Thursday, 20 November 2014

Tại sao nhà chùa lại gọi công an là đồng chí?

Trích báo Công An Nhân Dân Online
22:45:00 03/11/2013
Đại biểu Quốc hội - Thượng tọa Thích Thanh Quyết:
Vật chất tuy còn những khó khăn, nhưng an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội được đảm bảo


- Báo cáo cũng đã điểm một số vụ án tham nhũng lớn đang được điều tra, làm rõ, trong đó một số vụ tính chất, mức độ rất nghiêm trọng, từng làm “nóng” nghị trường Quốc hội. Đại biểu đánh giá như thế nào về việc điều tra, khám phá các vụ án tham nhũng đó?
Những vụ án như vậy chỉ lực lượng Công an mới khám phá được. Vụ án tham nhũng càng lớn, tính chất tinh vi, phức tạp càng cao, lại được “bao bọc” bởi nhiều yếu tố. Các đồng chí khám phá được bởi có chuyên môn nghiệp vụ, có nhân lực được đào tạo, tôi luyện tốt, có kinh nghiệm đấu tranh, khám phá án và có phẩm chất cao. Cho nên khi tung vào làm những vụ án đó, các đồng chí đã khám phá rất nhanh, phát hiện nhanh nhạy, điều tra, làm rõ được hành vi phạm pháp của từng đối tượng. Đó là thành quả rất lớn của ngành Công an.



Công an không gọi nhà chùa là đồng chí. Nhà chùa sao có thể gọi công an là đồng chí?

Trừ phi nhà báo nhét chữ vào mồm nhà sư, không ai đi tu rồi lại còn đồng chí.

Tại sao nhà chùa phải sống phúc âm?


Người Thiên Chúa Giáo coi lời Chúa dạy là Phúc Âm (tiếng Anh là Good News). Con dân Chúa sống Phúc Âm là sống (và hành động) theo lời Chúa, như công dân sống (và hành động) theo pháp luật. Nhà chùa cần sống (và hành động) theo lời Phật dạy, sống phúc âm làm gì? Nhưng có vẻ như các ông sư bây giờ không phân biệt được khẩu hiệu nào dùng ở chỗ nào, cho ai:

Hoà thượng Thích Giác Quang, Phó Trưởng Ban Thường trực Giáo hội Phật giáo Việt Nam tỉnh Thừa Thiên - Huế cảm ơn về sự quan tâm của Đảng, Chính quyền các cấp đối với các hoạt động của Phật giáo và sẽ luôn luôn xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, sống phúc âm trong lòng dân tộc.
(TTXVN, “Ban Dân vận Trung ương thăm Giáo hội Phật giáo Thừa Thiên - Huế nhân Đại lễ Phật đản, Phật lịch 2555”, Báo điện tử Đảng Cộng Sản Việt Nam, http://cpv.org.vn/cpv/Modules/Preview/PrintPreview.aspx?co_id=10007&cn_id=459101, 12/5/2011.)

Hòa thượng Thích Gia Quang bày tỏ trách nhiệm đồng hành của Phật giáo đối với thế giới nhân sinh, của tăng ni và phật tử, quyết đem những lời dạy của Phật để góp phần giải quyết hữu hiệu những vấn đề thời sự của thế giới đương đại, sống phúc âm trong lòng dân tộc. 
(Kim Xoa & Vũ Tiệp, "Đại lễ Phật đản Phật lịch 2558 - Dương lịch 2014, Cao Bằng Online, http://baocaobang.vn/Thoi-su/Dai-le-Phat-dan-Phat-lich-2558-Duong-lich-2014/25643.bcb, 12/5/2014)

Thượng tọa cho biết, sống phúc âm trong lòng dân tộc, nhưng cả dân tộc nói hoặc không nói ra, người dân đều thấm thía cái giá của hòa bình ổn định.
(Hoàng Thủy, "Thủ tướng: 'Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc là vừa hợp tác vừa đấu tranh'", VnExpress, 19/11/2014. http://vnexpress.net/tin-tuc/thoi-su/thu-tuong-quan-he-viet-nam-trung-quoc-la-vua-hop-tac-vua-dau-tranh-3109351.html)

Thượng tọa Thích Thanh Quyết nói: “Cả nước yên tâm, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, Chính phủ. Đồng bào các dân tộc, các tôn giáo cả nước nhất tâm cùng Chính phủ xây dựng cuộc sống đạo pháp dân tộc, sống phúc âm trong lòng dân tộc. Nhưng cả dân tộc, nói hoặc không nói ra đều thấu hiểu cái giá của hòa bình, ổn định. Từ khi Trung Quốc rút giàn khoan ra khỏi vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, sự kiên quyết đồng tâm là tín hiệu tốt cho vượng khí nước nhà. Nhưng cử tri muốn được nghe từ tim khẩu của Thủ tướng, quan điểm của Đảng, Nhà nước đối với vấn đề Biển Đông và Trung Quốc một cách dễ nghe, dễ hiểu, súc tích nhưng đầy đủ nhất”.
(Đào Tuấn, "Thủ tướng nói về quan hệ Việt Nam-Trung Quốc: Vừa hợp tác vừa đấu tranh", Lao Động, 19/11/2014, http://laodong.com.vn/chinh-tri/thu-tuong-noi-ve-quan-he-viet-namtrung-quoc-vua-hop-tac-vua-dau-tranh-270064.bld)

Monday, 3 November 2014

Bộ Mặt Thật Của Lê Hữu Từ (Quang Toản & Nguyễn Hoài - Đông Dương Thời Báo)



Tên Đại Việt gian lãnh chúa khu tự tri Phát  Diệm
Anselmô Tađéo Lê Hữu Từ


Quang Toản & Nguyễn Hoài
(N.x.b Khoa học 1965)

     Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Lê Hữu Từ được Hồ Chủ tịch mời ra làm cố vấn Chính phủ. Trong suốt thời gian đảm nhận chức cố vấn, mọi hoạt động của Lê Hữu Từ không những không đem lại lợi ích nhỏ nhặt nào cho nhân dân, cho Tổ quốc, trái lại còn phá hoại sự nghiệp cách mạng, phá hoại công cuộc kháng chiến cứu nước của nhân dân ta. Lê Hữu Từ lợi dụng địa vị giám mục và chức cố vấn Chính phủ, đi kinh lý các nơi, tuyên truyền xuyên tạc mọi chính sách đứng đắn của Chính phủ. Một mặt Từ ngăn cấm giáo dân gia nhập các đoàn thể cứu nước (1), mặt khác y tổ chức các hội đoàn để tập hợp những lực lượng phản động. Ngòai mặt Từ tuyên bố : “Công giáo cứu quốc đứng trong mặt trận Việt Minh”, nhưng thực chất thì như báo Đời Sống, cơ quan ngôn luận chính thức của địa phận Phát Diệm, đã thú nhận: “Mấy tiếng ‘đứng trong Mặt trận Việt Minh’ chỉ là một mánh khóe che đậy một mưu toan thầm kín. Có đứng trong mặt trận Việt Minh mới có quyền lập tự vệ võ trang, mới có quyền tổ chức những hoạt động cứu quốc” (2). Những hoạt động cứu quốc của Từ và đồng bọn thực ra đều là những hoạt động phản quốc . 
Ngay từ đầu năm 1946, công việc  đầu tiên của Từ là sắm sử vũ khí. Từ đã triệu tập hội nghị linh mục toàn địa phận, vạch ra đường lối, chính sách chống Việt Minh, bắt các xứ phải góp tiền mua sắm vũ khí. Linh mục Chu và già Thiện được Từ giao phụ trách công việc này. Từ rất quan tầm đến mọi việc. Từ giao cho linh mục Hàm chuyển 15 vạn đồng cho Vũ Hồng Khanh để mua súng đạn; giao cho bọn Trung , Tròn và già Thoại 23 vạn đồng đi mua sắm ở Móng Cái, cử Trần Hữu Phan liên lạc với giặc Pháp ở Hà Nội; ủy quyền cho bọn Thiện, Điện viết giấy cầm 300 mẫu ruộng của Nhà chung Phát Diệm cho Nhà chung Hải Phòng để lấy tiền mua súng; viết thư xin tiền Khâm mạng Đrapiê...
Kết quả bọn già Thiện đã mua được bảy thuyền vũ khí của Pháp và được tàu Pháp hộ tống đưa về Cồn Thoi.
Để có nhiều vũ khí hơn nữa, Từ cho lập công binh xưởng ngay trong Nhà chung Phát Diệm và cử Hoàng Quỳnh đi các xứ thuộc Nam Định, Thanh Hóa vận dộng giáo dân góp tiền. Từ còn ra lệnh cho bọn vệ sĩ tìm cách cướp giật vũ khí của bộ đội và cán bộ khi họ qua Kim Sơn (Ninh Bình).
Cùng với việc sắm sửa vũ khí, Từ tập hợp và tổ chức các lực lượng phản động.
Kháng chiến toàn quốc bùng nổ, Từ ra thông tri cho các xứ phải chuyển “Công giáo cứu quốc” thành “Tự vệ cứu quốc”. Những trung đội biệt lập, tổ chức từ trước, nay mở rộng thành các trung đội “vệ sĩ” (1946), “cựu chiến binh” (1947), các đoàn “dũng sĩ” (1948) ... Khi đã có vũ khí, có lực lượng, y chia địa phận Phát Diệm ra làm ba khu quân sự. Chỉ huy khu Phát Diệm là linh mục Hoàng Quỳnh, khu Phúc Nhạc là linh mục Hiệp và Cai Khoan, Cao Thăng; khu Gia Khánh, Gia Viễn, Nho Quan do linh mục Nguyễn Gia Đệ phụ trách. Các khu chịu trách nhiệm tổ chức huấn luyện quân sự, tình báo cho tự vệ và thanh niên Thiên Chúa giáo. “Tổng bộ Công giáo” phụ trách chung cả ba khu.
Hàng ngày, qua phòng thông tin và tờ tuần báo Tiếng Kiêu (3), Lê Hữu Từ xúi giục giáo dân giết hại cán bộ, chống lại chính quyền và chia rẽ lương giáo. Từ xảo quyệt tự thảo ra “mật lệnh cấm đạo” và nói là của Tổng bộ Việt Minh do Từ lấy được, để ly gián giáo dân với chính phủ ta. Từ cho tự vệ bao vây, phá phách huyện bộ Việt Minh Kim Sơn và chém giết cán bộ ở đó (1947). Từ còn là kẻ chỉ đạo vụ phiến động Phúc Nhạc cuối năm 1947. Chính Từ đã đồng ý để cho bọn côn đồphục kích giết hại đoàn đại biểu của Chính phủ ta về hội đàm với Từ tại Phúc Nhạc (4). Trước những hoạt động phản cách mạng và chống phá kháng chiến của Lê Hữu Từ, người dân bên đạo phần nào đã thấy bộ mặt giả dối, phản dân hại nước của y, Những lời đồn đại : “Cha Từ mồm thì theo cụ Hồ mà bụng thì theo Tây” hay : “Đức Cha hai lòng”, mỗi ngày một nhiều và lan rộng trong nhân dân.
Sau vụ phiến động Phúc Nhạc, một mặt ta kiên trì giải thích chính sách đòan kết lương giáo, một mặt trừng trị những tên đầu sỏ phản động. Lê Hữu Từ và đồng bọn thấy rõ điều đó, nên chúng hoạt động theo một hướng mới: bí mật, cẩn thận, thủ đoạn tinh vi hơn trước. Từ chú trọng nhiều hơn vào các phần tử bất mãn với ta, y luôn luôn đưa ra vấn đề “cộng sản vô thần” để dọa con chiên ngoan đạo. Tháng 10-1947, Từ được chính phủ cho phép lập khu an toàn Phát Diệm. Khu an toàn gồm đất xã Phát Diệm, từ phố chạy dài tới nghĩa địa rộng nửa cây số, dài hai cây. Từ cho rào hết mọi cổng ngõ, dựng nhiều điếm canh ngày đêm có người túc trực, tình báo hoạt động ráo riết. Dần dần khu an toàn Phát Diệm trở thành sào huyệt của bọn phản động, côn đồ tứ xứ.
Năm 1948, Từ cho linh mục Hàm và già Thiệu đi Hải Phòng xin Pháp chóng mang quân vào Phát Diệm. Đáp lại sự cầu cứu của Từ, tháng 6-1948, tên mật thám Malicô (Malico) của Pháp đã thảo kế hoạch chiếm đóng Phát Diệm và giao cho nữ gián điệp Trần Thị Mật mang đến cho Từ. Điều kiện để quân Pháp đánh Phát Diệm theo yêu cầu của Malicô là : Pháp có bao nhiêu vũ khí thì Từ phải có bấy nhiêu thanh niên, và khu Phát Diệm phải được dùng làm căn cứ quân sự để đánh ra các vùng lân cận (5).
Tháng 3-1948, Từ ra lệng tuyển tự vệ cho Nhà chung (Phát Diệm), bắt Bùi Chu phải chuyển vũ khí về Phát Diệm. Y cho mở liên tiếp các lớp huấn luyện tự vệ ngắn ngày tại Nhà chung, rèn 10 ngàn thanh mã tấu, tổ chức tập trân trong khu Nhà chung. Y và đồn bọn không ngớt xuyên tạc ý nghĩa lớn lao của ngày 2-9. Chung nói: “Ngày 2-9 không phải là ngày độc lập mà chỉ là ngày giành chính quyền” (!). Tháng 8-1948, trong một buổi mít tinh cổ động cho Bảo Đại, Từ nói với giáo dân: “Cha sẽ tổ chức quân đội hùng mạnh để chống cộng sản Việt Minh” và không ngớt tuyên truyền cho Bảo Đại. Để lừa đối nhân dân, một mặt Từ ra thư luân lưu số 39, ngày 17-4-1949 tuyên bố : “Tôi đã tuyên bố nhiều lần rõ rệt thái độ của tôi: tôi vẫn đứng bên cụ Hồ để chống thực dân Pháp đến cùng”  (?!!). Mặt khác, ngày 30-8-1949, Lê Hữu Từ triệu tập một cuộc họp bí mật quyết định:
1.Ủng hộ Bảo Đại
2.Vận động  giáo hữu rời bỏ hàng ngũ kháng chiến. Ngày 10-10-1949, Từ nhận được thư của Bảo Đại ủy nhiệm coi sóc “phần đời” hai địa phận Phát Diệm và Bùi Chu. Cùng ngày ấy, linh mục đại úy Giêglen (Géglen), theo lệnh của Bộ Tổng tham mưu Pháp, bí mật tới Phát Diệm để bàn định với Từ về kế hoạch đón Pháp. Sau cuộc gặp gỡ này, Từ cho tổ chức chặt tre đóng hai hàng rào cọc bao vây lấy khu Phát Diệm: một từ Tam tổng qua Phát Diệm đến Đò Mười, một từ Sanh qua Phúc Nhạc đến Chợ Bút. Y còn cho sửa soạn nghĩa địa Lưu Phương, chặt cây, quét vôi làm hiệu cho quân nhảy dù. Đồng thời, y báo cho tu viện Châu Sơn tin Pháp sắp nhảy dù và ra lệnh cho linh mục bề trên của tu viện phải để Pháp đóng quân trong khu vực nhà dòng.
Ngày 16-10-1949, giặc pháp nhảy dù Phát Diệm và đổ bộ lên cửa biển Ba Lạt (Nam Định). Giặc đi đến đâu, bọn tay chân của Từ đứng ra dẫn đường chỉ lối đến đấy. Sau khi Pháp nhảy dù, Từ huyênh hoang tuyên bố trước giáo dân: “Tôi nghiêng bên nào bên ấy thắng”(!) [6] và “Chỉ trong một tháng, Pháp sẽ lấy xong Ninh Bình” ! (7) Nhưng trước những tai họa do giặc Pháp gây ra quá nhiều, ngày 20-10-1949, Từ vội vã ra thư luân lưu an ủi: “Tôi hết sức đau đớn trước những nguy hiểm về tinh thần và vật chất mà anh em hoặc đã phải chịu hoặc có thể chịu từ ngày bắt đầu có cuộc hành quân trong xứ sở yêu quý, việc đã xảy ra bất ngờ quá”! (8) và chối cãi quanh co : “Tôi không bao giờ có ý tưởng cầu cứu quân đội Pháp, không hề có cuộc tiếp xúc nào với Bảo Đại”! (8). Xảo quyệt hơn, để lừa bịp giáo dân Bùi Chu, Phát Diệm, ngày 13-11-1949, Từ gửi thư lên Hồ chủ tịch nói:
Chúng tôi bị mắc nghẽn trong vòng vây của địch trong gần một tháng nay mới tìm dịp gửi thư lên Cụ... Tôi đau đớn vô cùng về việc này và sau gần một tháng trời, tôi vẫn còn buồn rầu và không ngủ được” (?!) [7].
Nhưng ngày 17-10-1949, đài phát thanh A.F.P của Pháp đã loan tin xác nhận: “Quân đội Pháp đã nhảy dù xuống Phát Diệm theo lời yêu cầu của Đức Cha Lê Hữu Từ” (7).
Giặc Pháp chiếm đóng Phát Diệm - Bùi Chu, Lê Hữu Từ cố sức vận động với quan thầy Mỹ (8) và mặc cả với thực dân Pháp để lập “Khu tự trị”. Để việc chiếm đóng khu Phát Diệm – Bùi Chu được nhanh chóng, Pháp tạm thời đồng ý. Từ vội vàng tổ chức cơ quan hành chánh, công an, tự vệ.... Y dung túng cho tay chân mặc sức cướp bóc vơ vét của cải, lùng bắt cán bộ trong khu, gây nên những cuộc xung đột đổ máu giữa lương và giáo. Từ cho lập lại phòng Thông tin và ra tờ tuần báo Lượm Tin thay cho tờ Tiếng Kêu (sau đổi thành nguyệt san Đời Sống), không ngớt xuyên tạc chính sách của ta và tán tụng bọn bù nhìn bán nước. Từ nêu ra nào “Phúc tử vì đạo”, nào “Bảo vệ Chúa”, “Bảo vệ thánh đường”, để dụ dỗ thanh niên vào ngụy binh. Từ bắt các xứ vùng tự do phải tuyển thanh niên đưa về Phát Diệm. Tổng bộ Phát Diệm, khu bộ Phúc Nhạc và nhiều xứ bộ đã công khai lập bàn giấy ngụy quyền ngay trong nhà thờ, nhà xứ. Tất cả chánh tổng, lý trưởng, trương tuần, ủy ban quân sự (có nơi gọi là ban bảo an, xã ủy....) đều do các linh mục chỉ huy và đặt dưới sự kiểm sóat của giặc Pháp. Lực lượng vũ trang của Từ lúc này mang một tên chung là “tự vệ”. Những đội quân “tự vệ” này được tung ra mặt trận phối hợp cùng giặc Pháp càn quét, cướp bóc khắp nơi. Để tăng cường lực lượng quân sự, Từ tổ chức ra quân “Tự lực đòan”, Từ tự tay trao lá cờ danh dự (!) và làm lễ rửa tội, rồi đặt tên cho đoàn quân. Từ đấy trong các trận càn, người dân vùng biển khó mà phân biệt được tội ác nào là của Pháp, tội ác nào là của lính cha Từ. Lính cha Từ, lính Quốc trưởng, lính Pháp chỉ là một khối thống nhất. Ít  lâu sau, tiểu đòan “Tự lực” Bùi Chu cũng ra đời. Để đề cao mình và ca ngợi bọn đế quốc xâm lược, Lê Hữu Từ cho tay chân tung ra bài hát:
Lê Hữu Từ
Lệnh truyền vệ sĩ ra đi
Trước là giữ lấy phần hồn
Sau là phần xác chúng con được nhờ.
Ơn lòng nước Phú-lang-sa,
Lại còn Anh, Mỹ tay ba liệt cường,
Các ngài vốn có lòng thương,
Giúp cho trăm họ mọi đường hẳn hoi (9)
Tay chân ngày một nhiều, tham ô ngày một lắm, ngòai số tiền hàng tháng hai triệu đồng của chính quyền bù nhìn gửi cho, năm 1950, Từ bắt đầu nhận viện trợ Mỹ (10). Để tạ ơn quan thầy Mỹ, Từ cử người sang Mỹ học và lập ra đoàn “Phụng sự quốc gia” để tuyên truyền ca tụng Mỹ. Nhưng trái với ý muốn của Từ, dư luận trong nhân dân về những hành động của y ngày càng nhiều. Y vội vàng tuyên bố:
