Friday, 20 November 2015

Môn Lịch sử đứng trước "thách thức chưa từng có"? (Lê Hà - Nhân Dân)

(Ảnh: Thu Hà)
(Ảnh: Thu Hà)
Môn Lịch sử đứng trước "thách thức chưa từng có"? 
NDĐT - Đại diện Hội Khoa học lịch sử Việt Nam cho biết Hội sẽ kiến nghị lên các lãnh đạo cấp cao nhất để "bảo vệ môn Lịch sử như một môn học cơ bản, độc lập và bắt buộc từ cấp Trung học cơ sở đến cấp Trung học phổ thông. Trong khi đó, Ban xây dựng chương trình Giáo dục phổ thông tổng thể cho rằng, nếu giữ môn học với tên gọi Lịch sử, với logic nội dung kiến thức như hiện nay thì khó đáp ứng được các yêu cầu đổi mới.
Thách thức chưa từng có
Bảo tàng Lịch sử Quốc gia là địa điểm được Hội khoa học lịch sử Việt Nam lựa chọn để tổ chức hội thảo "Môn Lịch sử trong giáo dục phổ thông", vào sáng 15-11 tại Hà Nội. Chủ đề "nóng" về đổi mới môn lịch sử đã khiến hội trường của Bảo tàng đã không còn một chỗ trống, với sự tham dự của đông đảo chuyên gia Giáo dục, Lịch sử, các nhà khoa học, cán bộ, giảng viên, giáo viên Lịch sử tại các trường ĐH, học viện, trường THPT.
Về phía Bộ Giáo dục và Đào tạo (GD-ĐT) có sự tham dự của Thứ trưởng Nguyễn Vinh Hiển, đại diện một số vụ, cục, cơ quan Bộ GD-ĐT, Ban xây dựng Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể.
"Giáo dục môn Lịch sử trong trường Trung học cơ sở và Trung học phổ thông sa sút nhiều đã gây nỗi lo âu trong toàn xã hội", GS Phan Huy Lê nói. Ông giải thích: "Tình trạng xuống cấp của môn lịch sử có nhiều nguyên nhân, trước hết là do sách giáo khoa quá nặng nề, lối học và thi cử nặng về truyền thu và đo kiến thức. Truy nguyên lên cao hơn là do chương trình, nhận thức không đúng về vị thế và yêu cầu giáo dục môn Lịch sử, không tôn trọng và nêu cao tính khoa học của môn học"
Trước băn khoăn về "số phận" môn Lịch sử trong kết cấu của chương trình GDPT mới, PGS.TS Nghiêm Đình Vỳ, nguyên hiệu trưởng Đại học Sư phạm Hà Nội, nguyên Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương phân tích, trong Dự thảo Chương trình Giáo dục phổ thông (GDPT) tổng thể liên quan đến môn Lịch sử ở THPT có các môn, phân môn, chuyên đề: 1.Môn lịch sử tự chọn, 2.Phân môn Lịch sử trong Khoa học xã hội, 3. Phân môn Lịch sử trong môn Công dân với Tổ quốc, 4. Các chuyên đề Lịch sử.

