40 NĂM QUẦN ĐẢO HOÀNG SA BỊ TRUNG QUỐC CHIẾM ĐÓNG (19.1.1974 - 19.1.2014):
Chuyện ít biết về sự kiện Hoàng Sa năm 1974 - Kỳ 1: Ngư phủ và cờ lạ trên Hoàng Sa
Thứ Sáu, 17/01/2014, 08:26 [GMT+7]
Tìm hiểu về việc thực thi chủ quyền tại Hoàng Sa, tôi nhận thấy rằng: nếu dưới thời Nguyễn, đa số các chàng trai đất Việt trong “Đội Hoàng Sa” là người Quảng Ngãi thì thời Pháp thuộc và nhất là từ năm 1954 đến 1975, lực lượng khai thác, bảo vệ Hoàng Sa đa số là người Quảng Nam và Đà Nẵng.
Xâm nhập bất hợp pháp
Mãi đến thời Pháp thuộc, hầu như chính quyền Trung Hoa không hề biết và không dám “hó hé” gì đến Hoàng Sa. Và ngư dân của họ, muôn đời nay đều biết rằng “Hoàng Sa là của Việt Nam”. Ông Lữ Điều, người làng Nam Ô (hiện trú phường Tam Thuận, Thanh Khê, Đà Nẵng), người có mặt tại Hoàng Sa thời Bảo Đại cho biết: “Tôi nhớ có lần (năm 1952) tàu cá của ngư dân Trung Quốc vào đảo để xin nước ngọt, dù lúc ấy chúng tôi phải dùng tiết kiệm nhưng vẫn cung cấp cho họ đầy đủ. Trước khi họ đi, Đảo trưởng chúng tôi nói với họ rằng, đây là vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam nên không được xâm phạm, họ gật đầu, cảm ơn rồi quay trở lại thuyền”.
Thế rồi, lợi dụng lúc quân Pháp rút khỏi Đông Dương, năm 1956, Trung Quốc đã dùng quân đội, giả dạng “ngư phủ”, lén lút đổ bộ chiếm lấy đảo Phú Lâm trong nhóm Hoàng Sa. Chưa dừng lại ở đó, họ tiếp tục từng bước sử dụng “quái chiêu” ngư phủ và cờ lạ hòng chiếm nốt những đảo còn lại. Chúng tôi có dịp tiếp cận nhiều tài liệu mật của chính quyền Sài Gòn đề cập vấn đề này. Một tài liệu cho biết, lực lượng canh giữ Hoàng Sa của Việt Nam đã ngăn chặn và bắt giữ “80 ngư phủ” Trung Hoa, xâm nhập bất hợp pháp hải phận Việt Nam, tại các đảo Quang Hòa, Duy Mộng. Những người này được đưa về Đà Nẵng vào ngày 24.2.1959 để khai thác. Sau đó họ được đưa ra Hoàng Sa, trả về các ghe thuyền của họ vào ngày 6.3.1959. Tiếp đó, một công văn mật của Bộ Quốc phòng gửi Tổng thống cho biết: “Ngày 1.3.1961, hồi 17 giờ, Bộ Tổng Tham mưu Phòng Nhì chúng tôi đã báo cáo bằng điện thoại cho biết việc 9 người Trung Hoa tị nạn cập bến tại đảo Hoàng Sa. Nay chúng tôi nhận được một công điện của Quân khu 2 cho biết thêm như sau: “Ngày 1.3.1961 lúc 16 giờ, có một ghe buồm lạ, chở 9 người Trung Hoa đã cập bến tại đảo Hoàng Sa. Theo lời khai của các đương sự, thì họ từ đảo Hải Nam chạy trốn chế độ cộng sản. Trên ghe gồm có: 1 cựu giáo sư, 1 cựu thiếu úy Trung Hoa Quốc gia, 1 ngư phủ và 6 nông dân”. Cũng trong tháng 3.1961, chiến hạm HQ 329 lại bắt một ghe buồm gắn máy ở gần đảo Money Hoàng Sa chở 20 “ngư phủ” Trung Hoa, quê quán ở Hải Nam và đưa về Đà Nẵng…
Âm mưu
Sau khi chiếm được đảo Phú Lâm, Trung Quốc lén lút cho các tàu cá, chở xi măng, sắt, cát… xây dựng các cơ sở hạ tầng tại đây. Một báo cáo của lực lượng tình báo VNCH cho hay: “Căn cứ theo các không ảnh do Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ chụp ngày 29.7.1960 và sau khi so sánh với nhiều thí liệu không ảnh của ta chụp ngày 5.3.1959, thiểm Bộ được biết, Trung Cộng đã thiết lập thêm một con đường xe hơi có thể chạy được, xuyên từ Tây Nam tới Đông Bắc đảo và đã làm thêm một khu công thự gồm có 5 dãy nhà 3 căn (mỗi căn rộng khoảng 4 thước) - 4 dãy nhà 6 căn, 4 dãy nhà 2 căn và 2 cột ăng ten cao khoảng 12 thước”. Đến đầu những năm 1970, do cục diện chính trị trên thế giới có nhiều thay đổi, Mỹ thỏa hiệp với Trung Quốc hòng chống Liên Xô và mong thoát khỏi cuộc chiến tranh sa lầy tại Việt Nam, nên Trung Quốc ráo riết đẩy mạnh kế hoạch đánh chiếm tiếp các đảo còn lại của Hoàng Sa.
Ủy ban Tình báo quốc gia VNCH đã trình lên Tổng thống một văn bản mật, có đoạn: “Tin tức không thám do Đệ I Hạm đội Hoa Kỳ thông báo cho biết các hoạt động của Trung Cộng tại 2 đảo Woody và Lincoln trong dãy Hoàng Sa được ghi nhận như sau: Tại đảo Woody, về hướng Bắc Đông Bắc đã có 50 cơ sở gồm nhà cửa đang xây cất; một cầu tàu dài khoảng 100m được thiết lập từ đảo ra biển hướng Bắc Đông Bắc; kế cận cầu tàu ghi nhận có 3 tàu hàng của Trung Cộng đang cập bến, 2 tàu kéo và 2 sà lan chở đầy vật liệu kiến trúc. Tại đảo Lincoln có nhiều người của Hải quân Trung Cộng hiện diện, hình như đang thiết lập cơ sở. Việc Trung Cộng tăng cường hoạt động ở quần đảo Hoàng Sa cho thấy Bắc Kinh có thể đang bành trướng việc xây dựng các hòn đảo trên để trở thành các căn cứ hải quân nhằm yểm trợ Hạm đội Trung Cộng hiện đang phát triển mạnh ở vùng biển Đông Nam Á”. Chúng tôi có trong tay nhiều ảnh tư liệu cho thấy các “ngư phủ” Trung Quốc chở vật liệu xây dựng các cơ sở quân sự tại Hoàng Sa.