Tôi không thiên về Anh, về Mỹ hay nước nào cả! Tôi không thiên về Bảo Đại, cũng không thiên cụ Hồ, không thiên về ai hết! Tôi chỉ thiên về Tổ quốc Việt Nam” (11).
Đó chỉ là những lời lừa bịp quần chúng của Lê Hữu Từ. Từ “không thiên về cụ Hồ”, việc đó đã rõ ràng, đúng như vậy. Còn Từ nói “không thiên về Bảo Đại”, “không thiên về Anh, về Mỹ” thì sự thật đã ngược lại: từ lâu Lê Hữu Từ đã “thiên” về Bảo Đại và bọn đế quốc xâm lược. Trong cuộc mít tinh trọng thể tại khu Phương Đình Phát Diệm (6-9-1953), dưới khẩu hiệu” “ủng hộ Đức Quốc trưởng Bảo Đại”, Từ đã say sưa nói: “Tôi còn nhớ năm xưa thời Việt Minh tôi có gặp quốc trưởng lúc đó đang là cố vấn Vĩnh Thụy. Hai ‘đồng chí’ chúng tôi (vì khi ấy cũng là cố vấn), đi sát nhau. Tôi ghé nhỏ nói với cố vấn Vĩnh Thụy rằng: Ngài không hành động gì cả?.... Cố vấn Vĩnh Thụy chỉ lắc đầu: Tôi chán lắm. Nhưng già giệt hơn tôi lại nói: cứ làm đi tôi giúp” (12)
Từ lại đã từng tuyên bố với Bảo Đại: “Tôi hứa sẽ luôn luôn bên cạnh quốc trưởng” (13)
Từ khi giặc Pháp chiếm đóng Phát Diệm - Bùi Chu, nhiều lần Từ đã tổ chức đón tiếp sĩ quan Pháp, đại sứ Mỹ và các nhà báo Anh , Mỹ tại Nhà chung Phát Diệm. Y còn tổ chức nhiều cuộc mít tinh lớn để tuyên truyền, đề cao Mỹ và chính phủ bù nhìn, đồng thời mạt sát chính phủ ta và mọi chính sách kháng chiến của ta; y hô hào giáo dân chống lại Việt Minh cộng sản và kháng chiến.
Nhà hát lớn Phát Diệm, nhà trường Phúc Nhạc... đã biến thành những nơi giam cầm tra tấn những người yêu nước kháng chiến. Tội ác của Lê Hữu Từ và bè lũ ngày càng chồng chất. Nhân dân trong “khu tự trị” vô cùng căm phẩn. Nhiều đội du kích bí mật được thành lập và hoạt động ngay trong “khu tự trị”. Phong trào đấu tranh trong quần chúng nhân dân ngày càng sâu rộng.
Vì hoảng sợ trước phong trào đấu tranh của nhân dân “khu tự trị”, vì thiếu quỹ để nuôi bọn tay sai, vì áp lực của thực dân Pháp, nên năm 1951 Lê Hữu Từ buộc phải giải tán “khu tự trị”. Y ra thư luân lưu số 59, ngày 26-12-1951, tuyên bố với giáo dân:
Ngày nay tình thế đã biến chuyển nhiều, tình trạng đặc biệt ấy (14) xét ra không cần nữa nên tôi đã thảo luận với các nhà cầm quyền để thực hành tại đây chính quyền như ở các nơi khác trong toàn quốc. Nguyên tắc đã thỏa thuận xong, chỉ còn các chi tiết thực hành”.
Nhưng Từ còn cố giữ lại 5.000 vệ sĩ để làm lực lượng riêng của y. Y còn ra lệnh: “Báo Sự Thật và số sách cấm (15), cấm ngặt không được đọc” (16).
Tháng 1-1952, Đại hội đại biểu của những người Thiên Chúa giáo yêu nước kháng chiến tòan địa phận Phát Diệm đã họp. Sua khi thông qua chương trình kế hoạch tham gia kháng chiến, Đại hội đã vạch mặt và lên án tên phản động đội lốt thầy tu Lê Hữu Từ. Được tin ấy, Lê Hữu Từ vội vã ra thư luân lưu số 80, ngày 16-3-1952, tuyên bố: “Cuộc hội nghị ấy là bất hợp pháp”. Y cho việc hội nghị lên án y là do “mưu mô bày đặt” của Việt Minh cộng sản, là “đả phá tôn giáo”, là bắt đầu thực hành “cấm đạo”, là muốn “đả phá đến tận nền tảng của giáo hội”. Y nói: “Cộng sản hoàn toàn trái nghịch với gia đình, tổ quốc và tôn giáo”. Rồi y kêu gọi linh mục, giáo dân hãy chống lại cộng sản Việt Minh và lên tiếng khuyên răn:
Các cha và anh em phải khôn ngoan dè dặt, đừng vội tin những bản tin tức, những tờ bá cáo, những bài tường thuật dù có vẻ ngây ngô thành thực đến đâu do những người ghét đạo, phản đạo trao cho, gửi cho, thông cho” (17)
Để nhấn mạnh việc các linh mục phải nghiêm chỉnh chấp hành chỉ thị do y ban ra. Y nói:
Nếu có luật nào vô ý hay mưu mô muốn cho các cha không vân lời tôi thì xin họ hãy biết rằngbao lâu tôi còn đại diện cho Vatican thì không ai có thể cấm các cha vâng lời tôi được, trừ ra là họ bắt đạo rõ ràng thì không kể” (18).
Chưa hết lo sợ trước sự đấu tranh của giáo dân và các linh mục tiến bộ, Từ lại ra thư luân lưu số 81, ngày 1-4-1952, chỉ ra 10 điều đối phó với Việt Minh.
Cuối năm 1952, ta lại tấn công Phát Diệm. Nhiều đơn vị vệ sĩ của Từ đào ngũ hoặc ra hàng. Lê Hữu Từ càng điên cuồng chống lại kháng chiến hơn trước. Y dùng thần quyền để đàn áp những người tiến bộ, thúc đẩy xúi giục những kẻ lạc hậu, nhẹ dạ đi sâu vào con đường tội lỗi. Từ bắt các nới rào làng, lập bốt; kêu gào các con chiên “đoàn kết chống lại Việt Minh” trong nhiều cuộc mít-tinh.
Ngày 1-12-1953, Từ ra thư luân lưu số 88 kêu gọi những người theo đạo Thiên Chúa phải “sống sạch tội”, phải “hoán cải tâm hồn”. Theo Lê Hữu Từ muốn sống “sạch tội” và “hoán cải” được “tâm hồn”, thì phải rời bỏ hàng ngũ kháng chiến, chống lại nhân dân, phản lại Tổ quốc. Từ đề cao cái gọi là “lề luật Chúa” để khống chế giáo dân. Y nói:
Cả tâm tư ngôn ngữ và hành vi trong gia thất cũng như ngoài xã hội, trong các việc đạo cũng như việc đời phải đi sát với lề luật Chúa” (19).
Tuy vậy, lực lượng của Từ ngày càng suy yếu nhanh chónh hơn lúc nào hết, y ra sức tuyên truyền xuyên tạc và tung ra những lời vu không bỉ ổi, nhằm mê hoặc giáo dân. Y kêu than thống thiết:
Ta nhận thấy chiến tranh làm tan nát từ 13 năm nay, nhất là mấy năm gần đây và chưa biết rõ sẽ còn nguy ngập đến đâu, không khéo thì mạng sống và tài sản của chính ta, của các người thân mến ta, của dòng giống Việt Nam sắp đến ngày tiêu diệt khốn đốn hơn nữa chăng?” (20).
Trên lãnh thổ Việt Nam, tiếng bom đạn còn đang đùng đùng vang dội, để rồi tàn phá, để rồi gieo thêm tang tóc trong gia đình...!” (21).
Rồi y đổ tội và vu khống cho những người cộng sản. Y nói: lại căn cớ chiến tranh là cộng sản” (20), và :
 (22) đang hòanh hành trên đất nước ta như con sư tử chực nuốt sống ta, chực buộc cổ dân tộc ta vào dưới ách nô lệ thảm khốc, như toàn thể các dân tộc hiện đang rên dưới nanh vuốt cộng sản. Liếc mắt rộng ra thế giới, ta cũng thấy đại chiến tranh cũng chỉ chực bùng nổ  gớm ghê, cũng thấy tai nạn cộng sản đang tung hòanh, hoặc đang lan tràn khắp mọi nơi, như muốn đổi địa cầu ra địa ngục”  (20).
Nhưng rồi y lại huyênh hoang khác lác: “500 triệu cộng sản mang đầy đủ vũ khí tối tân cũng chỉ là con kiến”! (20).
Song thực ra Lê Hữu Từ chưa hết kinh hoàng trước những thắng lợi liên tiếp của ta trên khắp các mặt trận. Y đã phải than vãn (vì lời kêu gọi của y bấy lâu nay ít được giáo dân hưởng ứng):
Ăn năn, sửa mình, cầu nguyện, ấy là điều nhắc đi nhắc lại từ 8 năm nay, song tinh thần thống hối đây vẫn còn hiếm quá” (23).
Từ còn trắng trợn xuyên tạc sự thật của công cuộc cải cách ruộng đất:
Không  nói đâu xa, ngay bên mình chúng ta, ai mà không ghê tởm những thói tố khổ, những cách “đấu” dã man: trong ấy người ta vùi dập mọi nhân đạo tình nghĩa và phẩm giá con người” (24)
Y khua môi múa mép khích lệ con chiên rằng:
Giữa trong cơn nguy khốn, lúc mà bao nhiêu dân tộc đã bị xích hóa, lúc mà cộng sản vô thần ra mắt xâm lấn giang sơn của cha ông chúng ta” (25); “các con hãy sẵn sàng hiến dâng mạng sống”; “nếu ta được phúc chịu khó, chịu đổ máu ta... thì đấy là dịp cho ta chịu khó, chịu chết vì đạo” (26).
Cuộc kháng chiến của nhân dân ta tiến triển không ngừng. Chiến thắng vĩ đại ở Điện Biên Phủ đã đưa lại đình chiến ở Đông Dương. Hòa bình trở lại. Lê Hữu Từ đã bám theo gót giày của bọn xâm lược vào Nam. Trước khi rời khỏi miền Bắc, y còn cưỡng ép nhiều giáo dân vùng Phát Diệm, Bùi Chu, từ bỏ quê hương theo bọn phản động vào Nam.
Bằng việc cấu kết và làm tay sai cho thực dân đế quốc xâm lược, bằng những hành động chống phá cách mạng và kháng chiến, phản lại nhân dân, bộ mặt thật xấu xa ghê tởm của Lê Hữu Từ đã bị phơi trần trước quần chúng. y đã lộ rõ nguyên hình một tên phản động đội lốt Thiên Chúa giáo.
Chú thích:
[1] Lê Hữu Từ thường nói: “Mỗi khi các con muốn gia nhập các đoàn thể, các đảng phải thì phải trình cha trước đã, cha có bằng lòng lúc đó mới được vào
[2] Báo Đời Sống, số 37, ngày 22-12-1953
[3] Tiếng Kêu: khẩu hiệu của Lê Hữu Từ, khi y được phong chức giám mục (11-7-1945). Khẩu hiệu ấy có nghĩa là: “kêu to lên trước nguy cơ cộng sản”. Ngày 29-2-1947, bọn phản động Thiên Chúa giáo Phát Diệm đã quyết định lấy khẩu hiệu đó đặt tên cho tờ tuần báo đầu tiên của chúng. Tuần báo Tiếng Kiêu mỗi số phát hành từ 3 đến 5 nghìn bản. Chủ nhiệm đầu tiên của tuần báo đó là Đoàn Độc Thư và sau đó là Phạm Văn Quy. Đến tháng 11-1948, tờ tuần báo này bị chính quyền ta bắt đóng cửa vì nội dung ngày càng phản tuyên truyền và chống phá kháng chiến của nó.
[4] Lê Hữu Từ đã trả lời bọn Giáo Trị và Cai Khoan khi những tên này vào xin ý kiến giết hại bốn ông trong phái đòan kà Vũ Đình Huỳnh, Đỗ Bá, Trần Lâm, Đào Gia Lựu như sau: “Làm cũng được, nhưng có làm thì làm ở nơi xa Phúc Nhạc kẻo ở đấy đã xảy ra lắm chuyện rồi”. Theo kế hoạch định trước thì tên Trần Thái đón đường về của phái đoàn (chỗ Phúc Nhạc đi Thổ Mật). Khi gặp phái đoàn thì giơ tay chào làm hiệu; Phạm Ngự sẽ ném lựu đạn và bọn cầm súng lục: Tống, Hiệp, Vơn, Hiển cũng đồng thời cho súng nhả đạn. Nhưng ông Đào Gia Lựu về lối khác, Trần Thái không biết mặt ba ông kia, khi các ông đi xa rồi chúng mới biết song cũng không dám đuổi theo vì sợ lộ. Việc mưu sát thế là không thành.
[5] Tài liệu do Ban mặt trận Thái Bình cung cấp.
[6] Tạp chí Học Tập số 1-1962, tr.73
[7] Tài liệu do ban Mặt trận Thái Bình cung cấp.
[8] Thư luân lưu số 47, ngày 20-10-1949.
[9] Báo Đời Sống số đặc biệt, số 37, 22-12-1953, cho hay là sau những cuộc tiếp xúc giữa Lê Hữu Từ và đại sứ Mỹ, đại sứ Mỹ đã khen ngợi Từ là người có “bộ óc trông rộng xét xa”.
[10] Báo cáo của linh mục Nguyễn Thế Vịnh trong Đại hội Tôn giáo toàn quốc năm 1953. (tài liệu của Ban Tôn giáo trung ương)
[11] Xem chú thích ở phần III (chưa đăng trên web)
[12] Mai Anh, Vấn đề xã hội, 1950, tr.73
[13] Báo Đời Sống, số 33, tháng 9-1953.
[14] báo Đời Sống, số 36, tháng 12-1953.
[15] Có “khu tự trị”
[16] Tất cả những sách báo tiến bộ.
[17] Thư luân lưu số 67.
[18] Thư luân lưu số 80, ngày 16-3-1952.
[19] Thư luân lưu số 76, ngày 24-2-1952
[20] Thư luân lưu số 89, ngày 18-2-1954
[21] Thư luân lưu số 89, ngày 18-2-1954
[22] Thư luân lưu số 91, ngày 26-4-1954
[23] Chỉ cộng sản
[24] Thư luân lưu số 89
[25] Thư luân lưu số 91
[26] Thư luân lưu của Lê Hữu Từ, số 67, ngày 25-6-1951