(Ảnh: Thu Hà)
Có ý kiến cho rằng thời lượng môn Lịch sử ngang bằng và thậm chí còn nhiều hơn chương trình hiện hành. "Nghe như vậy, người ngoài giới Sử học tưởng nhiều và tốt quá. Đâu phải như vậy" – ông nói.
Ông bày tỏ: "Chúng tôi là những người đã tham gia làm chương trình và viết SGK nhận thấy nếu đầy đủ cả một môn học, hai phân môn và một chuyên đề như trên thì rất khó mà xây dựng được chương trình chắc chắn, thiết thực, sẽ có sự chồng chéo, trùng lặp và phá nát môn Lịch sử".
Cùng chung lo ngại, GS.TS Trần Thị Vinh (Khoa Sử, Trường ĐH Sư phạm HN) cho rằng việc Lịch sử được đưa vào các môn học có tính chất "tích hợp", trở thành phân môn trong môn học mới, cho thấy môn Lịch sử đang "đứng trước nguy cơ xóa sổ" trong chương trình GDPT với tư cách một môn học độc lập, là "thách thức chưa từng có đối với bản thân môn Lịch sử" và cũng "chưa từng có tiền lệ" trong lịch sử giáo dục Việt Nam.
GS Trần Thị Vinh cũng bày tỏ lo ngại, nếu Lịch sử là môn tự chọn thì sẽ có rất ít học sinh chọn môn này: "Theo tôi thì lớp trẻ hiện nay chạy theo xu thế hiện đại, thực dụng, khoa học xã hội ở vị trí thấp kém, môn Lịch sử càng kém nên học sẽ không chọn môn Lịch sử".
PGS.TS Vũ Quang Hiển đặt câu hỏi: "Thế hệ trẻ Việt Nam sẽ thế nào nếu Lịch sử không được giáo dục một cách có hệ thống, toàn bộ và toàn diện"? Ông cho rằng những ý tưởng "hòa trộn môn Lịch sử trong nhiều môn học khác" thực chất là coi nhẹ môn học này. "Nếu không chỉnh sửa Dự thảo chương trình tổng thể sẽ là sự "khai tử" môn Lịch sử" – ông kiến nghị. "Cách giải thích về việc ghép môn Lịch sử với một số môn khác cũng như cách lập luận những bộ môn khác nhau đều có thể giáo dục Lịch sử thực chất chỉ là những lời biện hộ cho việc xóa bỏ môn Lịch sử, không hề có cơ sở khoa học", ông nói.
Một số ý kiến của các nhà khoa học, giảng viên Lịch sử khác cùng chung lo ngại nếu tích hợp Lịch sử vào các môn học khác sẽ không thể hiện được tầm quan trọng của giáo dục Lịch sử, đồng thời, sẽ khó tích hợp các mạch kiến thức Giáo dục công dân, giáo dục Lịch sử và Giáo dục Quốc phòng an ninh; trái với yêu cầu giáo dục định hướng nghề nghiệp ở cấp THPT; hơn nữa đội ngũ giáo viên hiện nay không dạy được môn học mới này.
Khó đáp ứng yêu cầu đổi mới
Trao đổi về vấn đề này, Ban xây dựng chương trình giáo dục phổ thông tổng thể cho rằng: Theo định hướng đảm bảo tính thống nhất giữa tích hợp và phân hóa trong giáo dục để người dạy, nhất là người học dễ dàng vận dụng tổng hợp các kiến thức khác nhau nhưng có liên quan để giải quyết vấn đề trong học tập và trong cuộc sống nhằm phát triển phẩm chất và năng lực của người học thì mỗi môn học cần phải đề cập nhiều lĩnh vực kiến thức và mỗi lĩnh vực kiến thức cần được bố trí trong một số môn học khác nhau.
Mỗi lĩnh vực giáo dục được thực hiện qua nhiều môn học, trong đó có một hoặc một số môn học cốt lõi. Nhà tổ chức giỏi phải biết tổ chức nội dung trong từng môn học, cũng như giữa các môn học sao cho các kiến thức được dạy không bị chồng chéo mà lại có tác dụng soi sáng, hỗ trợ lẫn nhau để tăng hiệu quả giáo dục.
Cách sắp xếp các môn học Công dân với Tổ quốc và môn Khoa học Xã hội (hoặc môn) Lịch sử trong dự thảo Chương trình mới là kết quả của việc rút kinh nghiệm nhằm khắc phục hạn chế của chương trình hiện hành và tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của chương trình giáo dục phổ thông một số nước. Việc tiếp theo đây là phải xây dựng chương trình môn học, viết SGK và thực hiện quá trình giáo dục sao cho tốt nhất.
Ban xây dựng cũng nêu quan điểm về tên gọi môn học: "Chúng ta biết rằng, để bảo đảm tầm quan trọng của môn học/lĩnh vực giáo dục nào thì không phải là cần gọi tên môn học đó có một cách “đích danh”, “trực tiếp” (như tên các môn học trong các chương trình truyền thống) mà là: Người học nắm được kiến thức của môn học/lĩnh vực đó ở mức độ nào, bằng cách nào (có hiệu quả không) và kiến thức đó có chuyển hóa thành phẩm chất (hứng thú, niềm tin, đạo đức, thái độ…) và năng lực (vận dụng kiến thức cùng với các phẩm chất cá nhân để giải quyết các vấn đề trong học tập và trong cuộc sống).
Việc lựa chọn tên môn học chủ yếu dựa vào tính chất của môn học. Ở cấp THPT, có 4 môn học bắt buộc đối với tất cả các học sinh thì 3 môn được đặt tên “trực tiếp” theo truyền thống là Ngữ văn, Toán, Ngoại ngữ (Tiếng Anh, Tiếng Pháp…), là do tính chất công cụ cho hoạt động của con người và một môn Công dân với Tổ quốc (là môn học có tên mới) do vai trò đặc biệt, có ý nghĩa chính trị trong lĩnh vực giáo dục đạo đức công dân, góp phần quan trọng hình thành phẩm chất công dân, năng lực và trách nhiệm, nghĩa vụ công dân đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Việc đặt tên như vậy được thực hiện thống nhất với các môn học/lĩnh vực giáo dục khác trong chương trình.
Việc thiết kế môn học tích hợp mới theo các mạch kiến thức dựa theo các môn học truyền thống mà chưa tích hợp thật mạnh (như một số nước phát triển đã làm) là một giải pháp đã cân nhắc đến năng lực dạy học tích hợp còn hạn chế của đa số giáo viên các môn học hiện nay.
Các mạch kiến thức trong từng môn không phải là sự sắp đặt cạnh nhau đơn giản mà có sự tích hợp đến mức độ cần thiết, đảm bảo giáo viên từng môn học hiện nay sẽ dạy được từng mạch kiến thức tương ứng.
Mặt khác, việc thiết kế như vậy tạo thuận lợi cho việc thiết kế trong mỗi môn học có thêm những chuyên đề tích hợp sâu, Hiệu trưởng trường phổ thông sẽ căn cứ năng lực thực tế của từng giáo viên để phân công giảng dạy từng chuyên đề cụ thể.
