Monday, 10 September 2018

Saigon-Chợ Lớn và Nam bộ: Từ tiền sử đến Phù Nam, đế quốc Khmer và vương quốc Champa (Phần 1) (Nguyễn Đức Hiệp - Văn Chương Việt)

Saigon-Chợ Lớn và Nam bộ: Từ tiền sử đến Phù Nam, đế quốc Khmer và vương quốc Champa (Phần 1) Nguyễn Đức Hiệp

Địa thế

Ít người biết là vùng đất Saigon-Gia Định- Đồng Nai-Bà Rịa, Cần Giờ và Mỹ Tho cách đây hơn 300 năm chủ nhân không phải là người Việt, cũng không phải là người Khmer mà là người Mạ và Stieng. Thuộc hệ ngôn ngữ Mon-Khmer, họ đã hiện diện trên vùng đất rừng rậm hoang dại nhiều thú dữ và sông ngòi chằng chịt này từ ngàn năm trước, cuộc sống của họ một phần bị ảnh hưởng sau đó bởi văn hóa Sa Huỳnh, văn minh Phù Nam, văn hóa Chân Lạp-Khmer và sau cùng là văn hóa Việt–Hoa. Ngày nay họ không còn và biến mất hoàn toàn và chỉ còn rãi rác ở Đồng Nai và Lâm Đồng. Không như những thổ dân ở một vài nơi trên thế giới được may mắn vẫn còn hiện diện trên đất cha ông của họ sau những tranh đấu gian nan, người Mạ hiền hòa đã không có tiếng nói gì và dư âm rất nhỏ bé còn để sót lại trong lịch sử.

Bài này có mục đích trình bày tổng quan lịch sử con người và văn hóa ở vùng đất Saigon-Đồng Nai trước khi lưu dân người Việt và Hoa đến định cư. Nếu nói về chiều sâu của thời gian trong lịch sử thì lịch sử lập nghiệp và khẩn hoang của lưu dân Việt-Hoa còn sau vài thế kỷ lịch sử người Âu đến Bắc Mỹ và Nam Mỹ  lập nghiệp và chỉ trước người Âu đến lập nước Australia không lâu trong vòng 1 thế kỷ. Những gì mà chúng ta tìm được về phương diện nhân chủng và khảo cổ học ở vùng đất này cho thấy tại đây đã có một nền văn hóa bản địa (nay gọi là văn hóa Đồng Nai) đặc sắc có liên hệ với văn hóa Sa Huỳnh, Đông Sơn, Phù Nam và Khmer.

Về địa thế thì Saigon-Chợ Lớn là vùng đất tương đối phẳng phía xa song (trừ Gò Cây Mai và Gò Vấp), có độ dốc là (không gắt) và trũng đi về phía gần sông Saigon, rạch Thị Nghè và rạch Tàu Hủ-Bến Nghé. Vì thế thành Saigon (còn gọi là thành Quy, sau này phá đi và xây nhỏ lại gọi là thành Phụng) được xây trền vùng đất cao nhìn bao quát chung quanh, đổ dốc xuống khu vực Bến Nghé gần sông Saigon, tức vùng quanh khu chợ Cũ ngày nay. Cũng vậy ở khu vực Chợ Lớn, từ kênh Tàu Hủ đi lên hướng Phú Lâm, Phú Thọ độ cao tăng dần.

Xưa kia vùng chung quanh gò Cây Mai và Phú Thọ là những nơi đất giồng cao chung quanh là ao, rạch nên đã trở thành nơi định cư của người Khmer, mô hình định cư thường thấy của họ khắp đồng bằng Cửu Long. Chỉ khi người Minh Hương từ Cù Lao phố ở Biên Hòa bỏ nơi này để đến khu vực giữa gò Cây Mai và kênh Tàu Hủ định cư, một vị trí thuận tiện có thể đi theo sông rạch đến Mỹ Tho (một nơi mà người Hoa Minh Hương đã có mặt) mà không phải qua cửa ngõ ra biển ở Cần Giờ, thì vùng Saigon-Chợ Lớn mới bắt đầu có nhiều di dân đến định cư và phát triển để trở thành một đô thị sung túc và quan trọng nhất sau này ở miền Nam.

Trước đây vùng này có hệ thống kinh rạch dầy đặc: từ trung tâm Saigon (rạch Chợ Vải, rạch Cầu Sấu, rạch Cầu Kho..), khu tiếp giáp với quận 3 (rạch Cầu Quan), khu cầu Ông Lãnh (rạch Cầu ông Lãnh), Chợ Quán (rạch Bà Đô) cho đến Chợ Lớn (rạch Phố xếp, rạch Chợ Lớn, rạch Bãi Sậy, rạch Lò Gốm). Khởi thủy của Saigon-Chợ Lớn là qua kinh, rạch, sông và đường biển giao lưu với mọi vùng và vì thế đặc trưng văn hóa, kinh tế của thành phố Saigon-Chợ Lớn cũng như con người là sông, nước nối liền đời sống kinh tế sản xuất, thương mại và tư tưởng văn hóa của nhiều giống dân hội tựu nơi đây.

Ngày nay theo đà phát triển giao thông đường bộ và đô thị, hầu hết các kinh rạch đã bị lấp. Đây cũng là một nguyên nhân cơ bản về thủy văn là tại sao hiện nay Saigon-Chợ Lớn, nhất là khu gần kênh Tàu Hủ từ đường Trần Hưng Đạo vào đến Chợ Lớn, càng dễ bị ngập lụt trong mùa mưa mà ta thường chứng kiến. Ngay cả lúc vào đầu thế kỷ 20, đường Lê Lai vì vị trí thấp so với các đường phía trong xa sông như Nguyễn Đình Chiểu, Điện Biên Phủ, Nguyễn Thị Minh Khai nên lúc có những trận mưa lớn đều bị lụt.

Saigon là điểm chuẩn coi như trung tâm của Nam bộ chia ra thành hai Tây Nam bộ và Đông nam bộ.

