Âu Phi bảo vệ bị tiêu diệt.

Gương hy sinh của em bé “đuốc sống” trở thành một hình tượng tiêu biểu cho tinh thần yêu nước, chiến đấu quên mình của thiếu niên nhi đồng trong những ngày đầu chống Pháp”. Ngày 19-10-1945, Báo Cứu Quốc có bình luận: “Trận Thị Nghè ghi vào chiến sử Việt Nam”. Theo sách “Lịch sử Sài Gòn - Chợ Lớn - Gia Định kháng chiến (1945 - 1975)”, ở trang 108, thì kho đạn này còn bị đánh lần 2 vào ngày 8-4-1946 và báo Tin Điễn ra ngày 9-4-1946 đưa tin: “Một tai nạn dữ dội... Kho đạn Sài Gòn (đường Docteur Angier, tả ngạn kênh Avalanche) phát nổ. Tai nạn có thể kéo dài đến nhiều ngày”.

Sự kiện trận đánh ngày 17-10-1945 với “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” còn được nêu cụ thể hơn trong tập II bộ sách “Mùa thu rồi ngày hăm ba” của Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia Hà Nội năm 1996, ở trang 67:

“Đêm ngày 17-10-1945, đội viên cảm tử Lê Văn Tám dũng cảm đốt kho đạn Thị Nghè (người tổ chức cho Lê Văn Tám thực hiện chiến công này là anh Lê Văn Châu đã hy sinh năm 1946 tại Ngã ba Cây Thị). Kho đạn bị phá hủy hoàn toàn.

Đài phát thanh bên kia đường bị sập một phần lớn, đại đội Âu Phi bảo vệ bị tiêu diệt… (viết theo tư liệu của Ban Tuyên huấn Quận ủy Bình Thạnh)”.

Với các tư liệu như đã nêu trên thì có thể khẳng định: Đánh kho đạn Thị Nghè có 2 lần vào ngày 17-10-1945 và ngày 8-4-1946; trận ngày 17-10-1945 với “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” là có thực; Lê Văn Tám đã đốt kho đạn, không phải kho xăng; Lê Văn Tám không phải “tự tẩm xăng vào người và chạy vào đốt kho xăng” mà “đã lừa bọn lính gác, lọt vào ẩn nấp bên trong với chai xăng và bao diêm chờ lúc sơ hở, em tưới xăng vào khu vực chứa đạn và châm lửa. Lê Văn Tám bị dính xăng bắt lửa thành “cây đuốc sống”; người tổ chức, bày kế hoạch cho Lê Văn Tám làm là anh Lê Văn Châu, đã hy sinh trong trận đánh giặc Pháp ở Ngã ba Cây Thị năm 1946.

Việc xác định rõ như trên, có ý nghĩa quan trọng vì ở nhiều nơi đã có công viên, trường học, tượng đài, đường phố mang tên Lê Văn Tám. Tại Đền tưởng niệm liệt sĩ ở Bến Dược, Củ Chi, “Cây đuốc sống Lê Văn Tám” đã được trân trọng tôn vinh.

Với sự kiện “Cây đuốc sống Lê Văn Tám”, ngày 17-10 hàng năm đáng là ngày cho nhân dân ta, đặc biệt là cho tuổi trẻ nước ta tưởng niệm. 
TRẦN TRỌNG TÂN

Wednesday, 1 October 2014

Chủ tịch Hồ Chí Minh chẳng lẽ lại trẻ con như thế?