Cũng theo Ban xây dựng chương trình, kết quả cuộc thi giáo viên thiết kế và dạy học các chuyên đề tích hợp trong 2 năm qua đã chứng minh hiện nay những giáo viên giỏi đã tự thiết kế và dạy được một số chuyên đề dạng này. Giáo viên sẽ được tiếp tục bồi dưỡng để sẵn sàng dạy học theo chương trình mới.
Đồng thời, các trường sư phạm phải đổi mới chương trình và đổi mới cách thức tổ chức đào tạo để đào tạo được những giáo viên dạy được toàn bộ các nôi dung trong từng môn học mới của chương trình giáo dục phổ thông.
Với quan điểm cho rằng, học sinh sẽ không chọn môn Lịch sử đồng nghĩa với việc Lịch sử không tồn tại trong giáo dục phổ thông, Ban Xây dựng Đề án giải thích: Theo Dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể, tất cả học sinh đều bắt buộc phải học nội dung giáo dục Lịch sử trong ít nhất hai môn: Công dân với Tổ quốc và một trong hai môn Lịch sử hoặc môn Khoa học Xã hội.
Ngoài ra, học sinh còn được học Lịch sử trong các môn học khác, nhất là trong môn Ngữ văn và trong các hoạt động trải nghiệm sáng tạo; học sinh còn có thể tự chọn thêm các chuyên đề học tập mở rộng hoặc nâng cao về Lịch sử.
Thời lượng bắt buộc dành cho nội dung giáo dục Lịch sử trong chương trình mới chắc chắn sẽ nhiều hơn trong chương trình hiện hành, điều này là rõ ràng vì chương trình hiện hành bắt buộc học sinh học Lịch sử 1,5 tiết/tuần, dự thảo Chương trình giáo dục phổ thông tổng thể bắt buộc học sinh phải học Công dân với Tổ quốc 3 tiết/tuần, cộng thêm môn Khoa học Xã hội 3 tiết/tuần, hoặc Lịch sử 3 tiết/tuần.
Về lo ngại nếu để kiến thức Lịch sử ở 3 môn Công dân với Tổ quốc, Khoa học xã hội, Lịch sử ở cùng cấp học thì kiến thức Lịch sử bị xé lẻ hoặc chồng chéo nhau giữa 3 môn, Ban xây dựng chương trình giáo dục phổ thông tổng thể khẳng định: Trong chương trình mới, học sinh sẽ học kiến thức lịch sử trong ít nhất hai môn học, nghĩa là kiến thức lịch sử sẽ được sắp xếp theo logic mới chứ không phải là xé lẻ kiến thức.
Việc xây dựng chương trình, viết SGK phải đảm bảo yêu cầu này và phải tránh chồng chéo/lặp lại kiến thức lịch sử giữa môn Công dân với Tổ quốc với môn Khoa học xã hôi, giữa môn Công dân với Tổ quốc với môn Lịch sử; giữa hai môn Khoa học xã hội và môn Lịch sử thì có thể có cùng một số nội dung kiến thức Lịch sử vì hai môn này nhằm đáp ứng hai nhóm học sinh khác nhau.
Thực tế là kiến thức lịch sử hay những vấn đề có liên quan đến lịch sử đang tồn tại trong nhiều hoạt động, quá trình, hiện tượng khác nhau, việc lựa chọn, tách ra và sắp xếp như thế nào trong các môn học là nghệ thuật của nhà giáo dục trong việc chuyển tải nội dung khoa học thành nội dung dạy học, tránh cho môn học không chỉ là bản sao chép, rút gọn một khoa học chuyên ngành, rất đảm bảo logic hình thức, nhưng chính vì vậy mà không tránh được hiện tượng phải có nhiều kiến thức hàn lâm, xa rời cuộc sống, gây quá tải cho học sinh như nhiều môn học hiện nay.
Với đề nghị duy trì Lịch sử là môn học riêng, bắt buộc với tất cả các học sinh, theo Ban xây dựng dự thảo chương trình GDPT tổng thể, việc bố trí các môn học ở cấp THPT cũng như trong toàn bộ Chương trình giáo dục phổ thông mới phải quán triệt yêu cầu đổi mới, phải đặt trong mối quan hệ tổng thể giữa các môn học; Đồng thời, phải tạo thuận lợi cho việc đổi mới cả nội dung, hình thức tổ chức, phương pháp dạy học và kiểm tra đánh giá học sinh, hướng tới mục tiêu đáp ứng tốt nhất mục tiêu giáo dục toàn diện đức, trí, thể, mỹ và phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh, phát triển hài hòa cả thể chất và tinh thần, hình thành và phát triển phẩm chất, năng lực người công dân Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa hiện đại hóa và hội nhập quốc tế.
Ban xây dựng chương trình cho rằng, nếu giữ môn học với tên gọi Lịch sử, với logic nội dung kiến thức như hiện nay thì khó đáp ứng được các yêu cầu đổi mới.
Tuy vậy, các ý kiến trong hội thảo thống nhất để khôi phục chất lượng giáo dục môn Lịch sử cần đổi mới căn bản và toàn diện cả hệ thống giáo dục môn Lịch sử trong nền giáo dục phổ thông từ nhận thức, vị thế, yêu cầu giáo dục đến việc xây dựng lại chương trình, biên soạn lại sách giáo khoa, thay đổi cách dạy, cách học, cách thi.
Tổng kết hội thảo, GS Phan Huy Lê, Chủ tịch Hội Khoa học lịch sử Việt Nam, thay mặt cho Đoàn chủ tịch cho biết, các ý kiến đều thống nhất cần đổi mới môn học Lịch sử/giáo dục lịch sử theo tinh thần Nghị quyết 29 là chuyển từ tập trung trang bị kiến thức sang phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh, phát huy tốt nhất tiềm năng của mỗi học sinh.
Muốn vậy, phải rất coi trọng việc làm cho giáo dục lịch sử không gây áp lực nặng nề, làm buồn chán học sinh, trái lại, môn Lịch sử phải trở nên hấp dẫn, hứng thú với người học.
GS Phan Huy Lê cho biết với quan điểm khi đưa vào tích hợp "Khoa học xã hội" ở cấp trung học cơ sở và "Công dân với Tổ quốc" ở cấp trung học phổ thông, môn Lịch sử đã bị xé nhỏ, tích hợp tùy tiện một ít nội dung vào hai môn kia, như vậy "Trên thực tế môn Lịch sử đã bị xóa sổ với vị thế và yêu cầu của một môn học trong tính hệ thống và toàn diện của nó", Hội Khoa học lịch sử sẽ kiến nghị lên lãnh đạo cao nhất của Đảng, Quốc hội, Nhà nước, Chính phủ và Mặt trận Tổ quốc Việt Nam cần bảo vệ môn lịch sử như một môn học cơ bản, độc lập và bắt buộc từ cấp Trung học cơ sở đến cấp Trung học phổ thông.
Tất nhiên, bảo vệ môn Lịch sử cần gắn liền với yêu cầu đổi mới một cách căn bản và toàn diện hệ thống môn học để phát huy hiệu quả giáo dục của môn học.
LÊ HÀ