Trích tài liệu: “Những hoạt động của bọn phản động đội lốt TCG”
NDVN, ngày 1/3/09.

Friday, 31 October 2014

Thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ (7-9-1948) (Hồ Chí Minh - Đảng Cộng Sản)

Thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ (7-9-1948) 
Hồ Chí Minh toàn tập
Tập 5 (1947 - 1949)
01:26 | 06/05/2003
Kính gửi cụ Lê Hữu Từ, Giám mục Phát Diệm, Cố vấn Chính phủ, Thưa cụ, Tôi nhớ cụ lắm. Từ ngày lễ Nôen, tôi có gửi điện chúc cụ, đến nay mới viết thư. Xin cụ nguyên lượng. Phái đoàn Chính phủ (gồm có Cha Trực, Thứ trưởng Nguyễn Khánh Toàn, v.v.), đến miền đó chắc đã đến thǎm cụ, như tôi đã dặn. Đây tôi nói qua tình hình cuộc tấn công Việt Bắc để cụ yên tâm. Lần này địch dùng những đội tinh nhuệ nhất trong hải lục không quân, như đội Beaufré, lữ đoàn Marocain thứ 5. Số lính hơn 10.000. Địch dùng cách chớp nhoáng. Từ ngày 7-10 chúng ào ạt nhảy dù xuống chợ Mới, Bắc Cạn, Cao Bằng, Đại Từ, Đình Cả và những nơi khác. Bộ binh và quân cơ giới thì từ Lạng Sơn đánh thẳng lên Đông Khê, Thất Khê, Cao Bằng quành xuống gây hấn. Thuỷ quân thì ngược sông Lô qua Đoan Hùng, Tuyên Quang lên thẳng Chiêm Hoá. Hai đạo thuỷ và lục quân đó thành hai gọng kìm khổng lồ, bao vây ta và thắt chặt dần dần. Còn những đội nhảy dù thì ở giữa để quét ta. Trong cuộc tấn công này địch chẳng những dùng chiến thuật "Sét đánh ngang tai" mà chúng còn dùng đủ mưu công kỳ vô bị, xuất kỳ bất ý 1 . Nhiều lần chúng không đi đường cái hoặc đường tắt mà chỉ xuyên qua rừng rậm núi cao. Với sự chuẩn bị kỹ càng, binh lực to tát, tấn công ào ạt và chiến thuật lôi đình đó, chúng chắc rằng phen này sẽ quét sạch cơ quan của ta và tiêu diệt bộ đội ta. Chúng định rằng sẽ đem thắng lợi quân sự để giúp cho việc thi hành âm mưu chính trị của chúng. Nhưng trong những trận Thất Khê, Đoan Hùng, Tuyên Quang, Sông Gâm, Phú Lương... lực lượng địch bị ta tiêu diệt khá nhiều, âm mưu chúng bị ta phá hỏng. Kết quả là địch mất gần 5.000 chết và bị thương, trong đó có một số quan nǎm, quan tư và nhiều hạ sĩ quan, 6 chiếc phi cơ, 14 chiếc tàu và ca nô, một số lớn xe hơi. Và để lại trong tay ta rất nhiều đạn dược và quân dụng phẩm. Kết quả là kế hoạch bước thứ nhất của địch hoàn toàn thất bại. Mà sau cuộc tấn công đó, ta được nhiều kinh nghiệm thêm, được nhiều khí giới thêm và lực lượng ta vững chắc thêm, lòng dân ta tin tưởng thêm. Đó là nhờ Đức Chúa phù hộ nước ta mà phạt bọn thực dân hung ác. Hai là nhờ tướng sĩ ta dũng cảm, đồng bào ta hǎng hái. Nhiều nơi, các cụ già và các phụ nữ cũng tham gia du kích. Sau nữa là nhờ ta đã đoán trước mưu mô của địch để đề phòng sẵn. Vẫn biết địch sẽ tấn công nhiều lần nhiều nơi nữa, ta còn phải kinh qua nhiều bước gay go nữa, nhưng với sự phù hộ của Đức Chúa, với sự cương quyết của dân và quân ta, với sự giúp đỡ của những bậc lão thành như cụ, thì sớm hoặc muộn ta cũng thắng lợi. Xin chúc cụ luôn luôn mạnh khoẻ và xin cụ nhận lời chào.
Chào thân ái và quyết thắng
Ngày 7 tháng 9 nǎm 1948
HỒ CHÍ MINH
Bản đánh máy của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lưu tại Trung tâm lưu trữ Quốc gia I, bản chụp lưu tại Viện Hồ Chí Minh.

Tuesday, 28 October 2014

Hai quyển từ điển có hại và hiện tượng Nguyễn Lân (Nguyễn Hữu Năng - Talawas)

7.5.2005
Nguyễn Hữu Năng
 
Đọc bài “Hai quyển từ điển rất có hại cho Tiếng Việt” của tác giả Lê Mạnh Chiến (LMC) trên báo điện tử talawas từ ngày 18/3/2005 đến ngày 30/3/2005, chúng tôi không khỏi ngạc nhiên vì hai quyển từ điển ấy đều do Nhà giáo nhân dân Gs Nguyễn Lân, một học giả hàng đầu trong lĩnh vực Tiếng Việt, biên soạn. Vì vậy chúng tôi phải đối chiếu bài báo với cuốn Từ điển từ và ngữ Hán Việt của Nguyễn Lân do Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa ấn hành năm 2002, đúng như ông LMC đã chỉ rõ.

Cuốn từ điển này đã được ấn hành bốn lần trở lên:

  • Năm 1989, Nhà xuất bản thành phố Hồ Chí Minh xuất bản lần đầu tiên
  • Năm 1999, Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh tái bản
  • Năm 2002, Nhà xuất bản Từ điển Bách khoa in lại
  • Năm 2003, Nhà xuất bản Văn học in lại.

và có thể còn được in một số lần khác nữa ở các nhà xuất bản khác. Sau khi đối chiếu cẩn thận, chúng tôi cảm thấy Từ điển từ và ngữ Hán Việt của ông Nguyễn Lân quả thật đã mắc quá nhiều sai lầm đúng như ông LMC đã vạch ra. Phải thừa nhận rằng ông LMC đã tốn nhiều công phu, lý giải chặt chẽ và thể hiện tinh thần trách nhiệm cao với bài viết của mình. Chúng tôi khâm phục sự táo bạo của ông, vì đã phải vượt qua đoạn đường nhiều bất trắc với những rào cản kiên cố, cao ngất, để rung một hồi chuông báo động đối với công chúng.

Một quyển từ điển không dày mà nếu chỉ có trên dưới một chục từ sai lầm thì đã nên xét lại, huống hồ đó là hai trăm từ bị giảng sai nghiêm trọng như ông LMC đã chỉ ra, con số này là quá lớn. Mọi người Việt có trình độ học vấn bình thường trong thế kỷ 21 này đều không thể chấp nhận một quyển từ điển về tiếng Việt mà lắm sai lầm đến thế. Chúng tôi rất khó hình dung nổi tại sao lại xảy ra hiện tượng kỳ lạ đến như vậy ở đất nước ta? Một đất nước mà không ít người vẫn thường tự hào về nền văn hóa lâu đời giàu truyền thống, về sự chỉ đạo sáng suốt, về sự quan tâm hết sức của các ngành, các cấp, lại trong bối cảnh có tới hơn ba mươi năm thống nhất và ổn định để xây dựng và phát triển. Vậy, điều phi lý kia bắt nguồn từ đâu? Có lẽ việc này còn phải để các chuyên gia mổ xẻ. Trong phạm vi bài này, chúng tôi chỉ muốn nêu thêm vài ý kiến về các quyển từ điển của Nguyễn Lân và một số việc liên quan đến chúng.

Nếu các thầy giáo và cô giáo cứ theo từ điển của Gs Nguyễn Lân rồi dạy con cháu chúng ta rằng, trong câu thơ “Gác mái, ngư ông về viễn phố” của Bà huyện Thanh Quan thì phố là chỗ bán hàng (thực ra, ở đây, phố nghĩa là cửa biển), và viễn phố là nơi ở xa (đúng ra là cửa biển xa), hoặc giảng rằng trong hai câu thơ “Sang nhà cha, tới trung đường, Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên” của Nguyễn Du, linh sàng là giường thờ người mới chết chưa đem chôn (thực ra là cái bàn nhỏ tượng trưng cho chỗ nằm của người mới chết chưa hết tang, trên đó có bài vị, đặt cạnh bàn thờ), thì các thi nhân ấy phải dở khóc, dở cười và khó tha thứ cho sự dốt nát quá mức như vậy. Vậy mà các cuốn từ điển này còn được các giáo sư Lê Trí Viễn và Vũ Khiêu ca ngợi bằng những lời giới thiệu tuyệt vời: “Nó sẽ là một công cụ tra cứu rất quý không thể thiếu được với bất kỳ ai” (Lê Trí Viễn, trong lời giới thiệu ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt), “một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã hội đang mong đợi…” (Vũ Khiêu, trong lời giới thiệu ở Từ điển từ và ngữ Việt Nam). Có lẽ chẳng cần bàn gì thêm! Điều chúng tôi không thể hiểu được là tại sao những người chịu trách nhiệm về hai cuốn từ điển này, cho đến nay chưa có ý kiến gì? Cứ tiêm những thứ “rất có hại” này cho đồng bào đến bao giờ? Hay phải chờ đợi chúng cùng với các tế bào có hại khác di căn lên não thì mới cuống lên chạy chữa và đổ cho khách quan, số mệnh, “thiên tai”?

Câu chuyện về các từ điển của Nguyễn Lân cũng có thể gọi là Hiện tượng Nguyễn Lân. Hiện tượng này cho chúng ta thấy nhiều điều đáng đau lòng về thực trạng của nền văn hoá – giáo dục nước ta và cả của xã hội Việt Nam nói chung, mà nguyên nhân của nó chẳng thể đổ cho hậu quả chiến tranh hoặc nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu. Một giáo sư lâu năm chuyên về tiếng Việt mà có trình độ tiếng Việt như vậy, một soạn giả như vậy mà lại được xem là mẫu mực về tinh thần học tập và rèn luyện không ngừng? Ông đã bịa ra nghĩa cho hàng trăm chữ Hán mà ông không hề biết mặt chữ, rồi dựa vào hiểu biết sai lệch của mình để giảng giải cho có vẻ xuôi tai. Xưa nay chưa từng có ai dám làm như vậy. Hiện tượng Nguyễn Lân là một ví dụ cụ thể sinh động của một căn bệnh phổ biến trong xã hội Việt Nam hiện nay: Bệnh “khiếm thị” của những người ngồi ở vị trí cao quá giá trị thật của mình. Được ngồi ở “chiếu trên” lâu ngày, họ “quên mình” luôn, không còn biết mình là ai. Họ nghiễm nhiên coi mình có quyền rao giảng cho người khác ngay cả ở lĩnh vực mà họ chẳng biết gì. Họ đưa ra nhiều ý kiến cùng những “sản phẩm trí tuệ” giả mạo mà không phải ai cũng dễ nhận ra, để lại tai hại lâu dài cho xã hội. Nhưng họ không thể che mắt được tất cả mọi người. Cuộc đời vốn có những quy luật nghiêm khắc. Kẻ tham lam thường không biết dừng đúng chỗ. Nếu ông Nguyễn Lân đừng bước vào lĩnh vực từ điển thì còn có thể giữ được đôi chút tiếng tốt. Nhưng vì quá hăng hái đến mức “quên mình”, ông đã quyết định “góp phần nhỏ bé của mình vào sự giữ gìn tính trong sáng của tiếng Việt và đảm bảo tính tinh xác của từ ngữ, chúng tôi đã soạn cuốn Từ điển Từ và ngữ Hán Việt này (lời nói đầu ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt do ông Nguyễn Lân viết). 