Khi di dân đến vùng ngã ba sông Saigon-kênh Tàu Hủ-rạch Thị Nghè định cư ở dọc bờ sông và rạch, thì phía trong về hướng Tây và Bắc vẫn là rừng hoang rất thưa dân, ở đó vẫn còn những thổ dân bản địa và hoang thú, nhưng dần dần được khai hoang trồng trọt và nơi mồ mả chôn cất được đặt ngoài thành phố Gia Định, như vùng Gò vấp, cánh đồng tập trận và cánh đồng mả. Vào thế kỷ 18, Lê Quý Đôn trong “Phủ biên tạp lục”, cho biết vùng Saigon còn rừng rậm dày đặc, người “mọi” (Mán) được dùng làm nô lệ cho lưu dân đến vùng đất mới lập nghiệp (6):

“Miền Đồng-nai về phủ Gia-định từ cửa bể Cần Giờ, cửa Sài-lạp, cửa đại và cửa tiểu đều là rừng rậm kể hàng hơn một nghìn dặm. Đấy là đất trước kia họ Nguyễn đã đánh Cao-miên mà lấy được. Họ Nguyễn chiêu mộ những dân có của ở Quảng-nam, Điện-bàn, Quảng-nghĩa và Quy-nhân đến ở để khai khẩn đất hoang thành ra ruộng lúa tốt, ai khai hoang được thì có quyền chiếm làm của riêng, làm nhà cửa, mở vườn nương, giồng cau, giồng lúa, giồng dừa. Lại đem những con giai con gái người xứ mọi bán cho dân ở nơi mới khai khẩn để họ dùng làm tôi tớ ( người đen tóc quăn là Mán thực giá tiền 20 quan một người; người hơi trắng giá tiền hơn 10 quan một người). Chúng lấy lẫn nhau sinh sôi khôn lớn, làm ruộng rất khéo. Vì thế thóc gạo rất nhiều. Mỗi một địa phương hoặc 40 hay 50 nhà giầu, hoặc 20 hay 30 nhà giầu. Mỗi nhà có đến 50 hay 60 người điền tốt và trâu bò có đến 300 hay 400 con. Cày bừa cấy gặt không lúc nào rãnh công việc. Hằng năm tháng 11 tháng 12 xay thóc ra gạo, đem bán để ăn tết. Đến tháng giêng thì ăn chơi không phải xay giã gì nữa. Ngày thường bán thóc gạo vào Phú-xuân để mua các thứ lụa hoa, vóc nhiễu do tàu buôn Trung-quốc mang đến. Họ ăn mặc lịch sự, ít khi mặc áo vải.

Như vậy những chủ nhân chính của vùng đất Gia Định, người Mạ, không những đã bị tước đất mà còn bị dồn vào tư thế phải bán con làm nô lệ cho lưu dân người Việt đến lập nghiệp. Ngay cả cho đến giữa thế kỷ 20, Bình Nguyên Lộc sinh trưởng ở Đồng Nai và Biên Hòa cho biết ở vùng Tân Uyên, Biên Hòa, những người Mạ làm tôi tớ cho người Việt vẫn còn và họ đã bị Việt hóa hầu hết vì cha mẹ tổ tiên của họ đã rút về Lâm Đồng và vùng cao nguyên (8). Trong ngôn ngữ ở miền Nam ngày nay, vẫn còn nhiều từ có nguồn gốc từ tiếng Mạ như: cẩm lai, lòng tong (cá), đau xóc, chết giấc, cà nanh, dầu long, qua, bậu…(7). Địa danh Đồng Nai cũng bắt nguồn từ tiếng Mạ “Đạ Đờng” (Sông Đồng) nơi gần nguồn từ cao nguyên Lâm Đồng chảy xuống vùng đồng bằng với cánh đồng nhiều nai ở gần Biên Hòa (Hố Nai).

Thời tiền sử đến thế kỷ 16

Vùng đất Saigon, cũng như toàn khu vực đồng bằng Đông và Tây Nam bộ, được bồi đắp bởi sông Saigon, Đồng Nai, Vàm Cỏ và Cửu Long, bao phủ bởi rừng, cây cối rậm rạp. Sinh vật như cọp, beo, voi, tê giác, nai… sinh sống trãi dài khắp nơi từ cao nguyên, các tỉnh Bình Thuận, Bà Rịa đến tận Cần Thơ và Cà Mau. Và trong sông rạch có nhiều cá sấu, rùa và cá heo đặc hữu.

Lương thư sử của Trung quốc cho biết vào thế kỷ thứ 6, vương quốc Phù Nam đã gởi đến triều đình nhà Lương một con tê giác và trước đó vào thời nhà Tấn một con voi.  Các lá vàng tìm thấy ở các di chỉ thuộc nền văn minh Phù Nam cho thấy chạm trên các lá vàng này là hình các hình voi như ở Gò Thành (Tiền Giang), Gò Xoài (Long An), Kè Một (Kiên Giang), hoặc chạm hình hưou nai ở các di chỉ mộ táng ở Nền Chùa và Đá Nổi ở Kiên Giang (15). Ngoài ra ở các di chỉ ta còn tìm thấy các xương răng động vật như voi, heo rừng, cá sấu, hưu đầm lầy (cervus porcinus), cá, rùa…

Cho đến thế kỷ 19, nhiều loài thú trên vẫn còn sinh sống ở nhiều nơi khắp đồng bằng sông Đồng Nai và sông Cửu Long. Ông George Dürrwell, luật sư và là chủ tịch Hội “Etudes indochinoises de Saigon” sống ở Nam kỳ trong các năm 1881 đến 1910, đã mô tả như sau (2):

“Những con cọp và beo không phải là các loài thú duy nhất sống ở vùng quê Nam kỳ, mà còn có các đoàn voi hoang dữ phá hoại. Ngày xưa chúng ở khắp nơi trong vùng Đồng tháp mười (plaine des Joncs) rộng lớn, nơi mà một vài thợ săn gan dạ, người Âu và người bản sứ, đã có một cuộc chiến tranh đẩm máu với chúng, và sau đó chúng đã dần dần rút về phía bắc, để vào xứ sở đất khmer, nơi mà trong số các con voi có những con mà thiên nhiên đã cẩn thận quan tâm sinh ra các con voi trắng (albino), các con voi trắng này trở thành con vật đặc biệt được người khmer sùng bái, tôn kính. Gần đây những con voi to lớn vẫn còn làm nhiều người nói về chúng khi các con voi này đi vào vùng Cần Thơ mà chúng phá hoại không thương tiếc, tàn phá tất cả những gì trên đường chúng đi qua. Những cuộc săn bắn thật sự được tổ chức chống lại các đàn voi đều không có hiệu quả: những thợ săn voi cự phách nổi tiếng, thực tế đã biến mất khỏi thuộc địa này cùng lúc với Tổng đốc Lộc đã ngủ giấc ngủ cuối cùng trong một nghĩa địa nhỏ ở Cái Bè, và người bạn đồng hành dũng cảm trong các cuộc thám hiểm của ông Lộc, bá tước V.., cựu thống sứ (resident superieur) ở Cam Bốt, mà mới đây tôi đã có dịp đi đưa đám tang ở trong thành phố lớn Paris của chúng ta, nơi mà ông ta đã tìm thấy một nơi yên nghĩ tốt đẹp xứng đáng.
 

 
Hình 1 - Một con voi bị bắn hạ ở cánh đồng thuộc tỉnh Cần Thơ thời Pháp thuộc (nguồn: http://www.delcampe.net/page/list/language,E,cat,6556,var,Postcards-Asia-Vietnam.html).