Thursday, 19 November 2015

Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ IV: Việc của người trong cuộc (Xuân Ba - Tiền Phong_

Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ IV: Việc của người trong cuộc

TP - Được phép của giáo sư (GS) Mai Quốc Liên, xin được cảo thơm lần giở tập tư liệu hồi ức của GS Nguyễn Văn Hoàn.
…Cuối năm 1959, Viện Văn học thuộc Ủy ban Khoa học nhà nước bắt đầu tập trung cán bộ để chuẩn bị thành lập và đi vào hoạt động. Tôi đang làm cán bộ giảng dạy của Khoa Văn trường Đại học Sư phạm Hà Nội liền trở thành cộng tác viên của Nhóm Truyện Kiều thuộc một tổ nghiên cứu của viện có cái tên gọi tắt ngộ nghĩnh Cổ - Cận - Dân(Cổ đại, Cận đại, Dân gian).
Sau đó Viện Văn học có dự kiến sẽ đề nghị kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965 nên từ đầu năm 1962 tôi được điều về làm cán bộ nghiên cứu của Tổ Cổ - Cận, mới tách ra từ tổ nói trên, do nhà văn Trần Thanh Mại làm tổ trưởng. Công việc đầu tiên của chúng tôi là dự thảo kế hoạch kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du.
Ngày 2/2/1962, Viện Văn học mở Hội nghị, mời đại diện các ngành liên quan và các nhà văn, nhà nghiên cứu đến góp ý kiến cho bản dự thảo kế hoạch. Đến dự có khoảng 70 người, trong đó có các ông Nguyễn Khánh Toàn, Trần Văn Giàu, Trần Huy Liệu, Ca Văn Thỉnh, Minh Tranh (Ủy ban Khoa học nhà nước), Nguyễn Xuân Trâm (Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam), các nhà nghiên cứu Lê Thước, Hoàng Ngọc Phách, nhà thơ Xuân Diệu, các GS Hoàng Xuân Nhị, Nguyễn Lương Ngọc, Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn (Đại học Hà Nội) v.v...
Sau lời tuyên bố lý do của ông Hoài Thanh, Phó viện trưởng Viện Văn học, ông Nguyễn Khánh Toàn, Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học nhà nước, đã khai mạc hội nghị.
Ông nói: “Việc kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du là một sự kiện lớn trong sinh hoạt văn học của nước ta đồng thời có ý nghĩa chính trị và tầm quan trọng quốc tế. Một kiệt tác là thành tích của một cá nhân, một thiên tài, nhưng đồng thời thể hiện bản lĩnh sáng tạo của một dân tộc. Kỷ niệm Nguyễn Du là một dịp khiến ta hiểu ta hơn, từ đó đề cao tinh thần tự hào dân tộc và từ thực tiễn quá khứ rút ra bài học để tiến lên. Kinh nghiệm Liên Xô: Kỷ niệm 100 năm Puskin đã tạo được một bước phát triển mới cho nghiên cứu văn học, sân khấu, điện ảnh... Vấn đề Nguyễn Du và Truyện Kiều có ý nghĩa quốc tế của nó. Khi thực dân Pháp mới chiếm nước ta, Truyện Kiều là một trong những tác phẩm đầu tiên được dịch và nghiên cứu, đến nay không riêng gì ở Pháp mà ở Liên Xô và nhiều nước khác trên thế giới đều có dịch và nghiên cứu Truyện KiềuMấy năm nay Hội đồng Hòa bình thế giới có sáng kiến kỷ niệm danh nhân văn hóa các nước nhưng ta chưa có danh nhân tiêu biểu nào chẵn năm, lần này chúng ta sẽ giới thiệu Nguyễn Du ra thế giới kỷ niệm. Từ nay đến 1965 chúng ta còn 3 năm chuẩn bị, 
Thời gian còn lại không nhiều. Viện Văn học sẽ là đơn vị chủ chốt nhưng cần có sự phối hợp với các cơ quan khác, cần có một kế hoạch, một tổ chức, cần lập ngay Ban trù bị kỷ niệm để theo dõi, phối hợp việc thực hiện, kể cả việc phối hợp với các tổ chức và cá nhân ở nước ngoài”.
Tiếp đó ông Trần Thanh Mại, thay mặt Viện Văn học trình bày kế hoạch dự kiến và hội nghị thảo luận rất hào hứng.
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ IV: Việc của người trong cuộc - ảnh 1
Sau cuộc họp, Viện Văn học đã thành lập Ban trù bị kỷ niệm Nguyễn Du và làm tờ trình gửi lên Ban Bí thư, Ban Tuyên huấn Trung ương và đến tận từng đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, đồng thời gửi lên Ủy ban Khoa học nhà nước, Bộ Văn hóa, Ủy ban Bảo vệ hòa bình thế giới của Việt Nam; mặt khác các báo đều đưa tin làm cho dư luận trong nước rất quan tâm.