Bảo vệ chủ quyền
Đến năm 1972, Thông cáo chung Thượng Hải giữa Mỹ và Trung Quốc được ban bố, đã tạo ra sự rạn nứt không thể hàn gắn giữa Liên Xô và Trung Quốc. Thêm vào đó, cuộc chiến tranh Việt Nam đang ở giai đoạn gần kết thúc, cục diện chính trị thế giới biến đổi mạnh đã tạo điều kiện cho ý đồ thôn tính Hoàng Sa của Trung Quốc thêm chín mùi. Chỉ hai năm sau đó (1974), Trung Quốc đã quyết định dùng vũ lực chiếm đóng một cách bất hợp pháp toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam. Một ngày trước khi cuộc hải chiến diễn ra, ngày 16.1.1974, Hội đồng nội các Chính phủ VNCH đã tổ chức một phiên họp, đi đến kết luận “tình hình Hoàng Sa đã trở nên báo động”, đồng thời thông báo chỉ thị của Tổng thống VNCH, nêu rõ: “Bộ Ngoại giao làm tất cả mọi hành động còn làm được có tính cách quốc tế và pháp lý quốc tế, để xác nhận thêm lần chót chủ quyền của ta trên quần đảo Hoàng Sa, từ khía cạnh lịch sử đến công pháp quốc tế qua các hội nghị quốc tế… Thông báo ngay bằng mọi cách cho các quốc gia vi phạm; phổ biến một cách long trọng và rộng rãi những hành động và tuyên cáo hoặc tuyên bố… của chính phủ ngay trong ngày hôm nay 16.1.1974. Đối với tàu và ghe lạ hiện có tại các đảo, Hải quân sử dụng tối đa luật lệ quốc tế đến sommations và dẫn độ với mục đích đuổi đi. Nếu họ sử dụng vũ lực thì trả lời bằng vũ lực. Cho lính Hải quân đổ bộ lên Robert và Duncan, nhổ cờ lạ, cắm cờ Việt Nam, đuổi người lạ đi. Hải quân có nhiệm vụ ngăn ngừa mọi hành động cắm cờ và đổ bộ người lên các đảo còn lại, ví dụ như Drummond và Money. Hải quân, nếu cần, phải được tăng cường phương tiện để bảo vệ tối đa chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Crescent và bằng mọi hành động thích ứng khi cần”.
Ngay trong ngày, Bộ Ngoại giao VNCH đã ra một bản Tuyên bố nêu rõ: “Ngày 11.1.1974, Bộ Ngoại giao Trung Cộng bỗng nhiên lên tiếng mạo nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH. Ngay ngày hôm sau, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao VNCH đã bác bỏ sự đòi hỏi vô căn cứ đó. Mặc dù vậy, trong những ngày gần đây nhà cầm quyền Trung Cộng không những không rút lại sự đòi hỏi vô lý của mình lại còn ngang nhiên xâm phạm vào lãnh thổ của VNCH bằng cách cho người và tàu bè xâm nhập vào vùng lãnh hải chung quanh các đảo Cam Tuyền (Robert), Quang Hào (Duncan) và Duy Mộng (Drummond) thuộc quần đảo Hoàmg Sa (Paracels Islands) của VNCH. Thậm chí bọn người này còn dám đặt chân lên các hòn đảo này, dựng chòi và kéo cờ của Trung Cộng, trắng trợn chà đạp lên chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của VNCH. Trước những sự vi phạm thô bạo đó, Chính phủ và nhân dân VNCH rất công phẫn và quyết không dung thứ”. Và như thế, chiến tranh đang rất gần kề…
Xâm nhập bất hợp pháp
Mãi đến thời Pháp thuộc, hầu như chính quyền Trung Hoa không hề biết và không dám “hó hé” gì đến Hoàng Sa. Và ngư dân của họ, muôn đời nay đều biết rằng “Hoàng Sa là của Việt Nam”. Ông Lữ Điều, người làng Nam Ô (hiện trú phường Tam Thuận, Thanh Khê, Đà Nẵng), người có mặt tại Hoàng Sa thời Bảo Đại cho biết: “Tôi nhớ có lần (năm 1952) tàu cá của ngư dân Trung Quốc vào đảo để xin nước ngọt, dù lúc ấy chúng tôi phải dùng tiết kiệm nhưng vẫn cung cấp cho họ đầy đủ. Trước khi họ đi, Đảo trưởng chúng tôi nói với họ rằng, đây là vùng biển thuộc chủ quyền của Việt Nam nên không được xâm phạm, họ gật đầu, cảm ơn rồi quay trở lại thuyền”.
Một vụ chặn bắt “ngư phủ” Trung Quốc của lực lượng bảo vệ Hoàng Sa Việt Nam Cộng hòa năm 1961. (Ảnh tư liệu) |
Âm mưu
Sau khi chiếm được đảo Phú Lâm, Trung Quốc lén lút cho các tàu cá, chở xi măng, sắt, cát… xây dựng các cơ sở hạ tầng tại đây. Một báo cáo của lực lượng tình báo VNCH cho hay: “Căn cứ theo các không ảnh do Đệ thất hạm đội Hoa Kỳ chụp ngày 29.7.1960 và sau khi so sánh với nhiều thí liệu không ảnh của ta chụp ngày 5.3.1959, thiểm Bộ được biết, Trung Cộng đã thiết lập thêm một con đường xe hơi có thể chạy được, xuyên từ Tây Nam tới Đông Bắc đảo và đã làm thêm một khu công thự gồm có 5 dãy nhà 3 căn (mỗi căn rộng khoảng 4 thước) - 4 dãy nhà 6 căn, 4 dãy nhà 2 căn và 2 cột ăng ten cao khoảng 12 thước”. Đến đầu những năm 1970, do cục diện chính trị trên thế giới có nhiều thay đổi, Mỹ thỏa hiệp với Trung Quốc hòng chống Liên Xô và mong thoát khỏi cuộc chiến tranh sa lầy tại Việt Nam, nên Trung Quốc ráo riết đẩy mạnh kế hoạch đánh chiếm tiếp các đảo còn lại của Hoàng Sa.