Hiện tượng Nguyễn Lân ra đời trong hoàn cảnh thích hợp với nó, trong một môi trường mà người ta thường không mấy quan tâm đến những điều cốt lõi, chỉ chuộng hình thức bề nổi của những “điển hình”, những “phong trào”. Trong mấy chục năm qua, trên các phương tiện thông tin đại chúng, các nhân vật tai mắt không ngớt hô hào “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Viêt”, nhưng họ chỉ cố gắng làm cho ra vẻ tôn trọng di sản văn hoá của dân tộc, sau đó đâu lại vào đấy để rồi vẫn cứ lộn xộn, thậm chí thụt lùi. Báo chí đã từng nêu biết bao ví dụ về những thầy giáo, cô giáo đã giảng dạy hoặc các em học sinh đã sử dụng tiếng Việt một cách ngây ngô, ngớ ngẩn. Cứ sau mỗi kỳ thi đại học, báo chí lại trích đăng những đoạn văn lủng củng, rắc rối, thể hiện vốn từ ngữ thô thiển, nghèo nàn và quái dị của các vị tú tài mới, qua những bài thi đại học. Thực ra không mấy ai quan tâm thực sự đến việc giảng dạy và học tập và sử dụng tiếng Việt một cách có trách nhiệm. Nhiều vị quyền cao chức trọng thường hay dùng những từ ngữ có vẻ “thời thượng” như thể đua nhau tô điểm cho bản báo cáo hoặc bài nói chuyện của mình. Những từ như nổi cộm, bức xúc, vấn nạn, quan ngại, cứu cánh, bất cập, v.v. thường có mặt và được nhắc lại nhiều lần trong các bài diễn văn, các báo cáo của họ. Khó tin rằng họ đã hiểu hết ý nghĩa và cách dùng của những từ đó. Trong tình hình như vậy, ông Nguyễn Lân liền phất cao ngọn cờ “giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt”, nhưng trí lực của ông có những hạn chế như chúng ta đã biết, còn những người có trách nhiệm thì muốn trông cậy vào ông để có thêm sản phẩm trí tuệ của thời đại. Một vài vị được xem như những cây đa cây đề trong giới chữ nghĩa trong nước thì chưa hẳn đã giỏi hơn ông Nguyễn Lân, họ lại còn quá quen thuộc với nếp làm ăn kiểu phong trào, xuôi chiều, thiếu trách nhiệm, nên cũng liều lĩnh dùng “uy tín” của mình để cổ vũ ông một cách rất hăng hái. Vì vậy, Từ điển từ và ngữ Việt Nam đã được tái bản nhiều lần và tồn tại trong hơn mười lăm năm qua. Nhân đà này, trong năm 2000 ông Nguyễn Lân lại cho ra thêm quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam lớn hơn (gấp hai lần rưỡi) quyển trên. Người ta đã phát hiện ra rằng, hơn 90% những cái sai ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt đã được chuyển sang quyển này một cách nguyên vẹn. Ngoài ra, nó còn chứa rất nhều sai lầm khác, như chúng ta đã thấy khi ông Huệ Thiên mới “đọc lướt” các vần A, B, C, tuy chưa thể vạch được hết nhưng đã phát hiện 117 sai lầm.Thật tai hại cho những người dùng nhầm sách của ông Nguyễn Lân.

Ai cũng biết nền giáo dục Việt Nam có nhiều vấn đề, nếu không sớm chấn chỉnh thì làm sao thoát khỏi thế tụt hậu như hiện nay. Khi nói về hiện trạng này, người ta bàn bạc đủ thứ nhưng không ai nói đến sự suy thoái trong việc giảng dạy và học tập tiếng Việt, chẳng ai biết mà lên án những quyển từ điển tồi tệ kia. Đối với mỗi người Việt Nam chân chính, ngôn ngữ mẹ đẻ là quý giá vô cùng, nó phải được coi là một môn học quan trọng nhất, đặc biệt là trong những năm đầu cắp sách đến trường, rồi còn phải học hỏi và trau giồi trong suốt cả cuộc đời. Vậy mà chưa có một dự án cải cách giáo dục nào nói đến việc chấn chỉnh chương trình dạy và học tiếng Việt. Mỉa mai thay, khi giới thiệu về một trường đại học nọ, Đài truyền hình Việt Nam đã trưng hình ảnh hàng chục cuốn Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, hãnh diện khoe rằng, nhà trường đã không quản ngại tốn tiền mà trang bị những sách quý (220 ngàn đồng/cuốn, đủ nuôi một sinh viên trong một tháng) để tạo điều kiện thuận lợi cho sinh viên Việt Nam và sinh viên nước ngoài để học tập tốt tiếng Việt! Chỉ riêng với Từ điển từ và ngữ Hán ViệtTừ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, chúng tôi thấy còn phải cùng nhau dóng thêm một hồi chuông báo động trong lĩnh vực dạy và học Tiếng Việt.
 
Bài “Hai quyển từ điển rất có hại cho Tiếng Việt” thể hiện tinh thần cao của tác giả trước một tai họa đối với Tiếng Việt. Nó vừa vạch ra những sai lầm của ông Nguyễn Lân, vừa cung cấp cho những người đọc những tri thức bổ ích. Tác giả thường giảng giải khá tường tận và chí lý. Chẳng hạn, ở các từ như ẩn lậu, hồn hậu, hùng hồn, tác giả cung cấp những hiểu biết thực sự sâu sắc. Cũng một từ tố hồn mà ở các từ hồn hậuhùng hồn, có nghĩa tưởng như khác nhau nhưng cũng phát sinh từ cùng một nghĩa ban đầu. Hay như ở từ hạnh kiểm, quả thật, chúng tôi chưa thấy ai cắt nghĩa được từ tố kiểm một cách chí lý và chính xác như thế. Ở nhiều từ, nếu chỉ biết chữ Hán thôi thì cũng không thể giảng nghĩa cho đúng vì chúng có thể còn liên quan đến lịch sử, văn hóa của dân tộc ta hoặc liên quan đến những hiểu biết khoa học của nhiều ngành chuyên môn. Hẳn tác giả LMC còn sửa chữa và và bổ sung thêm nữa cho bài viết của mình, nhưng những gì ông đã viết ra đã thực sự có tính thuyết phục.

Trên tạp chí Văn hóa Nghệ An số 58, tháng 3 năm 2005, trong bài "Hoan hô tiếng còi Lê Mạnh Chiến, độc giả B.V.C viết:

"Đọc bài “Những quyển từ điển có hại cho tiếng Việt" trên Tạp chí Văn hóa Nghệ An tháng 1/2005, chúng tôi rất đồng tình và hoan nghênh tác giả đã “kiến nghĩa nhi vi”, thấy việc nghĩa mà (phải) làm, kịp thời giúp “thiên hạ” tránh được những lầm lẫn đáng tiếc khi dùng những từ bị giảng không chuẩn có trong những quyển sách được coi là công cụ để tra cứu chữ nghĩa.

Bằng những hiểu biết của mình và công phu tham khảo các tài lệu đáng tin cậy, bài viết đã chỉ ra những chỗ sai và qua đó gợi tỏ thêm nghĩa của những từ Hán Việt thường dùng nhưng dễ lẫn, mà sự nguy hiểm của sự dùng lẫn ấy chẳng khác nào dùng nhầm thuốc chữa bệnh.
Tuy nhiên, có một số từ, không hiểu sao, lại dẫn giải không sát với cách thường dùng nên gây thêm rắc rối, khó hiểu, ví như độc đắcđộc đặc, lạc quyênlặc quyên.

  1. Độc đắc: duy chỉ một được, ví dụ: trúng số độc đắc. Còn độc đặc có lẽ ít dùng. Nếu có cũng không dính đến, không phạm đến cụm từ độc đắc nói trên. Mấy lâu nay chúng tôi cứ hiểu từ “đắc” là được.
  2. Lạc quyên: Quyên có nhiều nghĩa, trong đó có một nghĩa là đem tiền đi cúng vào việc nghĩa. Lạc quyên: vui lòng đem tiền cúng… Còn lặc quyên, ít nghe nói, cho dù, có khi sự đóng góp còn mang tính bắt buộc.

Về chữ nghĩa, chuyện hãy còn dài, thật vô bờ bến. Chẳng thế mà những cuốn từ điển hay tự điển dù lớn đến đâu cũng phải nhận trước là còn khiếm khuyết, huống chi những bài viết ngắn. Vì chữ nghĩa, những tiếng còi cảnh báo như của anh Lê Mạnh Chiến là hết sức cần thiết. Chúng tôi rất hoan hô."
 
Độc giả B.V.C đã hoàn toàn ủng hộ việc phê phán những quyển từ điển có hại của ông Nguyễn Lân, điều đó chúng tôi rất đồng tình. Nhưng, về việc giảng giải hai từ độc đắclạc quyên của ông LMC thì chúng tôi thấy không có gì là “không sát với cách thường dùng nên gây thêm rắc rối, khó hiểu” như độc giả B.V.C nói cả. Đơn giản là tác giả LMC phải đưa ra nguyên gốc của hai từ trên trong tiếng Hán (là độc đặclặc quyên) chỉ để giải thích cho được chính xác ý nghĩa của hai từ đó, bởi vì chữ Hán vốn là như thế, Tất nhiên là từ gốc thì nay đã biến âm nên không nghe nói tới mà thường chỉ dùng các từ đọc chệch đi của nó là độc đắclạc quyên mà thôi. Từ điển Hán Việt của Đào Duy Anh hay của Nguyễn Quốc Hùng (xuất bản ở Sài Gòn năm 1975) cũng xác nhận từ lặc quyên. Hiện tượng biến âm trong tiếng Việt xảy ra khá nhiều. Trong hai ví dụ nêu trên, cách diễn giải của ông LMC đã rõ ràng, đầy đủ và đúng đắn.

Trên tạp chí talawas, số ra ngày 23/3/2005, độc giả Toàn Thắng (TT) có viết bài “Đôi lời góp ý với ông Lê Mạnh Chiến”. Ông TT góp ý kiến với ông LMC về hai từ cấm cungbộ đội và phân tích về các sắc thái sử dụng của hai từ này trong tiếng Việt hiện nay. Có lẽ vì ông TT chưa đọc kỹ bài của ông LMC nên đã góp ý không đúng chỗ. Mục đích của bài viết của ông LMC chủ yếu là tập trung lý lẽ để vạch ra những chỗ sai của ông Nguyễn Lân khi ông này giải thích sai nghĩa của các từ ngữ và các từ tố gốc Hán, có hại cho việc học hỏi tiếng Việt, chứ ông LMC không bàn đến việc diễn giải nghĩa đã biến dị khi đi từ gốc Hán sang cách dùng của người Việt hiện nay. Trong từ cấm cung, ông Nguyễn Lân đã nhầm lẫn các nghĩa của từ tố cấm (là giam hoặc chỗ vua ở) nên không xác định đúng nghĩa chính của từ cấm cung, mà lại giải thích lệch sang nghĩa đã biến đổi, rất xa nghĩa gốc. Ông LMC phê phán ở chỗ đó. Ông TT đã bàn rộng và xa mục đích này, hơn nữa khi nói “người soạn từ điển” tức là nói tới tác giả cụ thể của quyển từ điển này, tức ông Nguyễn Lân trong trường hợp rất cụ thể là Từ điển từ và ngữ Hán Việt. Nếu hiểu là tất cả người soạn từ điển thì lại là chuyện khác.Vì vậy, sự góp ý của ông TT có phần lạc đề. Trong từ điển này, ông Nguyễn Lân đã giải các nghĩa của từng từ tố trong mỗi từ rồi sau mới định nghĩa cho cả từ đó. Với từ bộ đội cũng vậy, ông Nguyễn Lân đã không biết rằng theo sách báo Trung Quốc lâu nay thì trong từ bộ đội, từ tố bộ có nghĩa là đơn vị biên chế quân sự cổ đại, mà về sau được dùng để chỉ quân đội nói chung, khác với từ bộ có nghĩa là bước. Do đó bộ đội cũng là quân đội mà thôi. Tuy nhiên trong tiếng Việt hiện nay, từ bộ đội thường mang một vài sắc thái khác với từ quân đội, đúng như ông TT đã phân tích. Nhưng điều này là nằm ngoài phạm vi mà ông LMC bàn đến.