Phản hồi đầu tiên đến từ tỉnh Hà Tĩnh, có thắc mắc là sao chưa kỷ niệm Trần Phú mà đã kỷ niệm Nguyễn Du. Ông Đặng Thai Mai đã viết thư cho lãnh đạo tỉnh Hà Tĩnh, đề nghị cho biết rõ ý kiến đó, đồng thời đề nghị Hà Tĩnh chưa nên vội di táng mộ Nguyễn Du và xây dựng trường học trên phần đất đã dự kiến dành cho khu lưu niệm.
Xây trường học trên phần đất khu mộ của Nguyễn Du? Chuyện động trời? Về sau hóa ra chuyện thế này.  Dịp ấy,  một đồng chí lãnh đạo Hà Tĩnh ra Hà Nội họp, đã đến thăm ông Đặng Thai Mai và nói: “Có chuyện chi mô anh, đó chỉ là một cách để Hà Tĩnh “vòi” Trung ương thêm kinh phí kỷ niệm Trần Phú, còn mần cụ mô trước thì có can chi mô vì cũng là danh nhân Hà Tĩnh cả!”.
Vấn đề Hà Tĩnh thế là được giải đáp, sau đó Viện Văn học lại nhận được tiểu luận Trách nhiệm và giá trị Nguyễn Du về truyện Kim Vân Kiều của ông Tôn Quang Phiệt, 91 trang đánh máy. Tác giả bản tiểu luận đã so sánh, đối chiếu Truyện Kiều của Nguyễn Du và Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân để đi đến kết luận: Nguyễn Du đã phỏng dịch chứ không phải đã sáng tác ra Truyện Kiều, rồi kết thúc bằng mấy câu tập Kiều:
Rằng hay thì thật là hay! 
Cành kia chẳng phải cỗi này mà ra!
Rồi cụ Tôn Quang Phiệt thẳng thắn đề nghị không nên rầm rộ kỷ niệm Nguyễn Du bằng hai câu đậm hơi hướng Kiều thế này.
Dám xin gửi lại một lời: 
Yêu nhau mà lại bằng mười phụ nhau!
Có ý kiến cho rằng: Tiểu luận này phản ánh ý kiến của một đồng chí trong Bộ Chính trị. Kèm theo tiểu luận còn có một bức thư gửi đồng chí Tố Hữu:
“ Tôi muốn phổ biến bài này trong khi Viện Văn học đang chuẩn bị việc kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du. 
- Anh có đồng ý cho tôi đưa vấn đề này ra một cuộc nói chuyện và xuất bản công khai để tổ chức một cuộc thảo luận không?”.
Ở góc trái bức thư có lời ghi viết tay của thư ký đồng chí Tố Hữu:“Anh Lành ốm, không gặp được, đề nghị anh Mai (Đặng Thai Mai) gặp, trao đổi và do Viện định”.
Một vài cán bộ nghiên cứu trẻ trong Viện Văn học rất muốn đưa bài đó ra công khai để thảo luận nhưng ông Mai bảo:
“Trong tình hình hiện nay, để một câu chuyện văn chương làm ảnh hưởng đến khối đoàn kết thì không đáng!”
Và yêu cầu cất bài đó vào ngăn tài liệu lưu trữ của viện.
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ IV: Việc của người trong cuộc - ảnh 2Cuốn Kim vân kiều truyện của Thanh tâm tài nhân (Trung Quốc).
Cũng xin nói thêm, cụ Tôn Quang Phiệt và cụ Đặng Thai Mai cùng quê Thanh Chương - Nghệ An, cùng học trường Quốc học Vinh và Cao đẳng Sư phạm Hà Nội. Gia đình ông Mai còn giữ một tấm ảnh cũ, chụp đội bóng đá trường Quốc học Vinh vào khoảng thập niên 1920, trong đó ông Phiệt là đội trưởng, mặc áo lương đen chít khăn đóng, đứng ở giữa, ông Mai mặc áo thủ môn ngồi bên cạnh. Với quan hệ thân thiết đó thật khó cho ông Mai đến gặp ông Phiệt để nói câu chuyện nghiêm túc trên đây.
Anh Hoài Thanh có sáng kiến cử tôi đi gặp ông Phiệt.
Tôi gọi điện thoại xin gặp bác Phiệt. Buổi sáng tôi đến số 10 phố Trần Hưng Đạo, bác hơi mệt, phải nằm trên giường tiếp chuyện tôi nhưng hai bác cháu vui vẻ trao đổi ý kiến về Truyện Kiều hầu như suốt cả buổi sáng, cuối cùng bác đồng ý là lúc này chưa nên công bố rộng rãi và tổ chức thảo luận về bài của bác. Lúc tôi ra về, bác lấy một gói sách đã gói sẵn để ở đầu giường đưa cho tôi và nói: “Mấy bản Kiều này bác không cần nữa nhưng với cháu thì chắc vẫn còn có ích”. Đó là một số bản Kiều quốc ngữ, in dưới thời Pháp thuộc. Đáng chú ý có một cuốn Kiều của Nguyễn Can Mộng, khổ nhỏ, mà theo ông Nguyễn Tường Phượng thì trước đây một số trí thức Hà Nội gọi một cách khinh thị là “bản Kiều cu ly xe” vì nó gọn, nhỏ, nên các cu ly xe kéo thường dùng để đọc trong lúc ngồi đợi khách!
Sau đó Viện Văn học được truyền đạt ý kiến của đồng chí Lê Duẩn:“Thanh Tâm Tài Nhân của Trung Quốc viết Kim Vân Kiều truyện theo thể tiểu thuyết chương hồi, bằng văn xuôi, chữ Hán. Nguyễn Du của Việt Nam viết Truyện Kiều thành truyện thơ, theo thể lục bát, bằng tiếng Việt. Hai tác phẩm khác nhau, cứ kỷ niệm Nguyễn Du to nhất có thể, không ngại gì cả!”.
Nhân dịp này tôi viết một bức thư kính gửi đồng chí Lê Duẩn trình bày ý kiến sau đây:
- Trong báo cáo Phong trào cách mạng dân tộc và Mặt trận dân tộc ở Nam Bộ từ cuộc Cách mạng tháng Tám đến ngày nay (1951), đồng chí có đề cập đến việc đánh giá Truyện Kiều và phê bình ý kiến của ông Hoài Thanh trong cuốn Quyền sống của con người trong Truyện Kiều (1949): “Lòng đau thương oán giận của cụ Nguyễn Du đâu có phải chỉ vì bọn phong kiến bất lực đê hèn. Chế độ phong kiến vẫn còn đẹp đẽ nguy nga với cụ. Cụ tức giận những bọn phong kiến bất lực mà cụ còn oán ghét một chế độ đương tiến lên, một chế độ thương mại... Vì bản chất giai cấp của cụ, cụ chỉ thấy mặt xấu của đồng tiền mà không thấy mặt tốt, mặt tiến bộ của nó. Đó là phần phản động củaTruyện Kiều”. Nhiều người nghiên cứu chưa hiểu rõ ý kiến này của đồng chí. Đề nghị nhân dịp kỷ niệm Nguyễn Du, đồng chí có bài phát biểu về Truyện Kiều.
Anh Đỗ Trình, thư ký riêng của đồng chí Lê Duẩn, đã trả lời tôi: “Bài đó anh Ba phát biểu đã lâu, nay anh cũng muốn phát biểu lại nhưng rất tiếc là không có thì giờ. Đề nghị Viện Văn học không in lại và công bố bài đó”.  
Ý kiến của đồng chí Lê Duẩn: “Thanh Tâm Tài Nhân của Trung Quốc viết Kim Vân Kiều truyện theo thể tiểu thuyết chương hồi, bằng văn xuôi, chữ Hán. Nguyễn Du của Việt Nam viết Truyện Kiều thành truyện thơ, theo thể lục bát, bằng tiếng Việt. Hai tác phẩm khác nhau, cứ kỷ niệm Nguyễn Du to nhất có thể, không ngại gì cả!”.