Thời tiền sử

Khi con người bắt đầu đến vùng đất Saigon và vùng phụ cận chung quanh bao gồm vùng Đông và Tây Nam bộ, môi trường sống của họ rất phong phú và họ sống theo lối sống hái lượm trong rừng và thu hoạch dưới sông rạch, không định cư nhất định ở một nơi.  Họ đến Đông Nam Á từ Nam Á (và trước đó từ Phi Châu) cách đây khoảng 47000 năm (22).

Nếu chúng ta đi ngược thời gian thì cách đây hơn 3 ngàn năm, thì bờ biển từ cửa các sông Đồng Nai- Thị Vại, Vàm cỏ, Cửu Long đến Cà Mau và Kiên Giang còn nằm nhiều cây số bên trong đất liền trước khi được phù sa bồi đắp nới rộng ra cho đến vị trí ngày nay. Nhưng nếu đi xa hơn nữa quá thời Holocene (cách đây 12,000 năm khi thời kỳ băng hà cuối chấm dứt) vào thời Pleistocene (từ 2 triệu năm đến 13,000 năm trước đây) trong thời kỳ băng hà cuối (Pleistocene có nhiều thời kỳ băng hà và tan băng) cách đây 20000 năm thì mực nước biển còn thấp (từ 100m đến 150m dưới mực nước biển hiện nay) (23).  Lúc đó thềm lục địa ở biển Đông và cả vùng vịnh Thái Lan từ mủi Cà Mau đến Sumatra, Java, Borneo đều ở trên mực nước biển làm thành một vùng đất to lớn mà các nhà địa chất gọi là Sundaland nối liền các đảo Sumatra, Java, Bali, Borneo… với lục địa Á châu.

Trước khi biển tiến cách đây 14,000 năm thì Sundaland cho phép các loại động vật cũng như người cổ ở Đông Nam Á phát tán và đi qua các “cầu đất liền” trên vùng rộng lớn này.. Con người cũng đã đi đến lục địa Úc châu từ Đông Nam Á và Sundaland qua các eo biển hẹp ngăn cách Úc với Sundaland. Con người đã đến Úc cách đây hơn 50000 năm, sớm nhất từ Phi Châu, trước khi có đợt hai từ Trung Đông đến Âu châu. Động vật như loài voi hiện diện ở khắp vùng Nam lục địa Á châu từ Sri Lanka, Ấn độ, Miến Điện, Thái Lan, Nam Trung Quốc (Vân Nam), Đông Dương, Mã Lai đến các đảo hiện nay Sumatra, và Borneo. Loài voi, Elephas maximus sumatranus, ở đảo Sumatra và Borneo giống như loài Elephas maximus maximus ở Sri Lanka và Elephas maximus indicus ở Ấn độ và các nơi khác.

Các di chỉ con người cổ được tìm được ở Thái Lan, Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân (lúc bấy giờ còn nối liền nhau) và qua các phương pháp định tuổi của chúng cho thấy đột tuổi theo tuần tự thời gian là từ khoảng 47000 năm BP (Thái Lan) cho đến đến 40000-35000 năm BP (Mã Lai, Indonesia, Phi Luật Tân, quần đảo Bismarck). Như vậy con người có thể đến vùng Nam bộ và Tây nguyên vào khoảng 40000 năm cách ngày nay.  Chúng ta hiện nay không biết nhiều về cuộc sống xã hội, hình thái chủng tộc của những người đầu tiên này. Họ có liên hệ đến người thuộc chủng negrito, hay australoid mà hậu duệ vẫn còn hiện nay ở quần đảo Andaman và Nicobar ở Ấn Độ Dương, trong rừng sâu ở bán đảo Mã Lai, quần đảo Phi Luật Tân hay là người Papua ở Papua New Guinea và thổ dân Australian ở Australia hiện nay.

Một bộ xương hầu như còn nguyên vẹn đã được tìm thấy tại một di chỉ hang đá gọi là hang Gua Gunung Runtuh ở Perak, Mã Lai vào đầu thời kỳ Holocene. Phân tích bộ xương này cho thấy xương rất giống thổ dân Úc ngày nay ở hình thái răng và chân tay, và giống những mẫu sọ người ở thời kỳ Mesolithic (đá trung kỳ) ở Mã Lai và đảo Flores. Sự khám phá này, cùng với các xương tìm thấy ở hang đá Tabon (Palawan, Phi Luật Tân) và Niah (bắc Borneo, Sarawak thuộc Mã Lai), hay Ngandong và Wejak cho thấy những người cổ ở Sundaland trong thời Pleistocene muộn có thể là tổ tiên của người thổ dân Úc hiện nay. Các đặc tính qua đo lường ở răng và xương chân ở người cổ Sundaland cho thấy các đặc tính này vẫn còn thấy ở các dân cư trong vùng Đông Nam Á cho đến đầu thời kỳ Holocene. Tuy vậy các khác nhau ở đặc tính về sọ đã được tích tụ từ cuối thời kỳ Pleistocene ở thổ dân Úc và các dân cư đầu tiên vùng Đông Nam Á so với các sọ cổ Sundaland (23).

Trong một nghiên cứu di truyền mới nhất về sự liên hệ của người cổ thổ dân negrito ở bán đảo Mã Lai với các giống dân hiện nay ở Đông Nam Á và Đông Á. Qua phân tích mitochondria DNA (mtDNA) từ mẫu tóc của người negrito ở Mã Lai trong bộ sưu tập Duckworth Collection và các nhóm người khác cho thấy lúc đầu họ chỉ trong phạm vi tây nam Trung quốc, bán đảo Đông Nam Á và Indonesia nhưng sau đó họ đã phát tán nhanh chóng đi khắp Đông Nam Á vào giữa cuối thời băng hà và thời Holocene đá mới cách đây 13000 năm (23).


1- Động Tabon, 2. Động Niah 3. di chỉ người ở Ngandong 4. di chỉ người ở Wajak. Màu xanh đậm lá cây là thềm Sunda  Màu đỏ là đường Wallace chia địa lý sinh học ra hai vùng tiến hóa khác nhau về động và thực vật: vùng Sunda (Đông Nam Á) và Sahul (Papua và Úc Châu)

Cách đây từ khoãng 20000 đến 10000 năm, những giống dân cư này bắt đầu toã ra đi đến cư ngụ ở vùng thượng du phía bắc và nam Đông Nam Á. Từ đó trong những môi trường mới, họ bắt đầu thuần hóa các cây quả và thú vật lần lần một cách có hệ thống. Sự kết hợp đời sống đánh cá với hái lượm trong rừng, và sự vun xới các cây như cây đậu, đã cho phép họ thiết lập được đời sống vĩnh viễn, không đi đâu xa, quanh quẩn ở các hang, chủ yếu là gần nguồn nước; đây là cách sống lần lần được các nhóm khác, sống trãi rộng trong khắp vùng, tiếp thu và thâu nhận.