Ủy ban Tình báo quốc gia VNCH đã trình lên Tổng thống một văn bản mật, có đoạn: “Tin tức không thám do Đệ I Hạm đội Hoa Kỳ thông báo cho biết các hoạt động của Trung Cộng tại 2 đảo Woody và Lincoln trong dãy Hoàng Sa được ghi nhận như sau: Tại đảo Woody, về hướng Bắc Đông Bắc đã có 50 cơ sở gồm nhà cửa đang xây cất; một cầu tàu dài khoảng 100m được thiết lập từ đảo ra biển hướng Bắc Đông Bắc; kế cận cầu tàu ghi nhận có 3 tàu hàng của Trung Cộng đang cập bến, 2 tàu kéo và 2 sà lan chở đầy vật liệu kiến trúc. Tại đảo Lincoln có nhiều người của Hải quân Trung Cộng hiện diện, hình như đang thiết lập cơ sở. Việc Trung Cộng tăng cường hoạt động ở quần đảo Hoàng Sa cho thấy Bắc Kinh có thể đang bành trướng việc xây dựng các hòn đảo trên để trở thành các căn cứ hải quân nhằm yểm trợ Hạm đội Trung Cộng hiện đang phát triển mạnh ở vùng biển Đông Nam Á”. Chúng tôi có trong tay nhiều ảnh tư liệu cho thấy các “ngư phủ” Trung Quốc chở vật liệu xây dựng các cơ sở quân sự tại Hoàng Sa.
Bảo vệ chủ quyền
“Đối với tàu và ghe lạ hiện có tại các đảo, Hải quân sử dụng tối đa luật lệ quốc tế đến sommations và dẫn độ với mục đích đuổi đi. Nếu họ sử dụng vũ lực thì trả lời bằng vũ lực. Cho lính Hải quân đổ bộ lên Robert và Duncan, nhổ cờ lạ, cắm cờ Việt Nam, đuổi người lạ đi. Hải quân có nhiệm vụ ngăn ngừa mọi hành động cắm cờ và đổ bộ người lên các đảo còn lại, ví dụ như Drummond và Money. Hải quân, nếu cần, phải được tăng cường phương tiện để bảo vệ tối đa chủ quyền Việt Nam tại quần đảo Crescent và bằng mọi hành động thích ứng khi cần”. (Trích Chỉ thị của Tổng thống Việt Nam Cộng hòa) |
Ngay trong ngày, Bộ Ngoại giao VNCH đã ra một bản Tuyên bố nêu rõ: “Ngày 11.1.1974, Bộ Ngoại giao Trung Cộng bỗng nhiên lên tiếng mạo nhận chủ quyền trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa của VNCH. Ngay ngày hôm sau, phát ngôn viên của Bộ Ngoại giao VNCH đã bác bỏ sự đòi hỏi vô căn cứ đó. Mặc dù vậy, trong những ngày gần đây nhà cầm quyền Trung Cộng không những không rút lại sự đòi hỏi vô lý của mình lại còn ngang nhiên xâm phạm vào lãnh thổ của VNCH bằng cách cho người và tàu bè xâm nhập vào vùng lãnh hải chung quanh các đảo Cam Tuyền (Robert), Quang Hào (Duncan) và Duy Mộng (Drummond) thuộc quần đảo Hoàmg Sa (Paracels Islands) của VNCH. Thậm chí bọn người này còn dám đặt chân lên các hòn đảo này, dựng chòi và kéo cờ của Trung Cộng, trắng trợn chà đạp lên chủ quyền và sự toàn vẹn lãnh thổ của VNCH. Trước những sự vi phạm thô bạo đó, Chính phủ và nhân dân VNCH rất công phẫn và quyết không dung thứ”. Và như thế, chiến tranh đang rất gần kề…
LƯU ANH RÔ
Kỳ 2: Âm mưu từ một cuộc “tiểu chiến tranh”
Kỳ 2: Âm mưu từ một cuộc “tiểu chiến tranh”
**
Chuyện ít biết về sự kiện Hoàng Sa năm 1974 - Kỳ 2: Âm mưu từ một cuộc "tiểu chiến tranh"
Thứ Hai, 20/01/2014, 08:40 [GMT+7]
Nhận thấy số phận của chính quyền Sài Gòn chỉ còn tính từng ngày và sau khi đã thỏa hiệp xong với Mỹ, lợi dụng dịp Tết Nguyên đán đang đến gần, Trung Quốc quyết định thực hiện một cuộc “tiểu chiến tranh” để thôn tính toàn bộ quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam.
Về vụ Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa của Việt Nam, một hồ sơ mật lúc đó cho biết: “Như thường lệ, vào ngày 18.1.1974, gần tới Tết Âm lịch (Nhâm Dần), Tuần dương hạm HQ 16 Lý Thường Kiệt khởi hành từ Đà Nẵng ra Hoàng Sa để thực hiện hoán đổi định kỳ. Chính tuần dương hạm này đã phát hiện sự tập trung dày đặc của các chiến hạm Trung Quốc quanh đảo Hoàng Sa, ngay lập tức họ báo động và đề nghị chi viện”.
Cuộc đối đầu giữa “cáo và thỏ”
Trong 2 ngày 17 và 18.1.1974, Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào hải phận phía tây quần đảo Hoàng Sa. Trận hải chiến lớn nhất và dữ dội nhất giữa hải quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và hải quân Trung Quốc nổ ra vào sáng 19.1.1974. Ngày hôm sau 20.1, bốn phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, và Hoàng Sa... Tiếp đó, binh lính Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của VNCH trên các đảo này, chiếm nốt phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa. Có 58 binh sĩ VNCH đã hy sinh để bảo vệ Hoàng Sa. Sau khi chiếm được toàn bộ quần đảo, Trung Quốc lập tức cho đập phá các bia chủ quyền, đào các mộ của người Việt đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của Việt Nam… Chúng tôi cũng có được một số hình ảnh lúc bấy giờ cho thấy, để khuếch trương cái gọi là đã “thu hồi” được Hoàng Sa, Trung Quốc cho quay phim, chụp ảnh giới thiệu bộ sậu chính quyền của đảo và các hoạt động thu nhặt hải sản, xây dựng cơ sở hạ tầng tại đây; nhất là đặt “bia chủ quyền” có niên đại thời nhà Thanh tại Hoàng Sa?!…
Ông Nguyễn Văn Cúc - hiện ở tại Đà Nẵng, là người được đưa ra sửa chữa bể nước và khảo sát làm sân bay cho đảo Hoàng Sa vào năm 1973, có mặt tại thời điểm đó, cho biết thời khắc chúng ta mất Hoàng Sa như sau: “Còn vài ngày nữa là chúng tôi đón tết tại Hoàng Sa như thường lệ thì sáng 19.1.1974, quân Trung Quốc nổ súng tấn công các chiến hạm của VNCH và tràn lên đánh chiếm đảo. Chúng bắt giữ chúng tôi đưa đến tỉnh Quảng Đông giam giữ. Đúng Mùng một Tết, chúng ép buộc chúng tôi phải viết giấy nói Hoàng Sa là của Trung Quốc, nhưng anh em cương quyết không viết. Sau đó, Trung Quốc thả 5 người đầu tiên, trong đó có tôi”.