Dựa vào các tư liệu đã được công bố, thấy
HCM chỉ một lần duy nhất viết bài kỷ niệm ngày quốc khánh của nước CHNDTH – ngày 28/9/1959, nhân chuyến thăm TQ đồng thời kỷ niệm 10 năm ngày thành lập nước Cộng hòa công nông lớn nhất thế giới. Kể từ đó, cho đến khi từ biệt thế giới này, Chủ tịch HCM không bao giờ gửi thư hay điện mừng để chúc mừng quốc khánh nước CHND Trung Hoa.
2. Suốt 10 năm trời, Chủ tịch HCM chỉ một lần bàn về cách mạng TQ trong một bài viết nhân kỷ niệm 40 năm ngày thành lập Đảng CSTQ, tháng 7/1961. ở bài viết này (báo Nhân Dân, 1/7/1961, số 2.658), Hồ Chủ tịch cho biết Người đã hai lần đứng trong hàng ngũ Đảng CSTQ. Một lần trong những năm 1924-1927, với chức danh là “tuyên truyền đối ngoại”, viết bài về Đảng CSTQ cho một bài báo bằng chữ Anh và, một lần, vừa là binh nhì trong Bát lộ quân, vừa là Bí thư chi bộ của một đơn vị ở Hành Dương (HCM, TT, T.10, tr. 365-368. NXB CTQG, H. 2002). Có một bài viết nữa về TQ nhưng đó lại là bài Trả lời Thư của các đảng phái dân chủ, các nhân sĩ dân chủ không đảng phái và Hội liên hiệp công thương TQ (T.11, tr.385).
3. Một điểm rất cần được nhấn mạnh là trong bài viết duy nhất về cách mạng TQ, Bác Hồ đã thẳng thắn ca ngợi chuyến thăm Mỹ của Tổng Bí thư ĐCS Liên Xô N. Khruchov: “cuộc đi thăm nước Mỹ của đồng chí Khơrútsốp (in liền trong nguyên bản, T.9, tr.511-512, sic) càng làm cho nhân loại tiến bộ nức lòng phấn khởi và tăng thêm tin tưởng vào sự nghiệp bảo vệ hòa bình thế giới”. Hầu như ai cũng biết TQ luôn gọi Khruchov là "xét lại" và Liên Xô là "đế quốc xã hội". Thế nhưng, Hồ Chủ tịch vẫn thẳng thắn ca ngợi mối quan hệ Xô - Mỹ - nghĩa là không hề ngần ngại khi đụng chạm vào điều “khó nói” của các nhà lãnh đạo Trung Hoa!
Rồi từ đó tán rằng:
Như vậy, nếu chúng ta đối chiếu với 4 bài viết về TQ trong 3 năm 1922-1924 so với một bài trong 10 năm thì sẽ thấy - hiểu khá rõ rằng, trong quan điểm của HCM, có không ít những điều Người (tuy không nói rõ ra) không đồng tình với cung cách hành xử của các nhà lãnh đạo Bắc Kinh. Cách nhìn mẫn tiệp và sắc sâu ấy là điều mà chúng ta cần nghiên cứu và học tập. Không ngẫu nhiên mà những năm 1959-1969 là những năm TQ đang ủng hộ rất nhiều về cả tinh thần và vật chất cho cuộc kháng chiến của nhân dân ta mà Chủ tịch HCM đã “quên” việc gửi thư cảm ơn hay điện mừng nhân dịp quốc khánh? Cách “quên” của thiên tài HCM buộc chúng ta phải suy nghĩ và, buộc tất cả những nhà nghiên cứu quan tâm tới vấn đề phải nhìn nhận một cách khách quan hơn, đúng đắn hơn.
... thì thật là quá đáng.
Không có gì bảo đảm rằng tất cả các văn bản ký tên Hồ Chí Minh đều đã được [phép] công bố đầy đủ, chính xác. Cứ nhớ lại chuyện năm bảy dị bản của di chúc thì đủ thấy sự thận trọng này không phải là thừa.

Wednesday, 10 September 2014

Sự lệch lạc nhận thức và thái độ vô trách nhiệm (Hồng Quang - Nhân Dân)


Thứ hai, 26/08/2013 - 09:30 PM (GMT+7)
[+] Cỡ chữ: Mặc định    
 Khi các thủ đoạn, luận điệu chống phá và sự dối trá của các thế lực thù địch cùng một số tổ chức, cá nhân thiếu thiện chí với sự phụ họa, cổ vũ của BBC, RFA, RFI,... ngày càng trở nên trơ tráo, trắng trợn thì thật đáng tiếc, là có người do sự hời hợt về lý luận và thiếu tinh thần trách nhiệm đối với sự phát triển đất nước, lại tạo cơ hội cho họ vu cáo, xuyên tạc, bình luận tiêu cực về Ðảng, Nhà nước và sự nghiệp cách mạng của nhân dân Việt Nam...