Văn hóa của những nhóm người này được gọi là văn hóa Hòa Bình, do sự khám phá các di chỉ có cùng đặc tính chung vào đầu thế kỷ 20 đầu tiên ở tỉnh Hòa Bình, Việt Nam. Sau này các di chỉ tương tự được khám phá ở nhiều nơi khác trong vùng Đông Nam Á. Các đặc tính chung mà ta có thể thấy được về kỹ thuật, tập quán và đời sống hàng ngày trước đây và cho đến tận ngày nay của nhiều sắc dân ở Đông Nam Á.

Cách đây khoảng 14,000 năm, mực nước biển tăng lên ở cuối thời kỳ băng hà đã cắt đứt các “cầu” đất liền nối các đảo ở phía nam Đông Nam Á với lục địa Á châu. Và qua đó đã làm tăng nhanh quá trình phân hóa và cách ly giữa các văn hoá bản sứ trong vùng đã bắt đầu phát triển, nhất là ngôn ngữ. Tuy vậy sự kiện xảy ra sau đó không phải là một thời kỳ của sự cách ly xa dần của các nhóm mà là sự phát triển cùng thời của các văn hóa bản sứ này dựa trên một nền tảng chung có cốt rễ là văn hóa Hòa Bình thích ứng với điều kiện riêng ở mỗi địa phương, cộng với sự truyền đạt ý tưởng và kỹ thuật đã cho phép các phát minh tỏa ra trong một vùng địa hình thiên nhiên (23).

Bắt đầu cách nay 10,000 BP năm, thì con người thuộc văn hóa Hòa Bình trong thời kỳ đá mới đã có mặt nhiều nơi ở Đông Nam Á và chúng ta hiểu rõ hơn về họ so với người thời đại đá củ lúc trước, qua các di chỉ cư trú ở hang động ở bắc Việt Nam, Lào, Thái Lan... cùng các dụng cụ đá mài, gốm, xương động vật, võ sò… tìm được ở các di chỉ cư trú này. 

Các vết tích của con người thời kỳ đồ đá cũ và mới được tìm thấy nhiều ở Thủ Đức, Biên Hòa, Xuân Lộc trong lưu vực thượng nguồn sông Saigon và sông Đồng Nai.


Hình 2 - Bản đồ cho thấy con người phát tán từ Phi châu dọc theo bờ biển đến Nam Á, Đông Nam Á chia ra hai ngã: một xuống phía nam đến Australia và một lên Đông Á theo bán đảo Đông Dương (22).  Số trên bản đồ là niên đại cách nay (BP, Before Present) đơn vị là ngàn năm của các di chỉ khảo cổ con người. Bản đồ nhỏ trong hình là con đường thiên cư dựa theo dấu di truyền (genetic marker) RPS47C711T (đột biến M130).



Hình 3 - Người Mạ ở Biên Hòa leo cây tìm mật ong
(nguồn http://www.postcardman.net/vietnam_ethnic_moi.html).

Có thể nói là trước khi lưu dân người Việt đến thì Saigon đã là nơi định cư của các người Khmer ở phía Tây, ở phía Đông là người Mạ, Chăm, và phía Bắc là Stieng, Khmer và Mạ. Người Mạ và người Stieng là cư dân bản sứ và đã hiện diện lâu đời, có mặt trước hết từ thượng nguồn sông Đồng Nai, sông Saigon, sông Bé, sông Vàm Cỏ xuống đồng bằng hạ lưu của các sông này và sông Tiền Giang cho đến Cần Giờ, Mỹ Tho. Ngôn ngữ của họ, cũng như của người Mnong ở Dak Lak, thuộc hệ Mon-Khmer.  Ngày nay người Mạ chỉ còn một số ở Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Thuận và người Stieng còn ở rãi rác rất ít trong hai tỉnh Tây Ninh và Bình Phước.

Cách đây không lâu vào đầu thế kỷ 20 đến giữa thế kỷ 20, người Mạ vẫn còn nhiều ở các vùng Bà Rịa, Biên Hòa, Xuân Lộc (Đồng Nai) nay cả các địa phận quanh Saigon như Thủ Đức và người Stieng vẫn còn ở Tân Uyên, và chung quanh Thủ Dầu Một (Bình Dương). Trước đó vào đầu thế kỷ 19, thuyền trưởng John White khi viếng thăm Saigon đã thấy người “mọi” trong Saigon dự cuộc triễn lãm do Tả quân Lê Văn Duyệt tổ chức và được Tả quân cho biết đó là những chủ nhân vùng đất này trước khi lưu dân người Việt và Hoa đến.

L. Jammes (2) trong quyển “Souvenir du pays d’Annam” (3) đã cho biết trong đoàn quân của Nguyễn Tri Phương giữ thành Kỳ Hòa có nhiều người “mọi” thổ dân được dùng để xung kích, la ó dữ dằn cốt làm sợ hải quân Pháp. Khi Pháp chiếm và xây dựng lại Saigon trong những năm 1860s thì một con đường Saigon đã được đặt tên là Rue des Mois (sau đổi tên là Rue Richaud, nay là Nguyễn Đình Chiểu) do có nhiều thổ dân ở đó.




Hình 4 – Người Mạ (còn gọi là Chau Mạ, “Chau” tiếng Mạ nghĩa là người) ở Biên Hòa (đầu thế kỷ 20).



Hình 5. Biên Hòa – Người “Mọi” (có lẽ là Stieng) – Đầu thế kỷ 20.

Khi người Khmer, thừa hưởng kế tục văn minh Phù Nam, từ vùng châu thổ sông Cửu Long phía Tây và phía Tây bắc đến và người Chăm từ phía Đông xuống thì hai tộc Mạ và Stieng bắt đầu rút dần lên thượng nguồn, rừng rậm và núi. Saigon là nơi giao điểm của cư dân đồng bằng Khmer, Chăm và cao nguyên Mạ, Stieng. Các vết tích kiến trúc, nghệ thuật của người Khmer được tìm thấy ở nhiều nơi trong Saigon và vùng phụ cận.

Khảo cổ học trong vùng lưu vực các sông Đồng Nai, Saigon, Sông Bé và Vàm Cỏ cho thấy những di chỉ khảo cổ tiền sử phong phú từ thời đồ đá đến thời kỳ đồ đồng và sắt.

Rất nhiều di chỉ khảo cổ thời tiền sử được tìm thấy ở chung quanh Saigon trong khu vực miền Đông Nam Bộ, đặc biệt là vùng lưu vực sông Đồng Nai. Mộ cổ cự thạch Hàng Gòn là di chỉ nổi tiếng nhất ở gần Xuân Lộc (Đồng Nai) được phát hiện vào năm 1927. Mộ cổ cự thạch do kỷ sư Jean Bouchot phát hiện khi ông thực hiện công trình mở đường từ Long Khánh Xuân Lộc đi Bà Rịa trong địa phận của một đồn điền cao su.