Còn ông Lê Lan, hiện ở tổ 13, khối phố 3, phường Sơn Phong, TP.Hội An cho biết: “Ngày 19.1.1974, tàu chiến, tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc có hành động khiêu khích, tiến đến gần quần đảo Hoàng Sa và đổ quân đánh chiếm trái phép. Lúc này, tôi cùng với Trung đội bảo vệ Hoàng Sa đã có trận chiến đối đầu với lực lượng hải quân Trung Quốc. Tuy nhiên, do điều kiện quân ít, thế cô, vũ khí thô sơ nên tôi và một số anh em bảo vệ đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc bắt, đưa về giam ở đảo Hải Nam trong 3 tháng. Sau đó chính quyền Trung Quốc đưa chúng tôi qua Hồng Kông và trao trả về Việt Nam”.
Ngẫm từ hồ sơ tư liệu
Trận hải chiến Hoàng Sa được hãng AP tại Đà Nẵng, ngày 28.1.1974 đưa tin, trong một bài báo được đưa vào hồ sơ Hải chiến Hoàng Sa tại Văn phòng phủ Tổng thống VNCH, cho biết về những người lính sống sót như sau: “Trung úy Ngô Hòa cho biết không bị đau đớn gì trong những ngày lênh đênh trên mặt biển và đến ngày thứ tư thì anh trông thấy một chiếc tàu và tàu này đã cứu anh. Trung úy Hòa hôm thứ Sáu trong một cuộc phỏng vấn đã thuật lại hoàn cảnh của anh và 22 người khác khi trôi trên biển 75 giờ sau khi chiếc tàu của anh chìm trong cuộc giao tranh với tàu Trung Cộng trong vùng đảo Hoàng Sa cách đây một tuần. Có hai người trong số 23 quân nhân trôi nổi trên biển đã chết, sau khi được tàu Hòa Lan vớt. Chánh phủ Nam Việt nói có 11 người chết trong trận giao tranh ở đảo Hoàng Sa nay nằm trong tay Trung Cộng. Giao tranh bắt đầu vào 10 giờ 25 phút sáng và kéo dài độ một giờ. Trung Hoa cho biết như vậy. Trong những phút đầu giao tranh, tàu anh Hòa trúng đạn tại phòng chỉ huy. Thuyền trưởng bị thiệt mạng ngay, thuyền phó lên chỉ huy cũng bị thương rớt từ phòng chỉ huy xuống “boong” tàu và người thứ ba lên chỉ huy ra lệnh bỏ tàu. Trung úy Hòa nói: “Chúng tôi tình nguyện ở lại tàu nhưng được lệnh phải rời tàu”. Một báo cáo khẩn của Bộ Quốc phòng ngay sau khi trận hải chiến diễn ra cho biết: “Vào 10 giờ sáng ngày 20.1.1974, Trung Cộng sử dụng 16 tàu chiến, nã trọng pháo, rồi đổ quân lên Hoàng Sa. Địa phương quân tại đây chống trả mãnh liệt và sau khi cố gắng chống giữ cho đến hết đạn, tất cả số anh em còn sống sót đều bị bắt làm tù binh”.
Lý giải hành động xâm chiếm của Trung Quốc, chúng tôi đặc biệt chú ý bức thư của tác giả Như Phong đề ngày 22.1.1974, gửi lên Tổng thống Thiệu có đoạn: “Mặc dầu Trung Cộng không có một chút lý do nhỏ nào để đòi hỏi chủ quyền về nhóm đảo Hoàng Sa, nhưng về hình thức hành động của Trung Cộng trong biến cố này giống như biến cố Trân Bảo/Damansky trên sông Ussuri giữa Trung Cộng và Liên Xô hồi tháng 2.1969 mà sáng kiến hoàn toàn do Trung Cộng. Đưa quân mai phục, cho lính giả làm thường dân dựng cờ khiêu khích, gây nổ súng, rồi ào tới đánh chiếm. Nam Việt không phải là Liên Xô để có đủ sức trả đũa”.
Trong bức thư, tác giả Như Phong nhận định: “Về mặt chiến lược, hành động của Trung Cộng có tầm quan trọng gấp bội, nếu so sánh với biến cố Trân Bảo. Chiếm Hoàng Sa, Trung Cộng áp đặt thế lực của họ trên biển Nam Hải, đặt căn cứ mở đường tiến xuống vùng Nam Thái Bình Dương. Đứng về mặt phòng thủ, Trung Cộng có thể nói rằng họ bắt buộc phải làm như vậy để chọc thủng một phía, cái vòng đai thép của liên minh các đế quốc xã hội và tư bản, trong khi chính Trung Cộng tiếp tục chủ nghĩa bành trướng. Đối với Liên Xô, biến cố Hoàng Sa cần được coi như một hành động đối phó với mọi cố gắng lập hệ thống an ninh Á Châu của Mạc Tư khoa. Nó cũng là một cảnh cáo cho bất cứ một nước Á Châu nào nuôi ý định dựa vào Liên Xô để bắt bí Trung Cộng. Đối với các cường quốc có ảnh hưởng mạnh trên Thái Bình Dương, chủ yếu là Hoa Kỳ, nó mở đầu cho một loạt những thách đố quyết định có thể lật nhào cái nền tảng của một thế quân bình ở Á Châu và Thái Bình Dương mà Mỹ và Tây phương tưởng đã xây dựng được...”.