Chúng tôi cho rằng khi góp ý kiến, phê phán về vấn đề rất hệ trọng này, chúng ta cần phải rất cẩn thận, phải đọc cho kỹ, phải nghiền ngẫm thấu đáo để không cản trở bước đường đi tìm kiếm lẽ phải vốn đã vất vả và đầy chông gai này.
 
© 2005 talawas

Monday, 27 October 2014

Lê Mạnh Chiến: Hai quyển tự điển rất có hại cho tiếng Việt (Lê Mạnh Chiến)

|

Lê Mạnh Chiến: Hai quyển tự điển rất có hại cho tiếng Việt

I. Vài lời của tác giả nhân việc đăng bài lên mạng Internet
Bàì viết về hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt mà quý vị độc giả sẽ đọc dưới đây được viết theo lời nhắn nhủ từ một biên tập viên của báo Người Đại biểu Nhân dân (nay là báo Đại biểu Nhân dân). Trước đó, tác giả đã viết bài 170 sai lầm trong một cuốn từ điển và đã gửi cho tạp chí Thế Giới Mới để đăng nhiều kỳ, nhưng chỉ mới đăng được 6 kỳ (từ số 582 ra ngày 26/4/2004 đến số 587 ra ngày 31/5/2004) với 67 ví dụ thì bị dừng lại. Tác giả đã đến Văn phòng đại diện của tạp chí Thế Giới Mới ở Hà Nội để tìm hiểu sự tình và được một biên tập viên ở đó cho biết, đại ý như sau: “Bài này được độc giả hoan nghênh nhiệt liệt vì đã vạch rõ những cái sai nghiêm trọng trong một cuốn từ điển từng được nhiều người “có tiếng” ca ngợi. Tuy nhiên, dẫu chưa nêu rõ ai là tác giả của quyển từ điển có hại kia nhưng nhiều độc giả đã phát hiện ra GS Nguyễn Lân, mà như ông đã biết, GS Nguyễn Lân được coi là một ngôi sao sáng của ngành giáo dục Việt Nam, còn tạp chí Thế Giới Mới là cơ quan thuộc Bộ Giáo dục, cho nên, nếu “vạch áo cho người xem lưng” một cách kỹ quá thì cũng có phần “bất tiện”. Nghe vậy, tác giả rất thông cảm và biết ơn tạp chí Thế Giới Mới.
Giáo sư Nguyễn Lân 1906-2003
Giáo sư Nguyễn Lân 1906-2003
Dường như hiểu được khó khăn của tác giả trong việc công bố một bài mà một biên tập viên đáng kính của báo Đại biểu Nhân dân cho là “rất cần phổ biến rộng rãi”, người này đã nhắn tin qua nhà văn Vương Trí Nhàn và nhắc rằng do chức năng và khuôn khổ của báo Đại biểu Nhân dân, nên chỉ có thể đăng được bài ngắn mà thôi. Thế là tác giả phải gói ghém lại trong khoảng 4000 chữ, với 20 ví dụ về những lầm lỗi của GS Nguyễn Lân. Vì phải đụng chạm với một ngôi sao trong làng từ điển tiếng Việt (được trao tặng Giải thưởng nhà nước năm 2001 về khoa học và công nghệ cho “Cụm công trình về giáo dục học từ điển tiếng Việt”) nên tác giả phải “dè dặt”, bèn đặt tiêu đề là “Những quyển từ điển có rất nhiều sai lầm”. Trong khi đó, tác giả cũng gửi bài gần giống bài này (lấy những ví dụ khác) cho tạp chí Nghiên cứu và Phát triển với tiêu đề Hai quyển từ điển có hại cho tiếng Việt thì được BBT tạp chí này thêm một chữ rất (trở thành Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt) và đăng ngay. Tạp chí Văn hóa Nghệ An số 56 (tháng 01/2005) cũng đăng bài này với tiêu đề ấy. Tác giả rất cảm ơn và thấy đúng là phải đặt tiêu đề như thế. Bởi vậy, ở đây, tác giả xin lấy tiêu đề như tạp chí Nghiên cứu và Phát triển đã sửa chữa giùm.
Cũng xin nói thêm về “số phận” của bài này sau khi được đăng trong hai số báo Người Đại biểu Nhân dân (số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005).
Sau khi bài này được đăng trên báo Người Đại biểu Nhân dân chừng hai tháng, nhân khi tác giả đến tòa soạn để nộp một bài khác (hình như là bài Chớ nên bịa đặt cứ liệu lịch sử nói về việc bịa đặt cứ liệu lịch sử trong sách Lịch sử Hà Tĩnh (nói rằng sách Đường thư đã ghi chép việc “Mai Thúc Loan từng làm phu gánh quả vải tươi sang kinh đô Trường An”, mà tất cả các nhà sử học hàng đầu, được gọi là “tứ trụ” của giới sử học đều phạm phải) nên đã hỏi thăm về phản ứng đối với bài Những quyển từ điển… Tác giả được biết rằng tình hình ở đây tuy giống như ở tạp chí Thế Giới Mới (bài báo được hoan nghênh) nhưng có hơi khác một chút xíu. Số là ngay trong ngày 27/4/2005, nghĩa là khi bài báo mới in được một nửa, GS Nguyễn Lân Dũng đã gọi điện thoại đến tòa soạn (vì ông là đại biểu Quốc hội, được phát báo đến tận tay), cực lực phản đối việc đăng bài này, với lý do đại để nói rằng ”GS Nguyễn Lân là một nhân vật nổi tiếng đã “thành danh”, sao dám làm mất uy tín của ông? Ban biên tập đã trả lời đại ý là: “Vì thấy bài này viết rất chặt chẽ, có chứng cứ đầy đủ, rất có trách nhiệm và rất bổ ích nên chúng tôi đăng. Còn nếu đồng chí thấy có gì sai thì cứ viết bài phê phán, chúng tôi sẽ đăng ngay”. Từ đó đến nay đã gần 8 năm trôi qua mà vẫn không thấy GS Nguyễn Lân Dũng hoặc bất cứ ai vạch được điều gì sai trái của tác giả. Điều đó chứng tỏ rằng những sai lầm nghiêm trọng của GS Nguyễn Lân mà tác giả Lê Mạnh Chiến đã phê phán là hoàn toàn chính xác, không thể bác bỏ. Sự im lặng của GS Nguyễn Lân Dũng và của những người mê tín GS Nguyễn Lân là bằng chứng hùng hồn nhất để khẳng định điều đó.
Mặc dầu những người muốn phản đối bài báo này đều đành phải bó tay nhưng tác giả vẫn cảm thấy rất đáng buồn, bởi vì, tuy người ta vẫn luôn mồm nói câu “Giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt” nhưng báo Giáo dục và thời đại thì từ chối, không đăng bài nói về mối hại đối với tiếng Việt, Bộ Giáo dục thì coi như không có vấn đề gì xảy ra. Đặc biệt, GS Nguyễn Lân Dũng, một đại biểu Quốc hội được tiếng là thẳng thắn, cương trực, vì dân, v.v. thì lại cực lực phản đối bài báo rất cần cho dân, sau đó, liên tục cho tái bản hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt mà vẫn không có ai lên tiếng. GS tiêu biểu, được coi là chuyên gia hàng đầu về tiếng Việt, ngôi sao của ngành giáo dục thì như vậy, GS Đại biểu Quốc hội thì như vậy, Bộ Giáo dục thì như vậy, các trường đại học và cả một đội ngũ giáo sư đông đảo… tất cả đều thờ ơ với số phận của tiếng Việt như vậy, thử hỏi, làm sao mà nền giáo dục không “xuống cấp”, văn hóa không lụn bại, đạo đức không suy đồi? Tác giả tuy có quyền tự hào nhưng vẫn mang trong mình một nỗi đau khôn nguôi.
Bao giờ nền giáo dục nước ta mới hồi sinh?
Bài này được viết đã lâu nhưng chưa hiện diện trên mạng Intternet. Nhận thấy nó còn giữ nguyên ý nghĩa thời sự, tác giả mong được các blogger cho phổ biến tới đông đảo độc giả. Sau đây là bài mà báo Người Đại biểu Nhân dân đã đăng ở số 67 và 68, ngày 27 và 29 tháng 4 năm 2005.
II. Hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt
Mùa thu năm 2003, thầy giáo về hưu H.H.Phúc ở Hà Tĩnh có đưa cho chúng tôi xem một quyển từ điển giải nghĩa các từ Hán-Việt dày hơn 860 trang, mà theo thầy thì nó rất tồi tệ, rất có hại cho người sử dụng vì nó có quá nhiều sai lầm nghiêm trọng. Thầy đề nghị chúng tôi đọc và phân tích, phê phán những chỗ sai để cảnh báo trước toàn xã hội về tai hại của nó. Chúng tôi liền mở ra xem, lướt qua vài chục tờ ở vần A thì giật mình khi thấy ở từ ác ôn, soạn giả giải thích rằng ôn nghĩa là bệnh dịch. Thực ra, vốn là 惡 棍 ác côn, do sự biến âm chút ít mà thành ra ác ôn. Chữ côn có nghĩa gốc là cái gậy và nghĩa mở rộng là kẻ hư hỏng; nó có mặt trong các từ du côn, côn đồ. Do đó, ác ôn là kẻ hư hỏng, gây nhiều tội ác. Lướt qua vài trang, gặp từ anh hùng thì thấy giải thích rằng hùng nghĩa là loài thú khỏe nhất. Tuy từ điển này không ghi chữ Hán, nhưng qua cách giải thích như vậy thì ta biết rằng soạn giả nghĩ đến chữ hùng (熊) nghĩa là con gấu. Nhưng, trong từ anh hùng 英雄 thì hùng (雄) nghĩa là người có tài trí kiệt xuất. Cách giải thích các từ tố ôn và hùng như thế chứng tỏ rằng soạn giả không hề biết chữ Hán (mặc dầu có thể đã từng đi học chữ Hán, nhưng “chữ của thầy đã trả hết cho thầy” rồi), mà chỉ đem lời đoán mò để giảng giải các từ ngữ Hán-Việt, may ra thì đúng. Lật vội mấy trang nữa, liếc vào từ đại sứ 大使, một từ rất quen thuộc, ta lại phải kinh ngạc vì ở từ này, chữ đại nghĩa là lớn (大) thì soạn giả lại giảng rằng đại nghĩa là thay thế (代).
Chỉ với ba ví dụ vừa nêu cũng đủ để kết luận ngay rằng quyển từ điển này không đáng tin cậy và rất có hại cho người sử dụng nó. Lúc bấy giờ, chúng tôi chưa biết ai là người biên soạn, vì quyển sách bị xé mất mấy trang đầu và vài trang cuối. Thầy H.H. Phúc bảo tôi: “Rồi ta sẽ biết tên sách và tên tác giả thôi, nhưng trước mắt, ông nên chiu khó đọc và phát hiện thêm nhều sai lầm trong đó để cảnh báo trước công luận về mối nguy hại do nó gây ra”. Tôi đồng ý với thầy vì thấy điều đó là cần thiết, hơn nữa, tôi cũng có chút tò mò, muốn biết soạn giả này liều lĩnh và vô trách nhiệm đến mức nào. Thế là tôi phải đọc tương đối kỹ hơn, và bước đầu đã phát hiện được khoảng 170 sai lầm trong cuốn từ điển này.
Tạp chí Thế Giới Mới từ số 582 đến số 587 (từ ngày 26.4. đến 31.5.2004 ) đã công bố bài 170 sai lầm trong một cuốn từ điển nhưng độc giả chưa biết tên cuốn từ điển đó. Bài ấy đã được đăng liên tiếp trong 6 kỳ mà chỉ mới nêu được 68 từ phạm sai lầm. Nhưng, như thế cũng đủ cho thấy nhiều sai lầm rất đáng sợ mà soạn giả đã phạm phải.
hinh-bia-tu-dien-tu-va-ngu-VN
Sau đó, được một số độc giả mách bảo, chúng tôi đã xác định được rằng quyển sách chứa hàng đống sai lầm kia chính là Từ điển từ và ngữ Hán Việt của GS Nguyễn Lân (bản mà chúng tôi đã đọc là của Nhà xuất bản Từ điển bách khoa, HN, 2002). Một số độc giả còn cho biết thêm rằng những sai lầm mà chúng tôi đã nêu đều có mặt đầy đủ trong quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam (Nhà xuất bản Thành phố Hồ Chí Minh, năm 2000), mà người biên soạn cũng chính là GS Nguyễn Lân. Chúng tôi đã đối chiếu hai quyển với nhau thì thấy rằng Từ điển từ và ngữ Việt Nam (2112 trang) chứa gần như trọn vẹn cả Từ điển từ và ngữ Hán Việt (867 trang), cho nên, những từ bị giảng sai trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt thì đều có mặt trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam. Ngoài ra, chúng tôi cũng được đọc bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân, trong quyển Những tiếng trống qua cửa các nhà sấm của tác giả Huệ Thiên (do Nhà xuất bản Trẻ phát hành vào quý 3 năm 2004; bài này được in lại từ tạp chí Văn ở TP Hồ Chí Minh , số 6, tháng 9 và số 8, tháng 11 năm 2000), trong đó, tác giả chỉ mới ‘’đọc lướt’’ các vần A, B, C (chiếm 1/5 quyển sách) mà đã vạch ra được 117 điều “chưa ổn’’. Những ý kiến phê bình của ông Huệ Thiên rất xác đáng. Tuy nhiên, vì chỉ mới “đọc lướt’’ cho nên trong phần mà ông đã đọc qua vẫn còn những sai lầm nghiêm trọng chưa bị phát hiện. Từ đó, chúng ta biết rằng ngoài những sai lầm giống như ở Từ điển từ và ngữ Hán Việt (mà chúng tôi đã tìm thấy hơn 200 trường hợp), Từ điển từ và ngữ Việt Nam còn chứa vô số sai lầm khác nữa, rất có hại cho việc học tập và giảng dạy tiếng Việt.