Hai năm sau, khám phá này đã được công bố chi tiết trên tạp chí của trường Viễn Đông Bác Cổ (1929). Khám phá này đã gây ra nhiều sự chú ý và bàn cãi giữa các nhà khảo cổ học về nguồn gốc, niên đại, chủ nhân và sự liên hệ với các di tích cự thạch khác ở các nơi khác trên thế giới. Các di chỉ cự thạch trên các mộ chôn tương tự tìm được ở Lào (như Hintang Houamuang, San Kong Phanh, tỉnh Houaphan) cho thấy có thể có sự liên hệ của con người thời tiền sử giữa vùng núi Trường Sơn Lào, Tây Nguyên và miền đông Nam bộ.

Vào năm 1984, mộ cổ cự thạch Hàng Gòn được chính thức xếp vào di tích quốc gia. Đây là mộ đá tảng lớn (dolmen) hình hộp chữ nhật dài 4.2 m ngang 2.7 m cao 1.6m được ghép bằng 6 tấm đá hoa cương nguyên khối. Tấm nắp đậy dầy khoảng 30cm và nặng hơn 10 tấn. Theo các nhà địa chất học thì đá hoa cương chỉ có ở phía bắc vùng Đà Lạt hay Phan Rang. Di chuyển, nâng và rắp ghép các tảng đá khổng lồ như vậy là một kỳ công của cư dân tiền sử.


Hình 6 - Di chỉ cự thạch mộ đá lớn Hàng Gòn, Xuân Lộc (H. Parmentier) (5). Hình A, tình trạng thật sự ở di tích, B, vị trí suy diễn qua độ cao của đáy phòng và chân các cột.



Hình 7 - Cự thạch đứng (menhir) ở Hintang, Lào
(ảnh từ http://www.thai-blogs.com/2009/10/29/hintang-a-near-death-experience/)

Gần mộ đá lớn Hàng Gòn, khoảng chục cây số trong khu đồn điền cao su, có các di chỉ thời đá mới cạnh các suối mà Saurin đã khai quật sau khi được các chủ đồn điền thông báo (18). Ngoài ra, trong khu vực vùng Dầu Giây-Xuân Lộc còn có nhiều di chỉ đồ đá cũ do Saurin phát hiện, có tuổi cách đây hơn 10000 năm. Cũng trong khu vực này cũng khám phá các khuôn đồng với niên đại được xác định là khoảng 2000±250 năm trước Công nguyên. Hiện nay các nhà khảo cổ cho rằng chủ nhân mộ cổ cự thạch và nhiều di chỉ đồ đá ở Đồng Nai là cư dân thuộc hệ ngôn ngữ Austronesian Nam Đảo (18)(19). Tuy nhiên cũng không loại bỏ họ là thuộc hệ Austroasiatic Mon-Khmer, tổ tiên của người Stieng, Mạ, Châu Ro ngày nay, đã đến và cư trú đầu tiên ở vùng Đông Nam Bộ.

Di chỉ đồ đá nổi tiếng nhất ở Đồng Nai là di chỉ Cù Lao Rùa, cách Biên Hoà 5.5km, được khám phá từ năm 1888 do Émile Cartailhac khai quật tìm thấy nhiều rìu đá, cuốc, mai đá. Di chỉ này đã được khai quật nhiều lần trong nhiều năm tiếp theo bởi nhiều nhà khảo cổ học và tìm được hàng mấy trăm rìu đá có vai được mài bóng, nhiều đồ gốm nung. Ở Cù Lao Phố, Bình Đa gần đấy, cũng tìm được vài rìu đá mài nhưng không bằng như ở Cù Lao Rùa.

Di chỉ đồ đá Phước Tân nằm ở phía đông trên đường Biên Hòa-Vũng Tàu ở cây số 42, được khám phá khi khởi xây một trại hủi và được Fontaine mô tả (9). Di chỉ này rất phong phú hơn cả di chỉ Cù Lao Rùa, có nhiều hiện vật đá như rìu, cuốc, đục có vai và một số gốm thô.

Trong những năm 1886-1890, Thomas Holbé(1) đã thu thập ở Biên Hoà nhiều hiện vật tiền sử cùng với một số hiện vật ở 20 nơi khác trong vùng lưu vực sông Đồng Nai như Mỹ Lộc (Cần Giuộc, Long An), Bến Gò (Tây Ninh), trong đó có 10 rìu đồng. Trong tổng số 1200 hiện vật thì 91% là từ Biên Hòa. Bộ sưu tập được triễn lãm ở hội chợ quốc tế 1889.

Di chỉ Bến Đò (huyện Thủ Đức) cách cầu xa lộ 3km, rất phong phú gồm có 214 công cụ đá với nhiều rìu đá có vai và hàng ngàn mảnh gốm. Cuối năm 1975, các nhà khảo cổ Việt Nam đã phát hiện ra di chỉ Cầu Sắc (huyện Xuân Lộc). Ở nơi đây có 772 công cụ đá mới (gồm rìu có vai, rìu tứ giác..), gốm tìm được. Qua các hiện vật, đời sống dân cư ở đây chủ yếu là săn bắn trong rừng rậm.

Ở về phía vùng đất đỏ miền đông Nam bộ giáp với nam Trường Sơn, trong tỉnh Tây Ninh và ở Lộc Ninh có những di tích thuộc loại hình thành đất vòng tròn. Thành đất gồm hai vòng tròn đồng tâm với vòng ngoài có bán kinh khoảng 120m. Những thành đất này tương tự các thành đất ở Cánh đồng chum (Lào), ở Thái Lan và ở tận Madagascar cho thấy chủ nhân những di tích này có thể là người Austronesian hay ít nhất có quan hệ với người Austronesian Champa như Malleret đã đặt ra (19). Những hiện vật tìm thấy gồm rìu đá mài, bàn mài, mủi nhọn, gốm xám tro hay nâu đỏ.  

Sau thời đại đồ đá là thời đại đồ đồng và thời đại đồ sắt. Di chỉ Suối Chồn gần di chỉ Cầu Sắc được phát hiện vào năm 1978, thuộc thời đại đồng thau, gồm nhiều đồ đồng như rìu, lưỡi hái.. và một số hiện vật đá (rìu) (18). Di chỉ Dốc Chùa (Bình Dương), khám phá vàn năm 1976, đánh dấu giai đoạn cao của thời đồng thau, có rất nhiều rìu đá, gốm, hiện vật đồng, khuôn đồng, tượng thú, hạt chuổi mã nảo, thuỷ tinh v.v.. (18)

Ở Dầu Giây, Suối Đá (Xuân Lộc) và Phú Hòa đã phát hiện di chỉ có các hiện vật chuổi thuỷ tinh, hoa tai đồng, các mộ chum mai táng, đặc trưng của nền văn hóa Sa Huỳnh. Chứng tỏ văn hóa Sa Huỳnh đã phát triển ở vùng Đông Nam Bộ trên địa bàn lưu vực sông Đồng Nai. Ở Saigon khi đào móng xây nhà thờ lớn (Đức Bà) đã phát hiện di cốt người trong các chum/vò gốm. Bộ sưu tập này đã mất. Đây là phát hiện sớm nhất các mộ chum, trước cả sự phát hiện mộ chum ở Sa Huỳnh ở miền trung mà sau này được gọi là văn hóa Sa Huỳnh (9).