------------------
Kỳ cuối: Không từ bỏ chủ quyền
Trung Quốc xây dựng trái phép cơ sở hạ tầng tại đảo Phú Lâm của Việt Nam. (Ảnh tư liệu) |
Cuộc đối đầu giữa “cáo và thỏ”
Trong 2 ngày 17 và 18.1.1974, Trung Quốc tăng cường lực lượng và cố tình khiêu khích, các chiến hạm của họ tiến sâu vào hải phận phía tây quần đảo Hoàng Sa. Trận hải chiến lớn nhất và dữ dội nhất giữa hải quân Việt Nam Cộng hòa (VNCH) và hải quân Trung Quốc nổ ra vào sáng 19.1.1974. Ngày hôm sau 20.1, bốn phi cơ MiG-21 và MiG-23 của Trung Quốc oanh tạc các đảo Cam Tuyền, Vĩnh Lạc, và Hoàng Sa... Tiếp đó, binh lính Trung Quốc đổ bộ tấn công các đơn vị đồn trú của VNCH trên các đảo này, chiếm nốt phần phía tây của quần đảo Hoàng Sa. Có 58 binh sĩ VNCH đã hy sinh để bảo vệ Hoàng Sa. Sau khi chiếm được toàn bộ quần đảo, Trung Quốc lập tức cho đập phá các bia chủ quyền, đào các mộ của người Việt đã chôn ở đây, xóa các di tích lịch sử của Việt Nam… Chúng tôi cũng có được một số hình ảnh lúc bấy giờ cho thấy, để khuếch trương cái gọi là đã “thu hồi” được Hoàng Sa, Trung Quốc cho quay phim, chụp ảnh giới thiệu bộ sậu chính quyền của đảo và các hoạt động thu nhặt hải sản, xây dựng cơ sở hạ tầng tại đây; nhất là đặt “bia chủ quyền” có niên đại thời nhà Thanh tại Hoàng Sa?!…
“Mặc dầu Trung Cộng không có một chút lý do nhỏ nào để đòi hỏi chủ quyền về nhóm đảo Hoàng Sa, nhưng về hình thức hành động của Trung Cộng trong biến cố này giống như biến cố Trân Bảo/Damansky trên sông Ussuri giữa Trung Cộng và Liên Xô hồi tháng 2.1969 mà sáng kiến hoàn toàn do Trung Cộng. Đưa quân mai phục, cho lính giả làm thường dân dựng cờ khiêu khích, gây nổ súng, rồi ào tới đánh chiếm. Nam Việt không phải là Liên Xô để có đủ sức trả đũa”. (Trích thư của Như Phong gửi Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu ngày 22.1.1974) |
Còn ông Lê Lan, hiện ở tổ 13, khối phố 3, phường Sơn Phong, TP.Hội An cho biết: “Ngày 19.1.1974, tàu chiến, tàu đánh cá vũ trang Trung Quốc có hành động khiêu khích, tiến đến gần quần đảo Hoàng Sa và đổ quân đánh chiếm trái phép. Lúc này, tôi cùng với Trung đội bảo vệ Hoàng Sa đã có trận chiến đối đầu với lực lượng hải quân Trung Quốc. Tuy nhiên, do điều kiện quân ít, thế cô, vũ khí thô sơ nên tôi và một số anh em bảo vệ đảo Hoàng Sa bị Trung Quốc bắt, đưa về giam ở đảo Hải Nam trong 3 tháng. Sau đó chính quyền Trung Quốc đưa chúng tôi qua Hồng Kông và trao trả về Việt Nam”.
Ngẫm từ hồ sơ tư liệu
Trận hải chiến Hoàng Sa được hãng AP tại Đà Nẵng, ngày 28.1.1974 đưa tin, trong một bài báo được đưa vào hồ sơ Hải chiến Hoàng Sa tại Văn phòng phủ Tổng thống VNCH, cho biết về những người lính sống sót như sau: “Trung úy Ngô Hòa cho biết không bị đau đớn gì trong những ngày lênh đênh trên mặt biển và đến ngày thứ tư thì anh trông thấy một chiếc tàu và tàu này đã cứu anh. Trung úy Hòa hôm thứ Sáu trong một cuộc phỏng vấn đã thuật lại hoàn cảnh của anh và 22 người khác khi trôi trên biển 75 giờ sau khi chiếc tàu của anh chìm trong cuộc giao tranh với tàu Trung Cộng trong vùng đảo Hoàng Sa cách đây một tuần. Có hai người trong số 23 quân nhân trôi nổi trên biển đã chết, sau khi được tàu Hòa Lan vớt. Chánh phủ Nam Việt nói có 11 người chết trong trận giao tranh ở đảo Hoàng Sa nay nằm trong tay Trung Cộng. Giao tranh bắt đầu vào 10 giờ 25 phút sáng và kéo dài độ một giờ. Trung Hoa cho biết như vậy. Trong những phút đầu giao tranh, tàu anh Hòa trúng đạn tại phòng chỉ huy. Thuyền trưởng bị thiệt mạng ngay, thuyền phó lên chỉ huy cũng bị thương rớt từ phòng chỉ huy xuống “boong” tàu và người thứ ba lên chỉ huy ra lệnh bỏ tàu. Trung úy Hòa nói: “Chúng tôi tình nguyện ở lại tàu nhưng được lệnh phải rời tàu”. Một báo cáo khẩn của Bộ Quốc phòng ngay sau khi trận hải chiến diễn ra cho biết: “Vào 10 giờ sáng ngày 20.1.1974, Trung Cộng sử dụng 16 tàu chiến, nã trọng pháo, rồi đổ quân lên Hoàng Sa. Địa phương quân tại đây chống trả mãnh liệt và sau khi cố gắng chống giữ cho đến hết đạn, tất cả số anh em còn sống sót đều bị bắt làm tù binh”.
Sau khi Hoàng Sa bị mất, Chính phủ VNCH cực lực lên án hành động xâm lược của Trung Quốc và lập tức xây dựng một kế hoạch “tuyệt mật” để đánh chiếm lại Hoàng Sa. Tài liệu này dự định rằng, VNCH sẽ huy động các tàu chiến với lực lượng mạnh, trở lại bao vây quần đảo Hoàng Sa, có sự hậu thuẫn của quân đồng minh Hoa Kỳ với Hạm đội 7 cùng sự hỗ trợ của Không quân tại phi trường Đà Nẵng. Lực lượng không quân sẽ đánh bom. Sẽ sử dụng phi cơ Phantom F4 để đương đầu với MIG-21; một số đơn vị hải quân của Quân đoàn 3 và 4 sẽ được gọi đến để tăng cường cho Quân khu 1. Nếu nỗ lực ngoại giao bất thành, kế hoạch này sẽ thi hành ngay. Tuy nhiên, mọi việc không xảy ra khi một phần kế hoạch trên đã bị “tiết lộ” cho báo chí lúc bấy giờ. |
Trong bức thư, tác giả Như Phong nhận định: “Về mặt chiến lược, hành động của Trung Cộng có tầm quan trọng gấp bội, nếu so sánh với biến cố Trân Bảo. Chiếm Hoàng Sa, Trung Cộng áp đặt thế lực của họ trên biển Nam Hải, đặt căn cứ mở đường tiến xuống vùng Nam Thái Bình Dương. Đứng về mặt phòng thủ, Trung Cộng có thể nói rằng họ bắt buộc phải làm như vậy để chọc thủng một phía, cái vòng đai thép của liên minh các đế quốc xã hội và tư bản, trong khi chính Trung Cộng tiếp tục chủ nghĩa bành trướng. Đối với Liên Xô, biến cố Hoàng Sa cần được coi như một hành động đối phó với mọi cố gắng lập hệ thống an ninh Á Châu của Mạc Tư khoa. Nó cũng là một cảnh cáo cho bất cứ một nước Á Châu nào nuôi ý định dựa vào Liên Xô để bắt bí Trung Cộng. Đối với các cường quốc có ảnh hưởng mạnh trên Thái Bình Dương, chủ yếu là Hoa Kỳ, nó mở đầu cho một loạt những thách đố quyết định có thể lật nhào cái nền tảng của một thế quân bình ở Á Châu và Thái Bình Dương mà Mỹ và Tây phương tưởng đã xây dựng được...”.
------------------
Kỳ cuối: Không từ bỏ chủ quyền
LƯU ANH RÔ
***
Chuyện ít biết về sự kiện Hoàng Sa năm 1974 - Kỳ cuối: Không từ bỏ chủ quyền
Thứ Ba, 21/01/2014, 09:10 [GMT+7]
“Chừng nào còn một hòn đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực, thì chừng ấy chính phủ và nhân dân Việt Nam còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình”.