Gần đây, ông X công bố trên internet mấy bài viết nhằm "thanh toán, tính sổ cuộc đời của mình, trang trải những món nợ còn lại", rồi dựa trên lý luận về "cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng" để kêu gọi "lập thêm các đảng đối lập với Ðảng Cộng sản Việt Nam"! BBC, RFA, RFI... vội chớp lấy cơ hội khai thác, công bố các tin tức, bình luận, qua đó càng thấy rõ tâm địa đen tối của mấy cơ quan truyền thông này trong khi liên tục cổ vũ, quảng bá các hành vi chống đối Ðảng Cộng sản Việt Nam (ÐCS Việt Nam), Nhà nước Việt Nam. Sự kiện trở nên rùm beng hơn khi ông Y lên tiếng ủng hộ qua bài viết có tính chất hô hào, kêu gọi "phá xiềng"! Hẳn vì không tin cậy những điều hai ông công bố, Ngô Nhân Dụng - người Mỹ gốc Việt và là cây bút chống cộng cực đoan, phải đăng trên nguoi-viet bài báo đề nghị "Ông Y cần đổi cách suy nghĩ"; rồi đăng tiếp một bài nữa để "báo động" và khẳng định đó là điều "rất nguy hiểm, không phải là cách suy nghĩ trong xã hội dân chủ"! Trên danlambao - website ra đời chỉ để chống phá Việt Nam, người có bút danh là Tâm-8x xem đây là "bước đi khá phiêu, đầy nguy hiểm, không những cho chính người tuyên bố mà cũng gián tiếp gây nguy hiểm cho những người theo nó ở cả trước mắt lẫn lâu dài... Thiên thời - địa lợi - nhân hòa đều không có thì sự ra đời của tổ chức này không chết yểu thì cũng xem là lạ"! Trên internet, ý kiến của ông X còn gặp phản ứng mạnh mẽ hơn nhiều. Nên, có lẽ cần lý giải tại sao khi đã qua tuổi "nhi nhĩ thuận" mà ông lại có phát ngôn để nhận được những đánh giá không có gì đáng tự hào, thí dụ: "tín đồ cuồng tín của chủ nghĩa xét lại", "kẻ "đổ nước chân tường" chế độ", "lộ mặt phản trắc", "trò bịp bợm", "quay ngược lại "chà đạp" lên lý tưởng một thời mà bản thân ông từng theo đuổi", "một sự ngụy biện không hơn không kém, không có thực tiễn nào chứng minh cho sự nhận thức lại mà chẳng qua là sự phản bội", "một kẻ hô hào đa nguyên, đa đảng mà chẳng hiểu gì về thực chất đa đảng ở những nước vẫn vỗ ngực tự xưng dân chủ phương Tây",...!?
 Nhân danh người từng là "giảng viên Triết học và Chủ nghĩa xã hội khoa học", từ tiền đề "Về phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin mà tôi hiểu được, có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó", ông X kết luận... "không thể không đa nguyên đa đảng"! Chỉ với tiền đề này, ông đã bộc lộ sự ấu trĩ, hời hợt. Vì, nếu thật sự am hiểu, ông phải biết ba bộ phận cấu thành Chủ nghĩa Mác - Lê-nin là: Triết học Mác - Lê-nin (gồm chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử), Kinh tế chính trị Mác - Lê-nin, Chủ nghĩa xã hội khoa học. Do đó, muốn bàn về các vấn đề có ý nghĩa phương pháp luận của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin, phải dựa trên thành tựu nghiên cứu của ba bộ phận cấu thành, không thể lấy quan hệ cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng - một nội dung của Chủ nghĩa duy vật lịch sử, thay thế cho tất cả. Nếu muốn sử dụng phạm trù hình thái kinh tế - xã hội để bác bỏ một thực tế, ông phải phân tích từ những quan hệ có tính quy luật như: biện chứng giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, biện chứng giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, không thể cứ viết: "có một điều cơ bản là cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.) như thế nào thì phản ảnh lên thượng tầng kiến trúc như thế đó" là sẽ giải quyết xong vấn đề! Rồi nữa, cơ sở hạ tầng là "tổng hợp những quan hệ sản xuất hợp thành cơ cấu kinh tế của một xã hội nhất định", nội hàm này không tương ứng với điều ông viết: "cơ sở hạ tầng (bao gồm cơ sở xã hội, cơ sở kinh tế, v.v.)". Bàn về lý luận mà không nắm được nội hàm khái niệm, ông đã bộc lộ sự hời hợt, ấu trĩ rất đáng trách. Trả lời phỏng vấn BBC ngày 17-8, về cách hiểu của ông X với quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng từ đó suy ra... "không thể không đa nguyên đa đảng" (!), GS, TSKH Vũ Minh Giang coi đây là "suy luận logic hình thức", nhận