****

Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ V: Tất tả nguồn tư liệu

TP - Làm Thư ký thường trực Ban trù bị kỷ niệm 200 năm sinh Nguyễn Du, Giáo sư (GS) Nguyễn Văn Hoàn có nhiệm vụ phải thu thập tài liệu và theo dõi tình hình nghiên cứu Nguyễn Du ở trong nước và ngoài nước. Chúng tôi tiếp mạch hồi ức của GS Hoàn…
Sưu tầm tài liệu ở Pháp và miền Nam nước ta  rất khó khăn. May thay, giữa lúc đó Giáo sư J.Filliozat, Giám đốc trường Viễn Đông Bác cổ ở Paris, viết thư đến Viện Văn học đề nghị thiết lập quan hệ trao đổi sách báo thường xuyên giữa hai bên. Viện Văn học liền gửi đề nghị lên Ủy ban Khoa học nhà nước nhưng không được chấp thuận, thậm chí hồi đó có thời gian ta còn tạm đình chỉ cả việc dạy tiếng Pháp trong các trường học.
Bỗng một hôm tôi nhận được điện thoại yêu cầu lên gặp một cơ quan cấp trên. Đồng chí phụ trách cơ quan đó truyền đạt cho tôi quyết định sau đây: “Do nhu cầu tài liệu cần cho việc kỷ niệm Nguyễn Du, đồng chí được phép lấy tư cách cá nhân trao đổi sách báo vềKiều với hai người quen biết ở Paris và Sài Gòn mà đồng chí thấy là thích hợp, nhưng không được tiết lộ việc này với ai, cũng không cần phải báo cáo với lãnh đạo Viện Văn học; khi nào có trục trặc thì lên đây báo cáo, cơ quan trên này sẽ tìm cách giải quyết”.
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ V: Tất tả nguồn tư liệu - ảnh 1Tuần lễ triển lãm về Nguyễn Du khai mạc ngày 19/11 tại TPHCM. Ảnh: Hữu Huy.
Tôi vừa mừng vừa lo trước một sự cho phép như vậy và nghiêm chỉnh chấp hành.
Thế là từ năm 1963 tôi bắt đầu trao đổi sách báo với Tạ Trọng Hiệp, cộng tác viên của trường Viễn Đông Bác cổ Paris.
Trong tài liệu của mình, GS Nguyễn Văn Hoàn không đề cập gì về Tạ Trọng Hiệp. Nay xin bổ sung về người học trò kiêm cộng sự xuất sắc của GS Hoàng Xuân Hãn như sau:
Tạ Trọng Hiệp sinh ngày 18/10/1933 tại làng Thụy Khuê (làng Giấy), cạnh Hồ Tây, Hà Nội; từ trần hồi 21 giờ ngày 25/10/1996, vì bệnh ung thư, tại bệnh viện Kremlin Bicêtre, ngoại ô Paris. Hưởng thọ 63 tuổi.
Năm 1970, Ðại học Paris VII muốn mở một ban Việt học. Tạ Trọng Hiệp sáng lập ra ban Việt học bắt đầu trường ở đường Censier rồi sau dọn sang đường Jussieu mà ông là GS Hán Nôm cho tới ngày mất. Ông là thành viên của Société Asiatique (Hội Á Châu).
Tủ sách của Tạ Trọng Hiệp cũng là một di sản văn hóa lớn lao cho giới nghiên cứu văn học. Tạ Trọng Hiệp làm việc âm thầm và những công trình của ông thể hiện phần lớn như những báo cáo cho Trung tâm nghiên cứu Khoa học Pháp. 
Ông là vai chính trong việc phát hiện bộ Ðại Việt Sử ký Toàn thư, bản Nội các Quan bản.
Ông đã tham gia đắc lực vào việc hình thành Thư mục Di sản Hán Nôm từ đời Lý - Trần đến ngày nay. 
Nhiều công trình nghiên cứu còn đang dang dở dưới dạng bản thảo chưa in, trong đó có chương trình Tuyển tập Văn bia Bi ký Việt Nam từ thời Lý Trần đến ngày nay. (Ðây là chương trình cộng tác giữa trường Viễn Ðông Bác cổ và Viện Hán Nôm Hà Nội- X.B)
Tiếp mạch hồi ức của GS Hoàn: Thời gian này, tôi còn liên lạc qua một kênh khác với GS Nguyễn Văn Trung ở Đại học Văn khoa Sài Gòn. Kết quả trao đổi rất đáng hài lòng vì vị này cũng đang rất khát tài liệu xuất bản ở miền Bắc nước ta, còn các trục trặc thì không phải chờ đợi lâu mà xảy ra ngay:
Lần thứ nhất, tôi nhận được một giấy báo của bưu điện Hà Nội cho biết có một bưu phẩm gửi cho tôi đến từ Paris, nhưng tôi không được phép nhận vì toàn là ấn phẩm lạc hậu và phản động in ở Sài Gòn.
Tôi lên báo cáo với cơ quan trên và vài hôm sau thì nhận được gói sách đó. Nhân viên bưu điện ở đây dần dần quen mặt tôi nên việc gửi sách báo đi và nhận về theo luồng này trở nên thông suốt.
Lần thứ hai, một hôm đồng chí Phạm Huy Thông với tư cách Phó Chủ tịch Ủy ban Bảo vệ Hòa bình thế giới của ta tiếp một đoàn Hòa bình Mỹ, có một ông chuyển cho tôi một gói sách, đồng chí Phạm Huy Thông vốn là hiệu trưởng của tôi ở trường Đại học Sư phạm Hà Nội cho thư ký chuyển gói sách đến cho tôi một cách tự nhiên, nhưng tôi thì cảm thấy cần viết ngay một bản tường trình, với các lý lẽ có thể nói được, gửi lên đồng chí Phạm Huy Thông, lúc đó là Phó chủ nhiệm Ủy ban Khoa học xã hội, mới tách ra từ Ủy ban Khoa học nhà nước. Ít lâu sau gặp tôi, đồng chí nói: “Lúc đầu nhận được bản báo cáo của anh, tôi nghĩ là không cần thiết nhưng sau lại thấy anh làm thế là rất chủ động”.
Việc thứ ba còn rắc rối và tế nhị hơn, có một hộp các-tông nhỏ từ trường Viễn Đông Bác cổ Paris được gửi đến Đại sứ quán Pháp tại Hà Nội, rồi qua Bộ Ngoại giao ta cuối cùng đến Văn phòng Ủy ban Khoa học xã hội. Đồng chí Vụ trưởng Vụ Liên lạc đối ngoại Ủy ban Khoa học xã hội trao cho tôi một cái hộp nhỏ đó, trong đựng một bản vi phim (microfilm) bản Kiều Nôm Duy Minh thị.
Đến đây cũng mở thêm một cái ngoặc là trong tài liệu của mình, GS Nguyễn Văn Hoàn, có thể do khuôn khổ bài viết chưa có sự chú giải về nguồn tài liệu quý hiếm thời điểm ấy. Đó là bản Kiều Nôm Duy Minh thị.
Như nhiều người đã biết, bản Kiều quốc ngữ xưa nhất là bản Kiều do Trương Vĩnh Ký phiên âm in vào năm 1875, bản Truyện Thúy Kiều do Trần Trọng Kim và Bùi Kỷ hiệu khảo, bản Kim Vân Kiều do Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu chú giải (1925), Kim Vân Kiều (Đoạn Trường Tân Thanh) do Bùi Khánh Diễn chú thích, bản Truyện Kiều Chú Giải do Lê Văn Hòe chú giải, hiệu đính và bình luận, bản Kim Túy Tình Từ do Phạm Kim Chi san định in năm 1917...
Bản cổ nhất được xác định là bản Liễu Văn đường in năm 1866.
Về thời gian Nguyễn Du viết Truyện Kiều, chưa có sách nào minh định rõ ràng? Nhiều tài liệu khẳng định chắc khừ, Nguyễn Du viết Kiều  sau khi đi sứ Trung Hoa ở Yên Kinh về (tức là trong khoảng thời gian từ 1814 đến trước khi ông mất -1820). Có thể vin vào lý do là khi đi sứ Trung Hoa, Nguyễn Du mới đọc được truyện Vương Thúy Kiều trong tập Ngu Sơ Tân Chí của Đạm Tân Dư Hoài, và nhất là Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân chăng? Cuốn ấy như nhiều người đã rõ, đây là quyển sách được viết theo thể văn xuôi mà từ nội dung, nhân vật của sách này Nguyễn Du đã viết thành Truyện Kiều. Người ta cho là thời của Nguyễn Du không dễ dàng gì một tác phẩmkhông mấy nổi tiếng như hai quyển trên (hai quyển Vương Thúy Kiều của Đạm Tân Dư Hoài, và Kim Vân Kiều Truyện của Thanh Tâm Tài Nhân) là những tác phẩm vốn chưa bao giờ được coi là nổi danh, là hot  văn học Trung Hoa cỡ như Kim Bình Mai, Hồng Lâu Mộng, Thủy Hử, Tam Quốc Chí... Vậy nên khó lòng hai quyển này lại sang được xứ Nam mình thời bấy giờ?
Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều - Kỳ V: Tất tả nguồn tư liệu - ảnh 2Kim Vân Kiều thích chú - Bản Kiều cổ được trưng bày tại triển lãm.
Xin trở lại bản Kim Vân Kiều tân truyện do Duy Minh thị tân thuyênxuất bản năm Nhâm Thân (1872) đã được in tại Phật Trấn- Việt Đông bên Trung Quốc. Kể về năm in thì bản ấy ra đời sau bản Liễu Văn Đường tân san năm Bính Dần (1866) tới sáu năm.
Bản này đã được tái bản ba lần: Bảo Hoa các (1879), Văn Nguyên đường (1879) và Thiên Bảo lâu (1891). Các lần tái bản sau đều khắc đúng như bản in lần thứ nhất.
Năm 1884, Abel Des Michels, người đầu tiên dùng bản Duy Minh thịđể dịch Truyện Kiều sang Pháp ngữ, đã có nhận xét rằng, bản ấy có quá nhiều lỗi vì đã được giao cho những người thợ Trung Quốc không biết tiếng Nam (chữ Nôm) khắc ván in. Bản ấy chỉ được phổ biến ở miền Nam và Trương Vĩnh Ký cũng đã có tham khảo khi phiên âm Truyện Kiều lần đầu tiên sang quốc ngữ. Nhưng bản Duy Minh thịđã không được các nhà nghiên cứu Truyện Kiều ở miền Bắc dùng làm tài liệu tham khảo. Mãi tới năm 1971, bản Duy Minh thị mới được ông Vũ Văn Kính dùng làm tài liệu để biên soạn quyển Đoạn trường tân thanh khảo lục nhưng ông cũng không chép theo bản này mà phần lớn đều theo bản Kiều Oánh Mậu (1902) và bản Quan Văn đường (1925).
Người đầu tiên đi sâu vào văn bản này là cụ Hoàng Xuân Hãn. Cụ cho biết: “Bản này in sai rất nhiều, cho nên không mấy ai để ý tới. Nhiều khi người ta cho là bản một người dốt chép lại, không ai để ý. Nhưng sự thực bản ấy là bản quý nhất. Về mặt niên đại, về chữ húy, chỉ có húy đời Gia Long không có húy đời Minh Mạng, thì biết rằng bản viết người ta theo đó để mà sao lại, chắc chắn đầu đời Gia Long. Bản ấy có nhiều sai lầm nhưng qua cái sai lầm một cách giản dị mà mình lại chữa được một cách chắc chắn” (X.B chú dẫn theo nguồn Kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du (Kỷ yếu), NXB Khoa Học Xã Hội, Hà Nội, 1967).
Nhiều tư liệu quý tại triển lãm về Nguyễn Du
Kỷ niệm 250 năm ngày mất của Đại thi hào Nguyễn Du, Tuần lễ triển lãm về Nguyễn Du đã được Sở VH-TT-DL TPHCM khai mạc tại TPHCM ngày 19/11. Triển lãm đã trưng bày nhiều tư liệu quý về cuộc đời, sự nghiệp của Nguyễn Du cũng như các tác phẩm Truyện Kiều của nhiều thời kỳ. Trong đó đáng chú ý là 249 đầu sách viết về thân thế sự nghiệp của Nguyễn Du bằng nhiều ngôn ngữ của các học giả nổi tiếng như Phạm Quý Thích, Trần Trọng Kim, Tản Đà, Đào Duy Anh, Trương Tửu… thực hiện. Triển lãm kéo dài cho đến hết ngày 25/11.
Trọng Thịnh