Nhân dân trong nước phản đối
Ngay sau khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, nhân dân khắp miền Nam sục sôi xuống đường, phản đối hành động xâm chiếm này. Người dân đồng loạt tự nguyện tổ chức mít tinh, đưa thư, kiến nghị lên Liên hiệp quốc.
Tại Đà Nẵng, hàng chục nghìn người biểu tình phản đối Trung Quốc và ra tuyên bố nêu rõ: “Chúng tôi, Hội đồng thị xã Đà Nẵng, các đoàn thể chính trị, nghiệp đoàn, hiệp hội, thanh niên, học sinh đại diện cho gần 500.000 dân chúng thị xã Đà Nẵng, phản đối hành động mạo nhận chủ quyền và xua quân trắng trợn cưỡng đoạt quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ VNCH trong những ngày 19 và 20.1.1974 của Trung Cộng. Đây là hành động đe dọa trầm trọng nền hòa bình tại Đông Nam Á và cả thế giới”. Tại tỉnh Quảng Tín (nay là Quảng Nam), một báo cáo được gửi về Sài Gòn cho hay: “Hôm nay là ngày 27.1.1974 vào lúc 10 giờ, tại Hội trường Hòa Bình, thị xã Tam Kỳ, chúng tôi, toàn thể nghị viên Hội đồng tỉnh cùng đại diện các tôn giáo, đoàn thể, hiệp hội, thân hào nhân sĩ tỉnh Quảng Tín đã cùng nhau hội họp để kiểm điểm hiện tình đất nước sau biến cố quân sự trên quần đảo Hoàng Sa ngày 19 và 20.1.1974 và cực lực phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc”.
Ở Biên Hòa, nhân dân tổ chức mít tinh tại công trường Sông Phố vào ngày 29.1.1974, để lên án Trung Quốc trắng trợn chà đạp lên Hiến chương Liên hiệp quốc, bằng hành động xâm lăng vào lãnh thổ VNCH tại Hoàng Sa. Tại An Giang, bản kiến nghị của nhân dân có đoạn: “Chúng tôi - 15.000 người gồm đại diện Hội đồng dân cử địa phương, đoàn thể chính trị và tôn giáo, đảng phái, hiệp hội, thân hào nhân sĩ, quân nhân, công chức, cán bộ, sinh viên, học sinh thuộc tỉnh An Giang tham dự mít tinh tại Công trường Trưng Vương, tỉnh lỵ vào lúc 9 giờ ngày 7.2.1974, để phản đối và lên án Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã công khai xâm lăng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam”...
Ngay tại Sài Gòn, Đại hội đồng Tối cao Pháp viện của VNCH nhóm họp lúc 9 giờ sáng 29.1.1974 ở Dinh Gia Long đã cứu xét trường hợp Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa. Sau khi nghiên cứu các tài liệu lịch sử và hành chính liên hệ đến quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, vào hồi 11 giờ 30, Đại hội đồng Tối cao Pháp Viện ra Tuyên cáo lên án Trung Quốc xâm lăng đảo Hoàng Sa, văn bản này có đoạn: “Xét vì, theo các tài liệu lịch sử và hành chính, hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa đã thuộc lãnh thổ Việt Nam và được quốc gia Việt Nam cai trị liên tục từ hơn 100 năm nay. Xét vì, do đó quốc gia Việt Nam có chủ quyền trên hai quần đảo nói trên theo Quốc tế công pháp; Đại hội đồng Tối cao Pháp Viện long trọng tuyên cáo: Xác nhận chủ quyền của quốc gia Việt Nam trên các quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Cực lực tố cáo trước dư luận quốc tế hành vi xâm lăng của Trung Cộng vi phạm trầm trọng chủ quyền lãnh thổ của VNCH. Khẩn thiết kêu gọi các đoàn thể luật gia trên thế giới, tích cực trợ giúp VNCH trong việc tái lập chủ quyền trên quần đảo Hoàng Sa”…
Dư luận thế giới lên án
Dư luận thế giới lúc đó cũng cực lực phản đối việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa. Ngày 27.1.1974, tờ Sự Thật (Pravda), cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Xô Viết cho rằng: “Hành động quân sự của Trung Cộng tại Hoàng Sa như một chủ trương bành trướng lãnh thổ và là một mối đe dọa cho các quốc gia Á châu, việc sử dụng vũ khí để giải quyết tranh chấp đất đai không thể nào tha thứ được”. Tờ này bình luận thêm: “Người ta có thể tin chắc rằng Mao chủ tâm rắc mầm móng xáo trộn trong đời sống quốc tế, với thâm ý phá hỏng chính sách hòa hoãn và che đậy cảnh tranh quyền và khó khăn ngày càng tăng trong nội bộ Trung Quốc”.
Hàng trăm nước có quan hệ ngoại giao với VNCH cũng đã có công hàm, điện, thư tỏ thái độ phản đối Trung Quốc và ủng hộ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa. Thư của Tổng thống Hy Lạp phúc đáp vụ Hoàng Sa, có đoạn: “Hy Lạp là một quốc gia rất mực tha thiết với những nguyên tắc của Liên hiệp quốc nên đương nhiên ủng hộ quan điểm rằng, những vụ tranh chấp giữa các quốc gia nên được giải quyết bằng những phương cách hòa bình. Hy Lạp chống lại bất cứ việc sử dụng võ lực hoặc đe dọa dùng võ lực nào như là một phương cách giải quyết những tranh chấp hoặc tình trạng quốc tế khả dĩ phương hại đến hòa bình, như trường hợp những vụ việc xảy ra cuối tháng giêng vừa qua, tại quần đảo Hoàng Sa”. Văn thư đề ngày 16.4.1974 của Tổng thống Cộng hòa Equateur phúc đáp Tổng thống Thiệu về vụ Hoàng Sa, có đoạn: “Tôi xin mạn phép trình bày cùng Ngài là chính sách của Ecuador (Cộng hòa Equateur) xem việc giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp như là một quy tắc căn bản, do đó bác khước sự thủ đắc đất đai bằng võ lực, bằng đe dọa hay bằng cách sử dụng sức mạnh cùng mọi biện pháp cưỡng hành trong bang giao quốc tế. Vì vậy chúng tôi lên án mọi thái độ bất cứ từ đâu đến, mà không phù hợp với những nguyên tắc chuẩn đích của luật pháp quốc tế”.