xét này là rất chính xác. Triết học Mác - Lê-nin khẳng định, trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định, cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng là hai mặt thống nhất biện chứng, trong đó cơ sở hạ tầng quy định kiến trúc thượng tầng và kiến trúc thượng tầng có tác động trở lại đối với cơ sở hạ tầng, đặc biệt kiến trúc thượng tầng có tính độc lập tương đối... Xem xét quan hệ này như quan hệ cơ giới, hoặc bị chi phối bởi logic hình thức, thì chỉ có thể đưa tới kết cục là xuyên tạc lý luận, đẩy lý luận vào xu hướng sai lạc, xa rời thực tiễn, làm rối loạn nhận thức chung. Căn cứ vào ý kiến chủ quan, cảm tính của ông có thể nói: hoặc là ông không biết tri thức của mình còn hạn chế, hoặc là ông cố gồng lên để nói những điều ông không hiểu?
 Vấn đề "đa nguyên, đa đảng" mà ông hô hào, về lý luận, dân chủ không đồng nghĩa với đa nguyên, không phải có đa nguyên là có dân chủ. Dân chủ hay không phụ thuộc vào vai trò làm chủ của nhân dân, vào lý tưởng và bản chất của đảng cầm quyền. Mọi phân tích chứng minh tam quyền phân lập là mô hình cần áp dụng ở Việt Nam chỉ là một trong các thủ đoạn để đạt tới mục đích phủ nhận, xóa bỏ vai trò lãnh đạo của ÐCS Việt Nam và Nhà nước CHXHCN, dọn đường cho sự "lên ngôi" của các thế lực coi dân chủ, nhân quyền chỉ là chiêu bài phục vụ cho tham vọng chính trị. Nhiều lần có phóng viên về thăm Tổ quốc, được tự do tác nghiệp từ nam ra bắc, được trực tiếp chứng kiến, tiếp xúc, tìm hiểu, trong Thư Tòa soạn ngày 21.8, trang Việt Weekly - tờ báo của người Mỹ gốc Việt, đã viết: "Những du khách thế giới đến Việt Nam có cảm giác đây là một quốc gia khá tự do. Các giới hạn nhân quyền thường liên quan đến vấn đề bảo vệ an ninh trong một xã hội mà mức độ phát triển còn ở trạng thái sơ khai hơn là có tính cách cố tình đàn áp người dân. Có thể nói chính quyền Việt Nam đang cố gắng ngày càng mở rộng mức độ tự do người dân mà không đánh mất khả năng kiểm soát an ninh xã hội. Phần lớn những nỗ lực đánh phá Việt Nam về mặt nhân quyền bắt nguồn từ những đoàn thể chính trị ở nước ngoài mang động cơ muốn giành một chỗ đứng trong hệ thống quyền lực chính trị ở Việt Nam. Có nghĩa rằng, nhân quyền chỉ là một chiêu bài chính trị, hơn là một quan tâm có thực chất". Nhận xét này có điều rất thú vị là một nhà báo từ nước ngoài về nước tác nghiệp đã lập tức phát hiện bản chất của vấn đề, bắt mạch được bản chất các phát ngôn, hành động của mấy "nhà dân chủ", "người yêu nước" vẫn được tung hô trên internet!
 Ðể khách quan hơn, xin dẫn lại một số ý kiến mà chắc chắn mấy người đang quảng bá "đa nguyên, đa đảng" ở Việt Nam sẽ không thể bác bỏ, vì ý kiến đó ra đời chính từ đất nước mà họ ngưỡng vọng: "Thực chất Mỹ là một chế độ độc đảng, và cái đảng cầm quyền là đảng kinh doanh", "Nghề "quan hệ công chúng" (PR) được phát minh ở đâu? Ở các xã hội tự do nhất thế giới, tại Mỹ và Anh. Và lý do? Vì ở các nước tự do, khó kiểm soát người dân bằng cách trực tiếp áp đặt quyền lực. Cho nên phải kiểm soát kiểu khác: bằng cách tác động vào ý kiến, vào quan điểm, thái độ của người dân. Trong các xã hội tự do, vấn đề là đưa đầu óc con người vào quy định" (N. Chomsky); "Hệ thống chính trị Hoa Kỳ đã tạo ra hai đảng lớn mạnh nhất, thường xuyên thay nhau nắm giữ hành pháp, lập pháp. Do đó muốn được thắng cử, ứng cử viên phải là đảng viên của một trong hai đảng Dân chủ và Cộng hòa. Ứng viên độc lập hoặc của các đảng khác rất khó thắng trong cuộc đua vào quốc hội, và càng không thể tranh thắng trong cuộc tranh cử tổng thống. Ðiều này đã giới hạn rất nhiều cơ hội của ứng viên các đảng nhỏ, hay nói khác đi, cơ hội thắng cử của người dân tranh cử với tư cách độc lập, hoặc là đảng viên các đảng nhỏ rất ít, nếu không muốn nói là zéro. Chưa kể ứng viên phải được đảng ủng hộ, chi tiền, giúp vận động tiền bạc để quảng cáo đánh bóng tên tuổi. Nhìn ở khía cạnh đó, nền dân chủ Hoa Kỳ được xây dựng trên tiền bạc, quảng cáo và đã bị "đấu thầu", thương mại