***


Chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều- Kỳ VI:

Bác Hồ với Truyện Kiều

TP - Tiếp mạch hồi ức của giáo sư (GS) Nguyễn Văn Hoàn: …Đối với tôi và một vài đồng nghiệp khác thì nhờ có nguồn trao đổi này (đã nói ở kỳ V) mà có tài liệu rất kịp thời đến từ Huế và Sài Gòn, còn trục trặc thì chưa dừng ở đây.
Sau khi Sài Gòn được giải phóng, năm 1978, tôi được cử đi học ở Ý, chờ đợi mãi, đã quá hạn học bổng mà vẫn chưa nhận được giấy phép của Bộ Công an cho phép xuất cảnh. Anh Đinh Lư, Vụ trưởng Vụ Tổ chức cán bộ, kiêm Bí thư Đảng ủy Ủy ban Khoa học xã hội, vốn là cán bộ hoạt động địch hậu, đã để lại một cái chân ở chiến trường Quảng Ngãi, cũng sốt ruột, đã phải thân hành lên Bộ Công an hỏi lý do và nhận được một câu trả lời xanh rờn: Đồng chí này có liên hệ bất minh với phía bên kia”. Anh về gặp lại tôi với vẻ mặt lo lắng. Tôi kể sơ qua cho anh nghe về việc tôi được phép năm 1963 thì anh thốt lên: “Chế độ đơn tuyến!”. Đó là lần đầu tiên tôi được nghe thấy thuật ngữ này. Hôm sau tôi nộp cho anh một số tài liệu cần thiết. Anh lại lên Bộ Công an và lúc về vui vẻ bảo tôi: “Bên công an họ khen anh lưu trữ tài liệu tốt”. Tôi nghĩ thầm trong bụng: Đó là do tôi học được từ “Đơ bê” ( Phòng Nhì- 2B) vì hay đọc tư liệu lưu trữ của mật thám thực dân Pháp.
Rồi đến một hôm đầu năm 1964, đồng chí Tố Hữu gọi điện thoại cho ông Đặng Thai Mai: “Xin báo anh biết, Bộ Chính trị đã thông qua chủ trương kỷ niệm Nguyễn Du, thông qua một cách chóng vánh. Điều ngạc nhiên là Ông Cụ (Bác Hồ) đã phát biểu trước tiên. Ông có dặn: Đối với nhân vật Từ Hải thì đề cao vừa vừa thôi! Nhân vật này hèn! Anh Trường Chinh có nói đỡ: Từ Hải phạm tội đầu hàng nhưng đã phải trả giá chết đứng ở trận tiền! Ông Cụ lại bồi thêm: Không chết đứng ở trận tiền thì rồi cũng chết quỳ ở triều đường thôi”.
Tôi bỗng nhớ lại nhiều câu chuyện chứng tỏ sự yêu quý của Bác Hồ đối với Truyện Kiều. Anh Vũ Kỳ, thư ký riêng của Bác, có lần kể với tôi, lần nào đi công tác nước ngoài Bác cũng nhắc anh Vũ Kỳ đem theo cho Bác một quyển Kiều, nhưng lịch làm việc ở nước ngoài thường rất căng, anh không bao giờ thấy Bác có thì giờ đọc Truyện Kiều vào ban ngày, có thể Bác chỉ tranh thủ đọc trước khi đi ngủ. Nhưng những năm cuối đời ở nhà sàn Hà Nội anh thấy Bác hay đọc Kiều vào ban ngày, đọc to thành tiếng. Đó là Bác luyện giọng để khi phải đọc lời kêu gọi hay thơ chúc Tết, các chiến sĩ ở mặt trận, đồng bào miền Nam ở xa nghe được tiếng của Bác vẫn chuẩn xác, ấm áp thì khỏi lo lắng về sức khỏe của Người.
Bác Hồ với Truyện Kiều - ảnh 1
Tác phẩm truyện Kiều dịch sang tiếng Pháp. Ảnh: Hữu Huy
Ngày 14/4/1964, Ban Tuyên huấn Trung ương tổ chức hội nghị truyền đạt chỉ thị của Bộ Chính trị đến thủ trưởng các cơ quan văn hóa văn nghệ ở Trung ương. Dự có các đồng chí Hà Xuân Trường (Vụ Văn nghệ), Huy Cận (Bộ Văn hóa), Đặng Thai Mai và Hoài Thanh (Viện Văn học), Nguyễn Đình Thi (Hội Văn nghệ)...
Đồng chí Tố Hữu nói: “Bộ Chính trị đã chính thức thông qua chủ trương kỷ niệm Nguyễn Du năm 1965. Thực hiện chủ trương đó chúng ta cần chú ý các việc sau:
1. Thứ nhất phải đánh giá Nguyễn Du cho thật đúng mức. Nghĩa là không quá cao mà cũng đừng quá thấp. Từ trước đến nay đánh giá Nguyễn Du thường có hai khuynh hướng đó nhưng nói chung thì đề cao nhiều hơn, nhất là về phương diện nghệ thuật. Nói nghệ thuật của Nguyễn Du cũng nên phải lời, phải lẽ, nói cho có căn cứ. Cái gì của Nguyễn Du, cái gì không phải của Nguyễn Du. Phần sáng tạo của Nguyễn Du là ở đâu.
Về phương diện nội dung, không thể đòi hỏi Nguyễn Du như chúng ta ngày nay nhưng không phải mọi cái hay của Nguyễn Du đã được nói đầy đủ và sâu sắc.
Nên đọc lại và suy nghĩ về những cái xưa nay người ta đã viết về Nguyễn Du. Nên tranh thủ nghe ý kiến của các đồng chí lãnh đạo hiện nay, ít nhất nghe cho được ý kiến của bốn anh: Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp. Nên tổ chức phỏng vấn. Vấn đề Nguyễn Du và Truyện Kiều rất đáng mở ra một cuộc thảo luận.
2. Giới thiệu Nguyễn Du ra nước ngoài thế nào cho người nước ngoài thấy được giá trị của Nguyễn Du. Chú ý đừng để gây ra ngộ nhận, nhất là trong tình hình hiện nay. Các tác giả lớn xưa nay hay mắc nạn! Các thế lực xấu luôn khai thác để kiếm lợi.
Cũng nên quan tâm đến sự cân đối. Cân đối giữa danh nhân văn hóa và danh nhân chính trị. Cân đối trong một địa phương. Từ Nguyễn Du có ý kiến đã nêu Trần Phú, nhưng còn Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu nữa”.