Chỉ mất đảo khi từ bỏ tranh đấu
Vụ Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa đã làm dấy lên tinh thần dân tộc với nhiều sắc độ khác nhau, đối với người Việt Nam ở trong nước và khắp thế giới. Nhắc đến chủ quyền của Việt Nam, ta hay nhắc đến tuyên bố của ông Trần Văn Hữu. Mới đây, tôi được tiếp cận một mật thư của Tổng trưởng Dân vận - Chiêu hồi gửi Tổng thống Thiệu, đề ngày 22.3.1974, cho biết: Văn phòng thông tin của chính quyền Sài Gòn tại Paris, đã có cuộc phỏng vấn cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu phát biểu về vấn đề Hoàng Sa, tại tư thất của ông, ngay sau khi Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm. Ông Hữu nói: “Được tin quân đội Trung Hoa đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, tôi vừa ngạc nhiên và vừa bi ai. Ngạc nhiên là vì việc bất ngờ, bi ai vì cuộc đổ máu rất tiếc giữa hai quân đội. Bất ngờ vì chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa đã được tôi công khai tuyên bố nơi Hội nghị Hòa bình với Nhật năm 1951, vào tháng 9 dương lịch tại San Francisco. Lúc ấy, là lần đầu tiên Việt Nam vào hàng 50 cường quốc có quyền định đoạt vấn đề quốc tế. Trong một bài diễn văn đọc ngày bế mạc hội nghị, tôi long trọng tuyên bố xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên cả Trường Sa và Hoàng Sa. Năm mươi phái đoàn cường quốc im lặng nghe lời tuyên bố của Phái đoàn Việt Nam, tức là họ hoàn toàn công nhận, không gặp một quốc gia nào phản đối”.
Chúng tôi cũng vừa có được một tài liệu quý của ông Moshine Mohamedhay, một công dân Ấn kiều sinh trưởng tại Đà Nẵng, là cựu công chức của Pháp theo ngạch Gardeidochinoise phục vụ tại Hoàng Sa từ ngày 18.5.1939 đến 13.3.1942 đã cung cấp nhiều nghị định, quyết định, phúc trình về Hoàng Sa mà chính phủ thuộc địa tại Đông Dương và Đà Nẵng đã trao đổi qua lại với ông. Đặc biệt là bức tâm thư của ông Deloge (72 tuổi), cựu Thị trưởng Đà Nẵng (1938-1939), đề ngày 1.2.1974, với lời tuyên bố mạnh mẽ: “Tôi sẵn sàng làm nhân chứng cho việc tranh tụng chủ quyền của Việt Nam trước tòa án Quốc tế đối với quần đảo Hoàng Sa”.
Ngay sau sự kiện Hoàng Sa, nhiều báo chí, hãng thông tấn đã tìm gặp và đăng tin về những người từng công tác trên đảo. Hãng AFP của Pháp đã bình luận: “VNCH vẫn chưa mất đảo Hoàng Sa và chỉ mất khi nào chịu từ bỏ tranh đấu về chủ quyền của quần đảo này”. Điều đó, hoàn toàn đúng với Tuyên cáo ngày 14.2.1974 của VNCH, rằng: “Chừng nào còn một hòn đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực, thì chừng ấy chính phủ và nhân dân Việt Nam còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình”.
Xuống đường phản đối Trung Quốc xâm chiếm Hoàng Sa tại Sài Gòn. Ảnh tư liệu |
Ngay sau khi Trung Quốc đánh chiếm toàn bộ Hoàng Sa, nhân dân khắp miền Nam sục sôi xuống đường, phản đối hành động xâm chiếm này. Người dân đồng loạt tự nguyện tổ chức mít tinh, đưa thư, kiến nghị lên Liên hiệp quốc.
Tại Đà Nẵng, hàng chục nghìn người biểu tình phản đối Trung Quốc và ra tuyên bố nêu rõ: “Chúng tôi, Hội đồng thị xã Đà Nẵng, các đoàn thể chính trị, nghiệp đoàn, hiệp hội, thanh niên, học sinh đại diện cho gần 500.000 dân chúng thị xã Đà Nẵng, phản đối hành động mạo nhận chủ quyền và xua quân trắng trợn cưỡng đoạt quần đảo Hoàng Sa thuộc lãnh thổ VNCH trong những ngày 19 và 20.1.1974 của Trung Cộng. Đây là hành động đe dọa trầm trọng nền hòa bình tại Đông Nam Á và cả thế giới”. Tại tỉnh Quảng Tín (nay là Quảng Nam), một báo cáo được gửi về Sài Gòn cho hay: “Hôm nay là ngày 27.1.1974 vào lúc 10 giờ, tại Hội trường Hòa Bình, thị xã Tam Kỳ, chúng tôi, toàn thể nghị viên Hội đồng tỉnh cùng đại diện các tôn giáo, đoàn thể, hiệp hội, thân hào nhân sĩ tỉnh Quảng Tín đã cùng nhau hội họp để kiểm điểm hiện tình đất nước sau biến cố quân sự trên quần đảo Hoàng Sa ngày 19 và 20.1.1974 và cực lực phản đối hành động xâm lược của Trung Quốc”.
Ở Biên Hòa, nhân dân tổ chức mít tinh tại công trường Sông Phố vào ngày 29.1.1974, để lên án Trung Quốc trắng trợn chà đạp lên Hiến chương Liên hiệp quốc, bằng hành động xâm lăng vào lãnh thổ VNCH tại Hoàng Sa. Tại An Giang, bản kiến nghị của nhân dân có đoạn: “Chúng tôi - 15.000 người gồm đại diện Hội đồng dân cử địa phương, đoàn thể chính trị và tôn giáo, đảng phái, hiệp hội, thân hào nhân sĩ, quân nhân, công chức, cán bộ, sinh viên, học sinh thuộc tỉnh An Giang tham dự mít tinh tại Công trường Trưng Vương, tỉnh lỵ vào lúc 9 giờ ngày 7.2.1974, để phản đối và lên án Cộng hòa Nhân dân Trung Quốc đã công khai xâm lăng quần đảo Hoàng Sa của Việt Nam”...