hóa!... Người ta thường trích dẫn câu nói của Tổng thống A.Lincohn chính phủ của dân, do dân, vì dân để nhấn mạnh vai trò nhà nước trong nhu cầu phục vụ quần chúng. Thế nhưng càng ngày xã hội Hoa Kỳ có vẻ càng xa rời tiêu chí ấy. Những nhóm lợi ích và những người vận động hành lang, đa số là làm việc cho các tổ chức tài phiệt luôn tìm cách ảnh hưởng đến quyết định của các dân cử, từ địa phương đến trung ương. Họ tìm cách tặng tiền bạc với danh nghĩa góp quỹ tranh cử, tặng của cải vật chất, tài trợ các chuyến du hí, ăn chơi, v.v., đổi lại, các dân cử phải bỏ phiếu ủng hộ cho mục tiêu của các nhóm lợi ích kia, nhiều phần là có lợi cho thiểu số và bất lợi cho đa số. Ðây chính là các cuộc đổi chác chứ không phải phục vụ" (Tạ Dzu, danchimviet, 08.11.2010)...
 Nhân quyền là các quyền cơ bản của con người mà mọi xã hội văn minh phải tôn trọng. Trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, và ngày nay là những bước đi vững chắc trên con đường đổi mới, dù còn gặp nhiều khó khăn, thách thức nhưng Ðảng và Nhà nước Việt Nam luôn tôn trọng, bảo đảm các quyền cơ bản của con người. Ðiều đó không chỉ thể hiện ở việc kiện toàn hệ thống pháp luật, chính sách về quyền con người, mà được cụ thể hóa qua hoạt động thiết thực, thể hiện sự tôn trọng, bảo vệ, thúc đẩy quyền con người, như bảo đảm quyền: tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do thông tin, tự do tôn giáo, tín ngưỡng, bảo đảm an sinh xã hội, chăm sóc y tế, xóa đói, giảm nghèo, giáo dục, quyền của các nhóm yếu thế và dễ bị tổn thương... Nhưng một số người đã quay lưng với sự thật đó, bằng các thủ đoạn bất lương, họ sử dụng nhân quyền làm công cụ để vu cáo, xuyên tạc chính sách của Ðảng, Nhà nước Việt Nam. Họ cố gán ghép "đa nguyên, đa đảng" với nhân quyền. Họ yêu cầu chống tham nhũng, nhưng khi Nhà nước triển khai các biện pháp chống tham nhũng thì họ xuyên tạc thành... "phe phái thanh toán nhau"! Họ la lối ở Việt Nam "không có tự do ngôn luận", nhưng hàng ngày họ vẫn lên internet để đưa ra các ý kiến sai trái! Ông X lặp lại luận điệu của họ, nhưng để biện hộ, ông lại viết một điều khiến phải kinh ngạc: "Con người khác con vật ở chỗ là có tự do. Tự do là thuộc tính của con người"! Ðó là một ý kiến hàm hồ. Bởi, tự do là ý niệm nảy sinh, phát triển cùng quá trình nhận thức của mỗi người về sự tồn tại của họ trong xã hội, về khả năng hành động theo ý chí, nguyện vọng của bản thân. Nếu hiểu thuộc tính là "đặc tính vốn có của một sự vật, nhờ đó sự vật tồn tại" thì không thể viết: "Tự do là thuộc tính của con người". Ðứa trẻ mới sinh cũng là con người, nhưng chưa có ý niệm về tự do. Ý niệm ấy chỉ nảy sinh, phát triển cùng đứa trẻ trong quá trình trưởng thành giữa cộng đồng. Tự do là nhận thức được cái tất yếu. Con người biết nhận thức về tự do, biết điều chỉnh suy nghĩ, hành động để tự do của chính mình không làm ảnh hưởng, hoặc gây tổn hại tới tự do của người khác và của cộng đồng. Lấy tự do làm tiêu chí phân biệt giữa con người với con vật, xét đến cùng chỉ là biểu thị cho thái độ coi thường văn hóa, cổ vũ cho "thói vô chính phủ" - vốn là các nguyên nhân chủ yếu làm rối loạn sự lành mạnh của xã hội.
 Nói đi thì như vậy, còn nói lại thì ai cũng biết, sai lầm và lạc bước là các khả năng luôn có thể xảy ra với con người nếu họ thiếu tỉnh táo trong nhận thức, hành động. Tuy nhiên, vấn đề quan trọng là ở chỗ con người sẽ suy nghĩ, nhận thức như thế nào để không tiếp tục sai lầm, lạc bước. Và chúng ta đã biết, dân tộc luôn rộng lượng với những người biết nhận ra sai lầm, biết dừng lại và trở về với dân tộc. Với ông X, ông Y hay bất kỳ người nào khác, trong một thời điểm nào đó đã có suy nghĩ lệch lạc thì nên xem xét lại. Như một blogger đã viết rất chân thành rằng: "cầu chúc cho ông mau bình phục sức khỏe, để tỉnh táo nhìn nhận mọi vấn đề, xin đừng lú lẫn nữa, đừng tự biến mình thành con cờ trên bàn cờ chính trị cho những thế lực ngoại bang, những kẻ phản bội dân tộc, phản bội nhân dân lợi dụng".