hinh-bia-tu-dien-tu-va-ngu-han-vn
Như vậy, riêng GS Nguyễn Lân đã biên soạn ra hai quyển từ điển rất có hại cho tiếng Việt. Điều này làm cho nhiều người đau lòng, nhưng đó là sự thực không thể chối cãi. Với số lượng sai lầm nhiều đến mức ấy thì phải in thành sách hoặc đăng nhiều kỳ liên tiếp mới có thể tải hết được. Trong phạm vi một bài viết cho một lần đăng báo, chúng tôi chỉ có thể nêu vài chục ví dụ về những sai lầm nằm trong cả hai quyển từ điển kể trên để độc giả chứng giám.

1. ẩn lậu 隱漏
Theo soạn giả thì ẩn = giấu kỹ, lánh đi, ngầm; lậu = rỉ ra ngoài, và ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng thắn nói ra. Quả thật, trong chữ Hán, chữ lậu 漏 này có nghĩa là rỉ ra ngoài. Nhưng như thế thì các từ tố ẩn và lậu có vẻ như trái nghĩa với nhau, bởi vậy, giải nghĩa như vậy là không thoả đáng, mà có thể nói là sai. Chữ lậu còn có vài nghĩa khác nữa, mà trong trường hợp này nó có nghĩa là lọt, là thoát (lậu võng nghĩa là lọt lưới), cũng là trốn tránh mà thôi. Vậy ta có thể nói rắng, ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, là lẩn tránh. Soạn giả định nghĩa rằng ẩn lậu nghĩa là giấu giếm, không thẳng thắn nói ra là để “khắc phục” điều mâu thuẫn mà ông cũng nhận thấy như chúng tôi chăng, nhưng, không thẳng thắn nói ra nghĩa là nói một cách ấp úng vì sợ sệt, hoặc là ở trong tình thế không thể giấu giếm được nên đánh phải nói ra chứ đâu có phải là ẩn lậu.
2. bàn hoàn 盤桓
Từ bàn hoàn có hai nghĩa: a) quanh quẩn không dứt ra được; b) quấn quýt với nhau. Giải thích như thế cũng tạm được. Về các từ tố, soạn giả cho rằng bàn là quanh co, hoàn là uốn éo. Thực ra, bàn 盤 nghĩa là vòng vèo, còn chữ hoàn 桓 này có các nghĩa như sau: a) cột gỗ dựng bên cạnh các dịch trạm (tức là trạm chuyển công văn) hoặc các công thự để quy định vị trí đứng đợi. Như vậy, từ bàn hoàn 盤桓 có nghĩa ban đầu là đi lại quanh quẩn cái cột mốc để mong ngóng. Về sau, nó có nghĩa mở rộng là bồi hồi, vương vấn, và quấn quýt.
3. bắc thần 北辰
Bắc thần nghĩa là sao bắc cực. Chữ thần 辰 này có nhiều nghĩa, trong đó, có nghĩa là thiên thể, là tinh tú, là ngày tháng, là đế vương (khác hẳn với chữ thần 臣 nghĩa là kẻ bề tôi hoặc chữ thần 神 trong từ tinh thần 精神). Trong trường hợp này, thần 辰 có nghĩa là ngôi sao. Nó còn có âm là thìn để chỉ ngôi thứ 5 trong 12 ngôi địa chi (tí, sửu, dần, mão, thìn, tị…). Soạn giả đưa ra một định nghĩa rất dài dòng: bắc thần là ngôi sao sáng hình như đứng yên một chỗ trên bầu trời và giúp ta xác định hướng chính bắc. Ðịnh nghĩa này không sai nhưng quá rườm rà. Ðiều không thể tha thứ được là ông đã “phán” bừa rằng thần nghĩa là tinh thần.
4. bị cáo 被告
Bị cáo là người bị tố cáo và bị toà án đem ra xét xử. Soạn giả đã hiểu đúng nghĩa của từ này, nhưng thật đáng ngạc nhiên khi thấy ông giải thích rằng cáo nghĩa là báo cho biết! Nếu đúng như vậy thì từ bị cáo chẳng liên quan gì với việc báo cho biết. Ðành rằng chữ cáo 告 cũng có nghĩa là báo cho biết, nhưng nó còn có một số nghĩa khác nữa, mà cụ thể ở đây làbuộc tội, vạch tội.
5. bức xạ 輻射
Theo soạn giả, bức nghĩa là bắt buộc, xạ nghĩa là bắn; bức xạ là sự phát và truyền năng lượng dưới dạng sóng và dạng hạt. Có thể chấp nhận định nghĩa này về bức xạ. Nhưng soạn giả đã phạm sai lầm nghiêm trọng khi ông đoán liều rằng bức nghĩa là bắt buộc. Chữ bức 輻 ở đây (khác hẳn chữ bức 逼 là bắt buộc) có nghĩa gốc là nan hoa ở bánh xe, và có nghĩa mở rộng là toả ra khắp mọi phía xung quanh.
6. cử tọa 擧座
Về từ tố cử, soạn giả nêu ra các nghĩa: cất lên, đưa lên, nổi dậy, thi đỗ; còn tọa thì có nghĩa là ngồi. Thực ra, chữ tọa 座 ở đây có nghĩa là chỗ ngồi (khác với chữ tọa 坐 nghĩa là ngồi). Về chữ cử, ngoài vài nghĩa mà soạn giả đã nêu, còn có nhiều nghĩa khác, trong đó có nghĩa là tất cả., và đó chính là nghĩa của nó trong từ cử tọa. Vì thế, cử tọa nghĩa là tất cả những người ngồi dự một cuộc họp
7. dạ hợp 夜合
Theo lời soạn giả thì dạ = ban đêm; hợp = thích hợp; và dạ hợp là một loài cây cùng họ với ngọc lan, hoa trắng rất thơm, nở về ban đêm. Cách cắt nghĩa từ tố hợp như trên đã khiến ông tin rằng dạ hợp nghĩa là thích hợp với ban đêm nên loài hoa này ắt phải nở về đêm! Ðó là một điều sai nghiêm trọng. Ðúng là chữ hợp 合 có một nghĩa là thích hợp, là phù hợp, nhưng nó còn có nhiều nghĩa khác nữa. Trước hết, nghĩa ban đầu của nó là khép lại, mà đó cũng chính là nghĩa cụ thể trong từ dạ hợp 夜合. Từ điển Từ nguyên nói về cây dạ hợp như sau: “mộc bản, diệp trường, hoa thanh bạch sắc, hiểu khai dạ hợp, cố danh”. Nghĩa là: thân gỗ, lá dài, hoa màu trắng xanh, trời sáng thì nở, ban đêm thì cụp lại, do đó mà có tên ấy. Như vậy, vào ban đêm, hoa dạ hợp không thể nở được, dẫu đã nở rồi cũng phải cụp lại.
8. Ðịa Trung Hải 地中海
Ðịa là đất, là lục địa; trung là ở trong, ở giữa; hải là biển. Ðịa Trung Hải là biển ở trong lục địa. Tuy nhiên, từ này đã trở thành tên riêng để chỉ một biển cụ thể, có diện tích 25 triệu km2, nằm ở phía nam Châu Âu, phía bắc Châu Phi, phía tây Châu Á, thông với Ðại Tây Dương qua eo biển Gibraltar và thông với Biển Ðỏ qua kênh đào Suez. Ðiều đáng ngạc nhiên là sau khi giải thích rằng Ðịa Trung Hải là biển ở giữa lục địa, soạn giả đưa ra một câu ví dụ: Biển Caxpiên của Liên xô là một địa trung hải. Như vậy, ông đã không định nghĩa được từ Ðịa Trung Hải, lại còn dùng từ này như một danh từ chung, với nghĩa là cái hồ lớn. Hơn nữa, biển Caxpiên còn có 43.200 km2 thuộc chủ quyền của Iran chứ không hoàn toàn thuộc Liên Xô trước đây.
9. đồng lõa 同伙
Có lẽ ai cũng biết rằng từ đồng lõa có hai nghĩa: 1) người trong cùng một nhóm để làm một việc bất chính (danh từ), và 2) cùng tham gia một nhóm làm việc bất chính (động từ). Soạn giả dạy rằng lõa là cái bọc. Thực ra, lõa là âm đọc chệch từ chữ hỏa 火 nghĩa là lửa, là bếp. Theo binh chế thời xưa, mười người lính thì cùng nấu một bếp, tạo thành một hỏa, như một tiểu đội vậy. Đồng hỏa 同伙 (chữ hỏa 火 ở đây thường được viết là 伙 để chỉ người) nghĩa là người trong cùng một bếp ăn, mở rộng ra là bọn người cùng một nhóm “làm ăn với nhau” (thường là bất chính.)
10. giám quốc 監國
Soạn giả cho biết: giám nghĩa là trông coi, quốc là nước. Đúng. Nhưng ông định nghĩa rằng giám quốc là người đứng đầu một nước cộng hoà tư sản thì sai to. Càng sai nữa khi ông viết rằng Ngày nay người ta dùng từ “tổng thống” để thay từ “giám quốc”. Thực ra, giám quốc là người cầm quyền tạm thời khi vua vắng mặt hoặc khi vua còn nhỏ. Ví dụ, năm 1908, Phổ Nghi lên ngôi khi mới hai tuổi, đình thần nhà Thanh đã cử cha của ông ta là Tải Thuần làm giám quốc. Cuối năm 1787, tướng của Nguyễn Huệ là Vũ Văn Nhậm ra Bắc giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi lập Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận (chú của Lê Chiêu Thống ) làm giám quốc vì Lê Chiêu Thống đã chạy khỏi kinh thành để cầu cứu quân Thanh. Khi Nguyễn Huệ ra Bắc giết Vũ Văn Nhậm, ông vẫn để Lê Duy Cận làm giám quốc.
11. kinh lạc經絡
Soạn giả cho biết rằng chữ kinh 經 có các nghĩa: sửa trị, đường dọc, sách vở, từng trải, thường. (Chúng ta hiểu rằng trong từ kinh lạc, thì kinh có nghĩa là đường dọc). Còn chữ lạc thì ông cho rằng đó là dây thần kinh, và kinh lạc là hệ thống dây thần kinh nối liền các huyệt. Nhưng, theo từ điển Từ Hải thì kinh lạc là mạng lưới các đường vận chuyển khí huyết (theo quan niện của Đông y, gần có nghĩa như năng lượng) trong cơ thể. Kinh 經là những đường chính chạy theo chiều dọc của cơ thể; lạc絡 là những đường nối ngang giữa các đường dọc ấy; các huyệt châm cứu đều nằm trên mạng lưới kinh lạc. Hệ kinh lạc khác hẳn hệ thần kinh, và các đường kinh lạc không trùng với các dây thần kinh.