Bài học về ý thức chủ quyền Theo chúng tôi, có một bài học lớn về trách nhiệm của VNCH trong việc để mất Hoàng Sa vào năm 1974 mà đến nay vẫn còn tính thời sự đó là: không được để đất nước rơi vào tình trạng bất ổn; cần hết sức cảnh giác sự thỏa hiệp ngấm ngầm giữa các cường quốc. Dù sao, cuộc đấu tranh bảo vệ chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ vẫn còn diễn ra hết sức gay go, phức tạp, nhất là khi Hoàng Sa vẫn còn do Trung Quốc chiếm đóng. Cho nên, bài học lịch sử về nêu cao ý thức bảo vệ chủ quyền và lợi ích quốc gia; đẩy mạnh phát triển kinh tế kết hợp với bảo đảm an ninh - quốc phòng trên biển; giáo dục, nâng cao hiểu biết về chủ quyền quốc gia… vẫn luôn tươi mới. Bởi, sự nghiệp bảo vệ chủ quyền quốc gia là lâu dài, muôn đời, toàn diện, bao gồm tất cả các biện pháp chính trị, kinh tế, pháp lý, đối ngoại và trên thực địa, cần xử lý tỉnh táo, khéo léo những tình huống mới nảy sinh trong vấn đề tranh chấp biển đảo hiện nay. Nhất là, phải làm sao để mọi thế hệ công dân Việt Nam đều nhớ nằm lòng rằng “Hoàng Sa là của Việt Nam”. |
Dư luận thế giới lên án
Dư luận thế giới lúc đó cũng cực lực phản đối việc Trung Quốc dùng vũ lực xâm chiếm Hoàng Sa. Ngày 27.1.1974, tờ Sự Thật (Pravda), cơ quan ngôn luận của Đảng Cộng sản Xô Viết cho rằng: “Hành động quân sự của Trung Cộng tại Hoàng Sa như một chủ trương bành trướng lãnh thổ và là một mối đe dọa cho các quốc gia Á châu, việc sử dụng vũ khí để giải quyết tranh chấp đất đai không thể nào tha thứ được”. Tờ này bình luận thêm: “Người ta có thể tin chắc rằng Mao chủ tâm rắc mầm móng xáo trộn trong đời sống quốc tế, với thâm ý phá hỏng chính sách hòa hoãn và che đậy cảnh tranh quyền và khó khăn ngày càng tăng trong nội bộ Trung Quốc”.
Hàng trăm nước có quan hệ ngoại giao với VNCH cũng đã có công hàm, điện, thư tỏ thái độ phản đối Trung Quốc và ủng hộ chủ quyền của Việt Nam đối với Hoàng Sa. Thư của Tổng thống Hy Lạp phúc đáp vụ Hoàng Sa, có đoạn: “Hy Lạp là một quốc gia rất mực tha thiết với những nguyên tắc của Liên hiệp quốc nên đương nhiên ủng hộ quan điểm rằng, những vụ tranh chấp giữa các quốc gia nên được giải quyết bằng những phương cách hòa bình. Hy Lạp chống lại bất cứ việc sử dụng võ lực hoặc đe dọa dùng võ lực nào như là một phương cách giải quyết những tranh chấp hoặc tình trạng quốc tế khả dĩ phương hại đến hòa bình, như trường hợp những vụ việc xảy ra cuối tháng giêng vừa qua, tại quần đảo Hoàng Sa”. Văn thư đề ngày 16.4.1974 của Tổng thống Cộng hòa Equateur phúc đáp Tổng thống Thiệu về vụ Hoàng Sa, có đoạn: “Tôi xin mạn phép trình bày cùng Ngài là chính sách của Ecuador (Cộng hòa Equateur) xem việc giải quyết hòa bình các vụ tranh chấp như là một quy tắc căn bản, do đó bác khước sự thủ đắc đất đai bằng võ lực, bằng đe dọa hay bằng cách sử dụng sức mạnh cùng mọi biện pháp cưỡng hành trong bang giao quốc tế. Vì vậy chúng tôi lên án mọi thái độ bất cứ từ đâu đến, mà không phù hợp với những nguyên tắc chuẩn đích của luật pháp quốc tế”.
Chỉ mất đảo khi từ bỏ tranh đấu
Vụ Trung Quốc dùng vũ lực cưỡng chiếm Hoàng Sa đã làm dấy lên tinh thần dân tộc với nhiều sắc độ khác nhau, đối với người Việt Nam ở trong nước và khắp thế giới. Nhắc đến chủ quyền của Việt Nam, ta hay nhắc đến tuyên bố của ông Trần Văn Hữu. Mới đây, tôi được tiếp cận một mật thư của Tổng trưởng Dân vận - Chiêu hồi gửi Tổng thống Thiệu, đề ngày 22.3.1974, cho biết: Văn phòng thông tin của chính quyền Sài Gòn tại Paris, đã có cuộc phỏng vấn cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu phát biểu về vấn đề Hoàng Sa, tại tư thất của ông, ngay sau khi Hoàng Sa bị Trung Quốc chiếm. Ông Hữu nói: “Được tin quân đội Trung Hoa đánh chiếm quần đảo Hoàng Sa, tôi vừa ngạc nhiên và vừa bi ai. Ngạc nhiên là vì việc bất ngờ, bi ai vì cuộc đổ máu rất tiếc giữa hai quân đội. Bất ngờ vì chủ quyền Việt Nam trên quần đảo Hoàng Sa đã được tôi công khai tuyên bố nơi Hội nghị Hòa bình với Nhật năm 1951, vào tháng 9 dương lịch tại San Francisco. Lúc ấy, là lần đầu tiên Việt Nam vào hàng 50 cường quốc có quyền định đoạt vấn đề quốc tế. Trong một bài diễn văn đọc ngày bế mạc hội nghị, tôi long trọng tuyên bố xác nhận chủ quyền của Việt Nam trên cả Trường Sa và Hoàng Sa. Năm mươi phái đoàn cường quốc im lặng nghe lời tuyên bố của Phái đoàn Việt Nam, tức là họ hoàn toàn công nhận, không gặp một quốc gia nào phản đối”.
Chúng tôi cũng vừa có được một tài liệu quý của ông Moshine Mohamedhay, một công dân Ấn kiều sinh trưởng tại Đà Nẵng, là cựu công chức của Pháp theo ngạch Gardeidochinoise phục vụ tại Hoàng Sa từ ngày 18.5.1939 đến 13.3.1942 đã cung cấp nhiều nghị định, quyết định, phúc trình về Hoàng Sa mà chính phủ thuộc địa tại Đông Dương và Đà Nẵng đã trao đổi qua lại với ông. Đặc biệt là bức tâm thư của ông Deloge (72 tuổi), cựu Thị trưởng Đà Nẵng (1938-1939), đề ngày 1.2.1974, với lời tuyên bố mạnh mẽ: “Tôi sẵn sàng làm nhân chứng cho việc tranh tụng chủ quyền của Việt Nam trước tòa án Quốc tế đối với quần đảo Hoàng Sa”.
Ngay sau sự kiện Hoàng Sa, nhiều báo chí, hãng thông tấn đã tìm gặp và đăng tin về những người từng công tác trên đảo. Hãng AFP của Pháp đã bình luận: “VNCH vẫn chưa mất đảo Hoàng Sa và chỉ mất khi nào chịu từ bỏ tranh đấu về chủ quyền của quần đảo này”. Điều đó, hoàn toàn đúng với Tuyên cáo ngày 14.2.1974 của VNCH, rằng: “Chừng nào còn một hòn đảo thuộc lãnh thổ Việt Nam bị nước ngoài chiếm giữ bằng bạo lực, thì chừng ấy chính phủ và nhân dân Việt Nam còn đấu tranh để khôi phục những quyền lợi chính đáng của mình”.
LƯU ANH RÔ