HỒNG QUANG

Tuesday, 2 September 2014

Đàn ông góa bụa được không?



Từ ngữ xưa gọi người đàn ông chết vợ là quan phu (鰥夫 ), người đàn bà chết chồng là quả phụ (寡婦), âm khác là góa bụa.
Cho đến Lê Văn Đức (1970a:) góa bụa vẫn là góa (chỉ dùng cho đàn bà). Nhưng ngay thời đó Lê Văn Đức (1970a:525) đã công nhận góa chỉ người có vợ hay chồng chết đều được.
Góagóa bụa hiện nay lại càng khác xa nghĩa gốc. Góa nói chung chỉ người có chồng hay vợ đã chết đều được nhưng chỉ nói về người ít nhiều còn trẻ (Hoàng Phê, 2006:408).  Góa bụa chính là góa chồng nhưng đôi khi cũng có thể chỉ người góa vợ (Hoàng Phê, 2006:408).

Monday, 1 September 2014

Hồi ức của một người thư ký (Đống Ngạc - Thanh Niên)


Thứ tư, 04 Tháng tư 2007, 23:19 GMT+7
  • Cỡ chữ

Hồi ức của một người thư ký


Hoi uc cua mot nguoi thu ky
Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc điếu văn truy điệu tại lễ tang Bác Hồ - Ảnh: Tư liệu
Tháng 6.1997, trên chuyến xe từ Tuy Hòa về Nha Trang, Bí thư Tỉnh Đoàn Khánh Hòa khi đó là Phan Thông cho tôi biết: Ông già phúc hậu ngồi ngay trước tôi là cựu thư ký của Tổng bí thư Lê Duẩn.
Tên ông là Đống Ngạc, sinh ngày 2.4.1925, quê Tam Kỳ, Quảng Nam. Tham gia cách mạng năm 1945 tại Huế, ông đã chiến đấu tại chiến trường Khánh Hòa trong những ngày đầu của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, sau làm công tác thanh niên rồi Bí thư Đoàn Thanh niên Cứu quốc khu V. Năm 1955, ông tập kết ra Bắc, từng đảm nhận chức vụ Chánh Văn phòng Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam, Ủy viên Thường vụ Ban Chấp hành Trung ương Đoàn Thanh niên Lao động Việt Nam (khóa II). Trong cuộc trò chuyện với tôi, ở ông luôn toát lên vẻ điềm tĩnh, cách diễn tả mạch lạc, khúc chiết và khiêm tốn...
* Xin ông cho biết, ông đã đến làm việc với Tổng bí thư Lê Duẩn vào lúc nào?
- Ông Đống Ngạc: Tháng 2.1962, tôi đang công tác tại Trung ương Đoàn thì được Ban Tổ chức Trung ương Đảng gọi giao nhiệm vụ mới: Hoặc chuyển sang công tác ngoại giao hoặc làm thư ký cho anh Ba Duẩn. Nghĩ mình không đủ khả năng làm hai việc này, hơn nữa lại có thời theo dõi phong trào thanh niên nông thôn, tôi đề đạt nguyện vọng xin chuyển sang công tác nông nghiệp. Nhưng đại diện Ban Tổ chức Trung ương Đảng cho biết không có con đường thứ 3. Cuối cùng tôi về Văn phòng Trung ương Đảng, giúp việc cho anh Ba.
Hoi uc cua mot nguoi thu ky
Ông Đống Ngạc (phải) và tác giả
* Thưa ông, hẳn ở người thư ký của Tổng bí thư phải có những khả năng đặc biệt?
- Ông Đống Ngạc: Không, tôi không có khả năng gì đặc biệt. Có lẽ tôi được chọn vào công việc này là do đã qua công tác văn phòng, có biết chút ít việc tổng hợp tình hình, ghi chép, biên tập.
* Làm thư ký cho Tổng bí thư không đơn giản, thưa ông?
- Ông Đống Ngạc: Dĩ nhiên là không đơn giản. Thời chống Mỹ, cả nước tiến hành hai chiến lược cách mạng khác nhau ở hai miền. Nhiệm vụ đó rất mới mẻ, nặng nề. Giúp việc Tổng bí thư có nhiều thư ký như các anh Trần Quỳnh, Đậu Ngọc Xuân và một số đồng chí nữa... Công việc rất nhiều và khẩn trương. Nên lúc nào chúng tôi cũng làm việc không kể ngày nghỉ. Làm thư ký là phải luôn luôn sẵn sàng, phải phục vụ vô điều kiện.
* Thưa ông, có khi nào thư ký đề đạt ý kiến với Tổng bí thư về những vấn đề "quốc gia đại sự"?
- Ông Đống Ngạc: Mọi đường đi, nước bước của cách mạng Việt Nam thời chống Mỹ đều xuất phát từ những bộ óc thiên tài Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, từ trí tuệ tập thể của Bộ Chính trị và Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Là người giúp việc, chúng tôi chỉ làm nhiệm vụ thể hiện ý tưởng của anh Ba dưới dạng văn bản. Viết là công việc chiếm nhiều thời giờ và công sức nhất. Trừ các diễn văn, báo cáo, các tác phẩm ra đời nhân các dịp lễ lớn, phải được biên tập một cách hoàn chỉnh, còn các bài nói khác của anh Ba, thường chúng tôi chuẩn bị theo kiểu gạch đầu dòng, nêu lên những ý chính. Sau khi anh Ba nói, chúng tôi mới biên tập lại. Để thể hiện chính xác ý tưởng của anh Ba, thư ký phải nắm được quan điểm của anh trong mỗi vấn đề...
* Thưa ông, điếu văn của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, do Bí thư thứ nhất Lê Duẩn đọc tại Lễ truy điệu Hồ Chủ tịch, từng làm xúc động hàng triệu trái tim đồng bào, chiến sĩ cả nước và bầu bạn năm châu. Vậy thư ký của Tổng bí thư có góp phần chấp bút áng văn bất hủ ấy?