Năm 1985, các nhà khảo cổ Việt Nam đã khám phá ở gần xã Quảng Ngãi, huyện Đa Huoai, Lâm Đồng trên tả ngạn sông Đồng Nai một khu di tích lớn trên nhiều gò vết tích kiến trúc lớn bằng gạch, các tượng linga, bệ thờ linga-yoni, hình thần siva dập nổi trên một tấm bạc mỏng, thần Uma chiến thắng quỉ trâu, một số rìu đá mài, vòng đồng và gốm cổ. Mặc dầu đây là vùng cư ngụ của dân tộc bản địa Mạ nhưng khu di tích này cho thấy có sự quan hệ văn hóa với Champa và văn hóa hậu Óc Eo (19).

Trong khu vực Saigon-Chợ Lớn, Etienne Aymonier (1901) đã ghi nhận tại gò Cây Mai có các những công cụ thời tiền sử gồm những lưỡi cuốc/mai, đục bằng đá mài và rìu nhỏ bằng đồng (19). Năm 1980, ở Vũng Tàu, trong một lòng ao, đã phát hiện một trống đồng Đông Sơn có sao 12 cánh ở giữa mặt trống. Và cuối cùng năm 1984, nhân dân lúc đi làm rẫy đã phát hiện một “kho” vũ khí đồng (qua đồng), rìu đồng ở Long Giao (huyện Xuân Lộc) có liên hệ với văn hóa Đông Sơn (19). Trên 2 mặt qua đồng có trang trí hoa văn rất đẹp, cân xứng giống hệt nhau. Đây là điểm cao của văn hóa đồng ở Đồng Nai.


Hình 8 - Qua đồng Long Giao trưng bày ở bảo tàng thành phố Hồ Chí Minh (thân gỗ được ghép vào qua đồng để trưng bày công cụ qua đồng)

Chúng ta hiện nay chưa có thể xác định là chủ nhân của các di chỉ tiền sử nói trên là của tổ tiên của người Stieng, Mạ hiện nay hay của người Austronesian Sa Huỳnh từ miền trung Việt Nam và hải đảo.

Người Mạ hiện nay có khoãng 20000 người ở các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Lâm Đồng, DakLac trong đó ở huyện Bảo Lộc (Lâm Đồng) là nơi tập trung nhiều nhất. Họ làm lúa rẫy, thạo dệt vãi có hoa văn đẹp, ở nhà sàn dài, có tục cà răng và xâu lỗ tai lớn. Người Stieng đông hơn, chủ yếu ở Tây Ninh, Bình Dương (Sông Bé) và Đồng Nai, nói tiếng rất gần với tiếng Khmer. Trang phục khá đơn giản, đàn bà mặc váy, đàn ông đóng khố. Họ để tóc dài, búi sau gáy, xâu lỗ tai, căng lổ tai, đeo hoa tai bằng gỗ hoặc ngà và xâm mặt, xâm mình với nét hoa văn hình học đơn giản, cũng có tục cà răng nhưng nay không còn, uống nhiều rượu, ăn trầu. Các sọ cổ tìm được ở Cần Giờ (Gò Cá Trăng), ở hạ lưu sông Cửu Long như An Sơn, Gò Tháp, Óc Eo cho thấy rất gần gủi loại hình sọ người Thượng (Stieng, Mạ) hiện nay, chứng tỏ địa bàn của họ xưa kia tản rộng từ Đông Nam Bộ đến đồng bằng sông Cửu Long.

Qua các tư liệu thông tin từ các di chỉ từ thời đồ đá đến thời đồng và sắt tìm được ở lưu vực sông Đồng Nai và Vàm Cỏ như đã nói trên, ta có thể lập giả thuyết là người tiền sử chủng Nam Á Austroasiatic thuộc hệ Mon-Khmer trên lục địa là chủ nhân các di chỉ thời đại đá cũ và mới.

Sau đó trong thời cuối thời kỳ đá mới, đầu thời kỳ đồng đến thời kỳ đồ sắt thì yếu tố Austronesian hải đảo thuộc văn hóa Sa Huỳnh đã đến lưu vực sông Đồng Nai và có ảnh hưởng trên toàn vùng nhất là ở các ven trãi từ Xuân Lộc, Hàng Gòn, Long Thành đến Cần Giờ. Vì thế vùng đất trong khu vực này là vùng giao điểm hay vùng đệm của hai chủng Austroasiactic (ở phía Tây và Nam) và Austronesian (ở phía Đông và Bắc), cũng như sau này là vùng giao điểm của hai nền văn minh Mon-Khmer (Phù Nam, Chân Lạp) và Austronesian Champa.

Chú thích

(1)     Thomas Holbé là dược sĩ phục vụ trong Hải quân Pháp, đến Nam kỳ vào năm 1881. Ông cũng là cộng tác viên Trường nhân chủng học Paris (École d’anthropologie de Paris). Sau khi rời hải quân, ông mở tiệm thuốc ở trung tâm Saigon (nay là nhà hàng Givral vừa bị phá đi), làm phó chủ tịch phòng thương mại (1891-1894), có chân trong Hội đồng quản hạt, tốt nghiệp tiến sĩ dược học (1905). Là nhà sưu tập thông thái, ông có bộ sưu tập đồ đá thời tiền sử ở Nam kỳ, Indonesia. Viếng nhiều nơi như ở Bình Thuận, Tây nguyên và trong các năm đầu thế kỷ 20, ông đã viếng Java, Borneo và bán đảo Mã Lai, Bắc kỳ, Vân Nam, Angkor, Pursat. Cùng với Cardiere ông đi lên vùng núi Quảng Trị tìm hiểu các cư dân “Mọi”.
(2)     Ludovic Jammes, nhà báo, thiết lập Courrier Saigonnais năm 1894. Không phải là nhà khoa học, có nhiều tưởng tượng nên Louis Finot đã có bài viết trên tạp chí Trưỡng Viễn Đông Bác cổ chỉ trích về sự thiếu nghiêm túc của Jammes trong các tuyên bố về các hiện vật tiền sử mà Jammes cho rằng đã đến khai quật ở Samrong Sen (Cam Bốt).