12. linh sàng 靈床
Linh là thiêng liêng, là liên quan đến người chết; sàng là cái giường. Các từ tố này đã được soạn giả giải nghĩa đúng. Nhưng ông cho rằng linh sàng là giường thờ người mới chết chưa đem chôn. Nếu như vậy thì phải chăng Nguyễn Du đã dùng sai từ này ở hai câu thơ trong Truyện Kiều:
Sang nhà cha, tới trung đường,/ Linh sàng bài vị thờ nàng ở trên.
Thật ra, từ linh sàng có hai nghĩa: 1) giường đặt thi thể người chết khi đám tang; 2) cái bàn nhỏ đặt trước bàn thờ, làm “chỗ nghỉ” cho linh hồn người chết khi chưa hết tang. Đó chính là cái “giường thờ”, rồi từ đó, dân ta cũng gọi cái bàn thờ là “giường thờ” khiến nhiều người, kể cả những người biên soạn từ điển tiếng Việt đã định nghĩa: “giường thờ” là bàn thờ tổ tiên, cao và rộng! (Hoàng Phê). Trong hai câu thơ trên đây, linh sàng mang nghĩa thứ hai.
13. lộng hành 弄行, lộng quyền 弄權
Lộng hành nghĩa là hành động một cách coi thường mọi người. Lộng quyền nghĩa là đem quyền hành ra làm trò đùa, muốn làm gì thì làm, chẳng kể gì đến phép tắc luật lệ. Chữ lộng 弄 có một số nghĩa thông thường là: chơi đùa; đem sự vật khác hoặc sự việc khác ra làm trò đùa; khinh nhờn, coi thường. Với nghĩa như thế, người ta còn có từ lộng nguyệt, nghĩa là chơi đùa với trăng, tức là vui chơi dưới ánh trăng, lộng ngôn là nói năng bừa bãi, thích nói gì thì cứ nói, và lộng bút nghĩa là viết lách vô trách nhiệm, không biết cũng viết bừa, coi thường mọi người. Tiếc thay, soạn giả chỉ nắm được nghĩa sơ sài của các từ lộng hành và lộng quyền rồi suy ra rằng lộng nghĩa là lấn át. Chưa kể đến hàng trăm trường hợp giảng giải liều lĩnh khác, chỉ riêng trường hợp này cũng đã đủ cho phép mọi người coi ông là một kẻ lộng bút.
14. lưu chiểu 留照
Soạn giả giảng rằng lưu = giữ lại; chiểu = văn bản; và lưu chiểu là tác phẩm văn nghệ nộp cho cơ quan lưu trữ của nhà nước để làm tài sản chung. Nhưng, chẳng có chữ chiểu nào có nghĩa là văn bản cả. Hơn nữa, chúng ta biết rằng chữ chiểu ở đây chính là biến âm của chữ chiếu 照, tức là đối chiếu, là so sánh để phát hiện thật hay giả hoặc đúng hay sai. Lưu chiểu là giữ lại bản mẫu của văn bản đã lưu hành để so sánh, kiểm tra khi cần thiết. Mục đích chính của việc lưu chiểu là như thế chứ không phải để làm tài sản chung. Soạn giả đã không hiểu chữ chiểu và cũng không hiểu gì về từ lưu chiểu.
14. lỵ sở治所
Lỵ sở là trung tâm hành chính của một địa phương. Nhưng thật là sai lầm khi soạn giả đoán rằng lỵ là đến nơi. (Chữ này có mặt trong từ lỵ nhậm 蒞任, nghĩa là đến nơi nhậm chức). Ông không biết rằng lỵ sở vốn là trị sở治所 nhưng bị đọc chệch đi và đã trở thành thói quen. Lỵ ở đây chính là trị 治, nghĩa là cai quản, điều hành công việc, và cũng dùng để gọi tắt từ trị sở.
15. thôi thúc 催促
Từ này tưởng là quá đơn giản, thế mà soạn giả đã giảng sai. Theo ông, thôi nghĩa là thúc giục, và thúc nghĩa là buộc. Thực ra, chữ thúc 促 này có nghĩa là giục giã, là đòi phải tăng tốc, như trong từ đốc thúc, khác với chữ thúc 束 nghĩa là buộc. Chữ thúc trong từ thôi thúc cũng có âm là xúc, và có mặt trong từ xúc tiến.
16. thế nghiệp 世業
Soạn giả đã giảng rằng thế nghĩa là quyền lực hoặc trạng thái (có dạng chữ Hán là 勢), nghiệp nghĩa là nghề, và thế nghiệp là chức vụ do cha ông để lại trong thời phong kiến. Thực ra thế 世 nghĩa là đời, nghiệp 業 là sự nghiệp hoặc sản nghiệp. Thế nghiệp 世業 là sự nghiệp hoặc tài sản do đời trước để lại. Các bộ từ điển đáng tin cậy đều định nghĩa như thế.
18. trữ tình 抒情
Vì không biết “mặt chữ” mà chỉ phỏng đoán theo cảm tính nên soạn giả đã giảng giải rằng trữ là chứa chất, tình là tình cảm; trữ tình là chứa chất tình cảm. Thật là sai lầm nghiêm trọng. Nên nhớ rằng ở đây, trữ 抒 nghĩa là biểu đạt, là bày tỏ. Trữ tình nghĩa là bày tỏ tình cảm. Cần phân biệt chữ trữ 抒 này với chữ trữ 貯 trong từ tích trữ.
19. vi điện tử 微 電 子
Vi điện tử là hạt điện tử rất nhỏ, đó là cách giải thích của soạn giả, khiến người đọc buồn cười. Điện tử, tức electron, là một loại hạt cơ bản bền vững, là hạt tích điện âm trong mọi vật chất thông thường, có khối lượng bằng khoảng 9,11 x 10-28gram và điện tích khoảng -1,602 x 10-19 coulomb. Như vậy, điện tử có khối lượng và điện tích rất cụ thể, làm gì có thứ điện tử rất nhỏ khác nữa?
Từ vi điện tử vốn được dịch từ tính từ microelectronic(al) trong tiếng Anh (hoặc micro-electronique trong tiếng Pháp), nó chỉ có thể đóng vai trò tính từ, như trong các cụm từ như mạch vi điện tử, thiết bị vi điện tử, v.v. để chỉ mạch điện tử hoặc thiết bị điện tử có kích thước cực kỳ nhỏ bé.
20. viễn phố 遠浦
Soạn giả giải thích rằng viễn = xa; phố = chỗ bán hàng, nhà trạm; và viễn phố = nơi ở xa. Rồi ông trích dẫn câu thơ Gác mái, ngư ông về viễn phố… của Bà huyện Thanh Quan. Ông không hiểu rằng ở đây, phố 浦 nghĩa là bến sông chứ không phải phố 鋪 là cửa hàng. Viễn phố 遠浦 nghĩa là bến sông ở xa. Bà huyện Thanh Quan ở thế giới bên kia hẳn phải nổi giận và vô cùng đau lòng cho đất nước nếu bà biết rằng có một nhà biên soạn từ điển tiếng Việt ở cuối thế kỷ XX đã giảng giải thơ của bà như thế.
Vài chục thí dụ trên đây chỉ là một phần mười của những sai lầm mà chúng tôi đã phát hiện được trong Từ điển từ và ngữ Hán Việt, mà cũng nằm cả trong Từ điển từ và ngữ Việt Nam của GS Nguyễn Lân. Đương nhiên, vì Từ điển từ và ngữ Việt Nam chứa trọn nội dung của Từ điển từ và ngữ Hán Việt và còn thêm rất nhiều từ ngữ khác ít liên quan đến Hán ngữ nên nó còn phạm vô số sai lầm khác mà tác giả Huệ Thiên đã cho thấy một phần qua bài Đọc lướt Từ điển từ và ngữ Việt Nam của Nguyễn Lân.
Qua những thí dụ này, chúng ta thấy soạn giả Nguyễn Lân luôn luôn sẵn sàng “sáng tác” nghĩa cho các từ tố; hơn nữa, ông lại rất thiếu kiến thức về văn hóa, lịch sử và khoa học. Nếu trong đời một giáo viên đứng trên bục giảng mà một hai lần phạm vài sai lầm như những trường hợp kể trên thì cũng trở thành trò cười và mang tiếng cả đời rồi. Huống chi, từ điển là sách cung cấp những hiểu biết chính xác về từ ngữ, ở đây là từ ngữ tiếng Việt, mà phạm đến vài trăm sai lầm lớn như thế, sao có thể chấp nhận được?
Một thực tế rất đáng buồn là Từ điển từ và ngữ Hán Việt chứa nhiều sai lầm nghiêm trọng như vậy nhưng sau lần xuất bản đầu tiên năm 1989 (Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh), nó đã được tái bản nhiều lần. Vì thế nên đến năm 2000, GS Nguyễn Lân lại cho ra đời quyển Từ điển từ và ngữ Việt Nam lớn hơn và càng nhiều sai lầm hơn. Đặc biệt, Từ điển từ và ngữ Hán Việt thì được GS Lê Trí Viễn coi là cuốn từ điển Hán Việt tốt nhất từ trước đến nay, và nó sẽ là công cụ tra cứu không thể thiếu được đối với bất kỳ ai, trước hết là học sinh, sinh viên, các thầy cô giáo, các nhà biên soạn, khi muốn nắm được nghĩa chính xác của từ và ngữ Hán Việt trong tiếng Việt hiện nay. Còn về giá trị của Từ điển từ và ngữ Việt Nam thì GS Vũ Khiêu cho rằng “trí tuệ và tâm huyết của tác giả đã tạo ra một tác phẩm rất có giá trị mà cả xã hội đang mong đợi” (theo Lời giới thiệu).
Khỏi phải bàn về tính khả tín của hai vị giáo sư này.
© Lê Mạnh Chiến
Nguồn: Bauxit Việt Nam