- Ông Đống Ngạc: Tôi có tham gia chấp bút. Song điếu văn được viết và hoàn chỉnh theo sự chỉ dẫn của anh Ba và được Bộ Chính trị, Ban Bí thư góp ý kiến sửa chữa. Đó là sản phẩm trí tuệ của tập thể. Tôi nghĩ không nên nói về phần đóng góp của cá nhân.
* Điếu văn truy điệu Bác Hồ là một áng văn mang dấu ấn lịch sử. Việc ông tham gia chấp bút là một sự thật lịch sử, thiết nghĩ để cho mọi người biết về điều đó có gì là không nên, thưa ông?
- Ông Đống Ngạc (suy nghĩ hồi lâu): Viết điếu văn là việc quan trọng nhất trong các khâu chuẩn bị lễ tang Bác Hồ. Công việc đó đã được giao cho các cơ quan khác đảm trách. Tối 6.9.1969, khoảng 21 giờ 30, vừa đi họp Bộ Chính trị về nhà riêng, anh Ba cho gọi anh Đậu Ngọc Xuân và tôi lên phòng làm việc của anh. Đưa cho chúng tôi bản Di chúc của Bác Hồ và hai điếu văn dự thảo, anh bảo: "Hai bản này không được Bộ Chính trị thông qua. Hai chú giúp tôi chuẩn bị một điếu văn khác. Ngoài việc tôn vinh cuộc đời, sự nghiệp, công ơn trời biển của Bác, điếu văn cần nêu bật những tư tưởng lớn của Người để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thấu suốt và tiếp tục phấn đấu biến thành hiện thực.
Bác nêu cao chân lý "Không có gì quý hơn độc lập, tự do", lãnh đạo nhân dân ta đấu tranh đến cùng chống chủ nghĩa thực dân, đế quốc vì giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà.
Bác gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, dìu dắt đồng bào ta phấn đấu vì dân giàu nước mạnh, vì ấm no hạnh phúc của mọi người.
Bác dày công xây đắp khối đại đoàn kết dân tộc, kêu gọi toàn dân thực hiện, coi đó là bí quyết thắng lợi của cách mạng nước ta.
Bác kết hợp nhuần nhuyễn chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế cách mạng, cổ vũ nhân dân ta làm tròn nhiệm vụ dân tộc và nghĩa vụ quốc tế.
Bác là tấm gương sáng ngời về đạo đức cách mạng, cần kiệm liêm chính, chí công vô tư để mọi người học tập, noi theo.
Lời lẽ cần phải trang trọng, sâu sắc, cô đọng. Các chú cố gắng làm xong trong đêm nay được thì tốt, vì ngày tổ chức truy điệu đã được ấn định, thời gian không còn nhiều".
Nhận nhiệm vụ anh Ba giao, chúng tôi rất lo vì công việc thật sự nặng nề, vượt quá sức mình. Song chúng tôi tự nhủ phải hết sức cố gắng để không phụ lòng tin cậy của anh Ba.
Anh Xuân và tôi xem kỹ Di chúc của Bác và hai bản thảo anh Ba vừa đưa, cùng nhau vạch một dàn bài và trao đổi về cách viết, nhằm làm sao diễn đạt được tốt nhất những điều anh Ba chỉ dẫn. Anh Xuân đề nghị tìm đọc mấy bài điếu văn nổi tiếng để tham khảo. Đó là điếu văn của F.Ăng-ghen đọc trước mộ Các Mác, điếu văn Xtalin đọc trong lễ truy điệu Lê-nin, điếu văn của Bác Hồ trong lễ tang cụ Hồ Tùng Mậu.
Dàn bài đã vạch, nội dung tư tưởng anh Ba chỉ ra đã rõ, song quá 12 giờ đêm, chúng tôi vẫn ngồi cắn bút, chưa viết được đoạn nào. Khoảng 1 giờ sáng, chẳng may anh Xuân bị cảm. Anh đã thức mấy đêm liền, nên mệt quá gục xuống bàn. Tôi bảo anh cứ nằm nghỉ, tôi sẽ cố viết, khi nào xong, sẽ gọi anh dậy để cùng nhau sửa sang, hoàn tất. Tôi tiếp tục công việc đến gần sáng thì tạm xong bản thảo. Xem lại, thấy còn một số chỗ viết chưa tốt, diễn đạt chưa sâu sắc ý của anh Ba, nhưng tôi chưa vội sửa. Tôi đẩy cửa bước ra sân. Vừa lúc đó, ở tầng một, anh Ba cũng đẩy cửa sổ phòng ngủ hỏi vọng xuống: "Chú Ngạc đó hả, xong chưa chú?". Tôi vội đáp: "Dạ xong rồi". Anh hỏi tiếp: "Chú thấy có được không?". Tôi đánh bạo trả lời: "Dạ, đã cố gắng thể hiện những ý anh chỉ dẫn, hy vọng là được ạ".
Anh Ba bảo tôi đem bản thảo lên đọc cho anh nghe. Lúc đó khoảng 5 giờ sáng ngày 7.9.1969. Nghe xong anh bảo: "Về cơ bản thế này là được. Song cần suy nghĩ thêm về sự cân đối giữa các đoạn nói về tư tưởng của Bác, về nội dung năm lời thề; cần rà soát các câu trích lời Bác cho thật chính xác; có một số từ ngữ chưa chuẩn, cần cân nhắc thêm. Cuối cùng phải kết thúc điếu văn bằng một trong những khẩu hiệu mà Ban Tuyên huấn Trung ương đã trình với Bộ Chính trị". Dừng lại giây lát, anh nói tiếp: "Nhưng thôi, chú thức suốt đêm, chắc là mệt lắm, hãy cứ để thế cho đánh máy, rồi đề nghị Văn phòng Trung ương mời các anh trong Bộ Chính trị, Ban Bí thư họp để cho ý kiến, sau đó sẽ sửa chữa một thể".