Tham khảo

(1)       Louis Malleret, Les fouilles d'Oc-èo (1944). Rapport préliminaire, Les fouilles d'Oc-èo (1944). Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, 1951, Vol.  45, No.   45-1, pp. 75-88.
(2)       George Dürrwell , Ma chère Cochinchine, trente années d'impressions et de souvenirs, février 1881-1910, E. Mignot (Paris), 1911.
(3)       Ludovic-Henry Jammes, Souvenir du pays d’Annam, Challamel (Paris), 1900.
(4)       Antoine Brébion, Dictionnaire de bio-bibliographie générale, ancienne et moderne de l'Indochine française, publié après la mort de l'auteur par Antoine Cabaton, Societé d’editions, Geographiques, Maritimes et Coloniales, Paris, 1935
(5)       Henri Parmentier, Vestiges megalithiques à Xuân-Lộc, Bulletin de l'Ecole française d'Extrême-Orient, 1928, no. 3-4, p. 479-485,
(6)       Lê Qúy Đôn, Phủ biên tạp lục,  dịch : Ngô Lập Chí, Khoa Xã Hội Truờng Đại Học Tổng Hợp Hà Nội. 1959,
(7)       Bình Nguyên Lộc, Lột trần Việt ngữ,
LotTranVietNgu/LotTranVietNgu_00.html
(8)       Bình Nguyên Lộc, Việc mãi nô dưới vòm trời Ðông Phố và chủ đất thật của vùng Ðồng Nai, tập san Sử Ðịa, Sài Gòn, số 19-20, 1970.
(9)       James Khoo, Art and Archeology of Fu Nan, ed. by J. Khoo, Bangkok 2004.
(10)   Michael Vickery, Funan reviewed: Deconstructing the Ancients, Bulletin de l' Ecole Francaise d' Extreme Orient, 101–143, 2003, 2004.
(11)   Louis Malleret, L'Archéologie du Delta du Mékong, Part 1.
 L’Exploration Archéologique et Les Fouilles d’Oc-Èo, Paris, École Française d'Extrême-Orient, 1959
(12)   Louis Malleret, L'Archéologie du Delta du Mékong, Part 2.
La Civilisation Matérielle d’Oc-Èo. 2 vols., Paris, École Française d'Extrême-Orient, 1960.
(13)   Louis Malleret, L'Archéologie du Delta du Mékong, Part 3.
 La Culture du Fou-Nan. 2 vols, Paris, École Française d'Extrême-Orient, 1963.
(14)   The Virtual museum of Khmer art, The Wintermeier collection, 
(15)   Lê Xuân Diệm, Đào Linh Côn, Võ Sĩ Khải, Văn hóa Óc Eo, những khám phá mới, Nxb Khoa học Xã hội, 1995.
(16)   Dougald J. W. O'Reilly, Early civilizations of Southeast Asia, AltaMira Press, Plymouth, 2007
(17)   Michael Vickery, Deconstructing the ancients, Bulletin de L’école francaise d’Extrême-Orient, 2003, Volume   90, Numéro   90-91, pp. 101-143.
(18)   Lê Trung Khả, Sài Gòn thời tiền sử, trong “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, tr. 13-77, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
(19)   Võ Sĩ Khải, Đất Gia Định thế kỷ 7 đến thế kỷ 16, trong trong “Địa chí văn hóa thành phố Hồ Chí Minh”, tr. 81-124, Nxb thành phố Hồ Chí Minh, 1987.
(20)   Antoine Cabaton, L’inscription Chame de Bien-Hoa, Bulletin de L’école francaise d’Extrême-Orient, 1904, Vol. 4, No. 4, pp.687-690.
(21)   G. Coedes, The Indinanized states of South East Asia, East West Center Press, University of Hawai, Honolulu, 1968.
(22)   Kevin Pope, John Terrel, Environmental setting of human migrations in the circum-Pacific region, Journal of Biogeography, 2008, 35, pp.1-21.
(23)   Nguyễn Đức Hiệp, Người cổ Đông Nam Á,
(24)   Chou Ta-Kuan, The Customs of Cambodia, transl. by John Gilman d'Arcy Paul, Bangkok: The Siam Society 1993.
(25)   Lê Hương, Chân Lạp phong thổ ký, 1973,


Friday, 10 August 2018

Ngụy Khắc Đản với cách phiên âm từ và ngữ tiếng Pháp bằng chữ Nôm và chữ Hán (Việt ANh - Tạp chí Hán Nôm)

Ngụy Khắc Đản với cách phiên âm từ và ngữ tiếng Pháp bằng chữ Nôm và chữ Hán (Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81) 2007; Tr. 23-33)
Cập nhật lúc 16h15, ngày 09/05/2009
Ngụy Khắc Đản với 

NGỤY KHẮC ĐẢN VỚI CÁCH PHIÊN ÂM TỪ VÀ NGỮ TIẾNG PHÁP BẰNG CHỮ NÔM VÀ CHỮ HÁN

ThS. VIỆT ANH

Viện Nghiên cứu Hán Nôm

(Để chữ Nôm hiển thị đúng, Xin đọc file PDF đính kèm)
         Năm 1863, một phái đoàn ngoại giao do Phan Thanh Giản (1796 - 1867), Phạm Phú Thứ (1820 - 1880), Ngụy Khắc Đản (1817 - 1878) dẫn đầu sang Pháp và Tây Ban Nha để đàm phán về chủ quyền ba tỉnh Nam kỳ của Việt Nam. Nhà bác học Trương Vĩnh Ký (1818 - 1898) đã được các vị Chánh, Phó sứ lựa chọn làm phiên dịch chính cho đoàn. Các con tàu Écho, Européen và Japon đã đưa và đón phái đoàn này trong một sứ mệnh đầy khó khăn. Ba vị sứ giả này cùng soạn chung bản ghi chép về chuyến đi với tên gọi Tây phù nhật ký. Bên cạnh đó, Phạm Phú Thứ có soạn Giá Viên biệt lục cho riêng mình. Hai bản nhật ký này đều là những ghi chép có tính chất hành trình, trong đó, các tác giả miêu tả tỷ mỷ, từng hoạt động của sứ bộ. Riêng Như Tây ký
(1) của Ngụy Khắc Đản thì có điểm khác biệt. Đó là những khảo sát nhiều mặt về đất nước Pháp, bao gồm lịch sử hình thành đất nước, nhà nước, thiết chế xã hội, văn hóa nghệ thuật, phong tục tập quán của Pháp. Khi phiên âm từ ngữ tiếng Pháp và giới thiệu về đất nước và xã hội Pháp, tác giả của Như Tây ký đã sử dụng không ít chữ Nôm, chữ Hán có sẵn hay gặp và một số chữ Nôm ít thấy khác.

Bài viết này bước đầu giới thiệu về cách phiên âm của Ngụy Khắc Đản trong Tây phù nhật ký.