Sau khi có chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng về việc kỷ niệm Nguyễn Du, mọi công việc liên quan đều được xúc tiến khẩn trương, trong đó đặc biệt nhất là việc chuẩn bị các tài liệu bằng ngoại văn, nhất là một bản dịch Truyện Kiều ra tiếng Pháp. Từ năm 1962 ông Phan Nhuận, kiều bào ở Paris, đã nhận dịch vì ông đã dịch rất thành công Nhật ký trong tù của Hồ Chủ tịch. Nhưng Phan Nhuận mới dịch được 128 câu thì đột ngột từ trần, ông Đặng Thai Mai lại đề nghị ông Nguyễn Khắc Viện dịch tiếp nhưng phải cho kịp trước ngày kỷ niệm. Ông Nguyễn Khắc Viện nhận lời nhưng cũng nêu điều kiện phải cho phép anh dịch Kiều theo quan niệm riêng của anh. Ông Mai vui vẻ nhận lời. Trong quá trình hoàn thành bản dịch, ông Nguyễn Khắc Viện đã đăng bài Le Kiều: Trésor littéraire des Vietnamiens trên tạp chíLa Pensée của Pháp số 119, tháng 2/1965, kèm theo hai đoạn dịchKiều của anh. Căn cứ vào hai đoạn trích này ông Đào Duy Anh đã gửi thư đến các đồng chí Phạm Văn Đồng, Tố Hữu, Đặng Thai Mai và Hoài Thanh nói rằng: “Tôi thấy hai đoạn ấy dịch đã không sát mà còn nhiều điểm sai và tôi trộm nghĩ rằng những đoạn văn dễ ấy mà còn dịch không đạt như thế thì không rõ những đoạn văn khác tinh tế và khó hơn sẽ dịch ra sao?”.
Tiếp theo còn có thư phê bình của ông Trần Quốc Nghệ và Trần Đình Đàn gửi từ Hà Tĩnh ra. Ông Đặng Thai Mai đã bảo Văn phòng Viện Văn học gửi các bản góp ý kiến ấy cho anh Nguyễn Khắc Viện tham khảo. Anh Viện đã trả lời: “Tôi nhận thấy, đây không phải là ông Anh và tôi đã hiểu khác nhau những câu, những chữ trích ra, nhưng thực tế là do hai bên đã áp dụng một quan niệm, một phương châm dịch khác nhau”.
Bác Hồ với Truyện Kiều - ảnh 2
Minh họa Kiều của Nguyễn Tư Nghiêm.
Lại còn vấn đề tranh minh họa cho bản Kiều dịch sang Pháp văn. Nhà xuất bản Ngoại Văn đã tổ chức một cuộc họp để góp ý cho họa sĩ Nguyễn Tư Nghiêm. Họp vào một buổi tối tại cơ quan Ủy ban Liên lạc với nước ngoài ở phố Tôn Đản. Đồng chí Trường Chinh cũng tới dự. Một cán bộ đã nói với đồng chí: “Tình hình khẩn trương thế này mà anh cũng đến họp được à?”. Đồng chí Trường Chinh làm bộ ưỡn ngực, khuỳnh vai rồi trả lời: “Chúng ta đánh Mỹ với tư thế người chiến thắng”. Mọi người đều cười vui vẻ.
Đồng chí Trường Chinh còn tổ chức một cuộc tọa đàm tại nhà riêng về Truyện Kiều với một số nhà nghiên cứu và nhà văn. Tại Hội nghị thảo luận về Nguyễn Du và Truyện Kiều tại Viện Văn học trong hai ngày 17 và 18/8/1965, đồng chí cũng đến dự và phát biểu: “Đồng chí Đặng Thai Mai có đặt vấn đề tôi sẽ phát biểu về Truyện Kiều trong một buổi nào đấy. Đó là một trách nhiệm rất nặng đối với tôi, vì tôi không có nhiều thì giờ để nghiên cứu. Nhưng tôi rất thích và chú ý đến kiệt tác này. Rồi đây nếu có ý kiến gì xét ra bổ ích cho các đồng chí thì tôi sẽ xin phát biểu, còn nếu không thì phát biểu làm gì, tốt hơn là như cụ Lê Thước nói hôm qua “dựa cột mà nghe” thì hơn. Tôi đến đây chủ yếu là học tập các đồng chí, nghe các đồng chí phát biểu tôi thấy sáng tỏ thêm nhiều vấn đề. Xin cám ơn các đồng chí”.
Sau đó đồng chí đã có cuộc nói chuyện về Nguyễn Du và Truyện Kiều tại Viện Văn học (20/10/1965).
Trong hoàn cảnh đất nước ta còn bị chia cắt và có chiến tranh phá hoại của Mỹ, chúng ta vẫn tổ chức thành công sự kiện kỷ niệm 200 năm năm sinh Nguyễn Du vào năm 1965 và đã gây được ảnh hưởng tốt trong dư luận trong nước và quốc tế. Đồng chí Charles Fourniau, phóng viên thường trú của báo Nhân Đạo của Đảng Cộng sản Pháp, từ Hà Nội đã gửi bài Một nhà thơ và chiến tranh về Paris đăng trên báo Phê Bình Mới số 175, tháng 4/1966 mạnh mẽ khẳng định bản lĩnh và ý chí của nhân dân Việt Nam: “Trong lúc những máy bay siêu âm, một trong những thành tựu phức tạp nhất của kỹ thuật hiện đại còn tung bom xuống Tiên Điền, làng quê của Nguyễn Du, ở giờ phút mà nhân dân Việt Nam nổi tiếng, bất chấp tất cả, vẫn tổ chức lễ kỷ niệm 200 năm năm sinh nhà thơ dân tộc của mìnhToàn thế giới thấy rõ chính nghĩa ở về bên nào, tự do và hòa bình ở về bên nào”.
 _____________________
  (Còn nữa)
Những năm cuối đời ở nhà sàn Hà Nội anh thấy Bác hay đọc Kiều vào ban ngày, đọc to thành tiếng. Đó là Bác luyện giọng để khi phải đọc lời kêu gọi hay thơ chúc Tết, các chiến sĩ ở mặt trận, đồng bào miền Nam ở xa nghe được tiếng của Bác vẫn chuẩn xác, ấm áp thì khỏi lo lắng về sức khỏe của Người.