8 giờ sáng ngày 7.9, Bộ Chính trị và Ban Bí thư họp chung. Anh Xuân và tôi ngồi ở phòng ngoài, bắt đầu sửa những chỗ anh Ba đã cho ý kiến. Khoảng 11 giờ trưa, anh Tố Hữu và anh Hoàng Tùng từ phòng họp bước ra cho biết bản thảo điếu văn đã được Bộ Chính trị chấp nhận; rồi các anh kéo hai chúng tôi lên phòng họp trên gác để cùng nhau sửa chữa. Tất cả các nhận xét, gợi ý của các anh có mặt trong buổi họp đều được thu thập, đối chiếu, cân nhắc; từng ý, từng câu, từng đoạn trong bản thảo đều được xem xét, rà soát nhằm lựa chọn những lời hay, ý đẹp, những từ ngữ chuẩn xác, những cách diễn đạt trong sáng. Chúng tôi làm việc rất khẩn trương. Đến 13 giờ công việc tạm xong. Đó là lần sửa quan trọng nhất, nhưng chưa phải là lần cuối cùng. Sau khi nghe chúng tôi báo cáo kết quả sửa chữa lần thứ nhất, anh Ba đồng ý và dặn phải gửi bản sửa đó cho các anh Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Hoàng Tùng để các anh xem lại, cho ý kiến sửa chữa thêm cho thật chặt chẽ, hoàn hảo. Đồng thời anh chỉ thị phải gửi ngay bản sửa lần đầu cho Ban Đối ngoại để dịch cho kịp ra 5 thứ tiếng nước ngoài. Khoảng 20 giờ ngày 7.9, bài điếu văn mới được hoàn thiện sau bốn lần rà soát, sửa chữa tiếp.
Sáng ngày 8.9, chúng tôi trình anh Ba bản điếu văn chính thức, báo cáo với anh những chỗ thêm, bớt so với bản sửa lần đầu. Anh cầm bài điếu xem rồi nói: "Giọng của tôi, đồng bào ngoài Bắc nghe không rõ, tôi phải tập đọc trước mới được". Rồi anh ngồi trong phòng làm việc đọc to lên. Nhưng anh không ngăn được xúc động, có nhiều đoạn anh nghẹn lời, nước mắt chảy nhòa cả kính. Thấy anh Ba khóc nghẹn ngào, chúng tôi càng thấu hiểu tình cảm sâu nặng của anh đối với Bác Hồ. Mấy anh em chúng tôi có mặt hôm đó không ai cầm được nước mắt...
Xin ông nói thêm đôi điều về lời văn của bài điếu?
- Ông Đống Ngạc: Cuộc đời vĩ đại, công đức cao dày của Bác Hồ nhiều người Việt Nam đều biết. Vì thế, anh Xuân và tôi bàn nhau viết về thân thế, sự nghiệp của Bác, không nên diễn đạt dài dòng, nhất là phải tránh sáo mòn, công thức. Lời văn phải giản dị, súc tích, trong sáng, dễ hiểu, không dùng từ ngữ to tát nhưng phải nói được ý lớn. Tôi nghĩ rằng lời văn bài điếu đã đạt được yêu cầu đó. Bài điếu đã phản ánh được phần nào bản sắc dân tộc, có nhạc, có hồn, có sức truyền cảm, toát lên tấm lòng sâu thẳm, bao la của Bác Hồ với dân, với nước, đồng thời thể hiện được tình sâu nghĩa nặng của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đối với Bác muôn vàn kính yêu.
* Gần 25 năm giúp việc cho Tổng bí thư Lê Duẩn, điều gì để lại trong ông ấn tượng sâu sắc nhất?
- Ông Đống Ngạc: Ấn tượng sâu sắc nhất đối với tôi là được thấy ở anh Ba một con người rất giản dị, nhân hậu, rất gần cuộc sống đời thường; một con người có bộ óc vĩ đại, kết hợp nhuần nhuyễn tình cảm cách mạng cháy bỏng với tri thức cách mạng sâu sắc; một nhà chiến lược kiệt xuất, có sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị, có tư duy năng động, sáng tạo thể hiện nổi bật tinh thần độc lập tự chủ rất cao của Đảng ta. Kháng chiến chống Mỹ là một việc cực kỳ khó khăn. Có độc lập tự chủ, Đảng ta mới vượt qua được những sức ép của các bạn đồng minh, đồng thời giữ vững chính sách đoàn kết quốc tế đúng đắn, tranh thủ sự giúp đỡ nhiều nhất có thể được của các nước xã hội chủ nghĩa anh em, của các lực lượng cách mạng và tiến bộ trên thế giới; nhờ đó tạo ra được sức mạnh tổng hợp cần và đủ để đánh thắng. Có độc lập tự chủ, ta mới dám chấp nhận cuộc đụng đầu lịch sử với Mỹ, đồng thời mới tìm ra cách đánh, cách thắng tên đế quốc siêu cường. Chúng ta đã biết mở đầu cuộc chiến một cách khôn khéo. Chúng ta đã điều khiển cuộc kháng chiến một cách chủ động, sáng tạo. Chúng ta đã kết thúc chiến tranh đúng thời cơ lịch sử, giành được thắng lợi hoàn toàn. Đó là một thắng lợi trọn vẹn, có lợi nhất cho cách mạng nước ta và cả cho cách mạng thế giới.
Sau Bác Hồ, anh Ba là người có công lớn nhất đối với sự nghiệp hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thực hiện thống nhất Tổ quốc...
* Câu hỏi cuối cùng: Ông có ý định viết hồi ký về những năm tháng làm thư ký cho Tổng bí thư Lê Duẩn không?
- Ông Đống Ngạc: Tôi chỉ là một người bình thường như nhiều người khác, nên tôi chưa nghĩ đến điều đó.
* Xin cảm ơn ông.
X.H
Việt Báo (Theo_Thanh_Nien)