Phạm vi từ được phiên âm

Có thể đây là lần đầu tiên, người đọc tìm thấy qua tư liệu Hán-Nôm tên gọi của tám mươi chín phủ (theo cách gọi của Ngụy Khắc Đản) trên toàn lãnh thổ nước Pháp; trong đó, mỗi vùng miền được giới thiệu tên địa danh hành chính và tên nhân vật trong lịch sử dân tộc, danh xưng của một số bộ tộc, dân tộc. Bên cạnh những danh từ riêng, tác giả cũng phiên âm cách gọi tên các chức sắc (Giáo hoàng, Hoàng đế, Hoàng hậu, Lãnh sự, Tổng Tham mưu trưởng, Nghị viên, Thị trưởng, Biện lý,...), cơ quan (Hội đồng Nhà nước, các Bộ như Bộ Ngoại giao, Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính, Bộ Lãnh thổ, Bộ Tư lệnh Hải quân...) nằm trong bộ máy thiết chế nhà nước, nhiều thuật ngữ quân sự (Kỵ binh, Long Kỵ binh, Sư đoàn, Lính thiết kỵ, Hạ sĩ...) và danh từ thuộc về đời sống xã hội (đồng franc, phương tiện giao thông métro, chiếc tẩu hút, quả nho, đồng xu). Hơn thế nữa, một số câu nói bằng tiếng Pháp cũng được phiên âm khá gần với cách phát âm của ngôn ngữ gốc (câu tung hô Hoàng đế vạn tuế, Chào buổi sáng, Chào buổi tối, Cảm ơn).
Chữ Nôm được dùng để phiên âm trong Như Tây ký
Để tiện cho việc phiên âm số lượng các từ ngoại lai, Ngụy Khắc Đản, trong khi sử dụng những chữ Nôm quen thuộc, đã đồng thời tạo nên một số chữ Nôm khác.
Chữ Nôm trong Như Tây ký và cách phiên âm theo Ngụy Khắc Đản sẽ được trình bày trong bảng sau đây:


TT

Chữ Nôm trong
Như Tây ký
Phiên thiết của
Ngụy Khắc Đản
Cách phát âm
Âm tiếng Việt
車低切
xa đê thiết
綋奴切
ghi nô thiết
ghô
羅渠切
la cừ thiết
lừ
糸車
車牐切
xa nghe thiết
xe
na gờ thiết
nờ
孑生
韠名切
da (ra) danh thiết
danh, ranh
xa en thiết
xen
靭惟切
dăng (răng) duy thiết
duy, ruy
ma gờ thiết
mờ
10 
伊牐切
y nghe thiết
ie, e
11 
đa gờ thiết
đờ
12 
手梨
靭牐切
dăng (răng) nghe thiết
13 
靭疏切
dăng (răng) sơ thiết
dơ, rơ
14 
眉登切
mi đăng thiết
măng
15 
巴牐切
ba nghe thiết
be
16 
dăng (răng) gờ thiết
dờ, rờ
17 
靭奴切
dăng (răng) nô thiết
dô, rô
18 
綋糵切
ghi mờ thiết
ghờ
19 
音近悙
âm cận rét
rét
20 
車糵切
xa mờ thiết
xờ
21 
車絲切
xa ti thiết
xi, xe
22 
韠移切
da (ra) di thiết
ri, di
23 
羅橘切
la quýt (quất) thiết
lít, luất
24 
車螉切
xa ong thiết
xong
25 
靭俒切
dăng (răng) hoa thiết
roa, doa
26 
扛登切
giang đăng thiết
dăng, giăng
27 
眉賶切
mi xét thiết
mét
28 
綋規切
ghi quy thiết
ghuy
29 
革都
多俞切
đa du thiết
đu
30 
江乊切
giang ít thiết
dít, rít
31 
讀齊韻
độc tề vận
vi
32 
那乊切
na ít thiết
nít
33 
那牐切
na nghe thiết
ne
34 
巴橓切
ba khét thiết
bét
35 
忄欠
亨岄切
hanh em thiết
hem
36 
江游切
giang du thiết
giu
37 
江牐切
giang nghe thiết
de
38 
阿登切
a đăng thiết
ăng, âng
39 
phi gờ thiết
phơ, phờ
40 
綋絲切
ghi tơ thiết
ghơ
41 
dĩ gờ thiết
dơ, dờ
42 
希江切
hy giang thiết
hang
43 
車釵
車桰切
xa ngay thiết
xay
44 
曲孤
歌琘切
ca no thiết
co
45 
忄多
多絲切
đa tơ thiết
đơ
46 
疒芻
稱琘切
xưng no thiết
xo
47 
氵崙
靭烾切
dăng (răng) tròn thiết
don, ron
48 
靭琘切
dăng (răng) no thiết
do, ro
49 
糸觉
江則切
giang tắc thiết
dắc, dác
50 
綋于切
ghi vu thiết
gu
51 
目差
沙牐切
sa nghe thiết
se
52 
于孭切
vu ơ thiết
53 
忄兼
歌岄切
ca em thiết
kiêm
54 
車冰切
xa băng thiết
xăng
55 
平聲
bình thanh
ang
56 
羅忽切
la hốt thiết
lốt
57 
羅磘切
la đò thiết
58 
糸車
車牐切
xa nghe thiết
xe
59 
音近良
âm cận lương
lương
60 
文阿切
văn a thiết
va
61 
為卜切
vi bốc thiết
vốc
62 
女衣
衣牐切
y nghe thiết
ie
63 
坡牐切
pha nghe thiết
phe
64 
那乊切
na ít thiết
nít
65 
樞都切
xu đô thiết
66 
腔西切
xoang tây (tê) thiết
67 
卑乊切
ty ít thiết
tít
68 
綋牐切
ghi nghe thiết
ghe
69 
音近接
âm cận tiếp
tiếp
70 
歌螉切
ca ong thiết
cong
71 
犀基切
tê cơ thiết
72 
非琘切
phi no thiết
pho
73 
白非
非於切
phi ư thiết
phư
74 
平聲
bình thanh
thương

Việc lặp lại với tần số phổ biến sự kết hợp giữa bộ khẩu với một bộ thủ khác hoặc một chữ Hán nào đó (chiếm 48/74 chữ Nôm được dùng để phiên âm trong Như Tây ký, khoảng 64,8%) đã tạo nên nét nổi bật của những chữ Nôm này. Người đọc (đương nhiên cần biết chữ Hán, chữ Nôm) sẽ tìm thấy cách đọc từng chữ Nôm này nhờ vào chú thích cách phiên thiết mà tác giả đã chua thêm ở dưới đó. Trong công thức phiên thiết này, sự kết nối phụ âm đầu của từ thứ nhất với phần nguyên âm của từ thứ hai sẽ cho phép người đọc phát âm được chữ Nôm dùng để phiên âm.
Nét riêng của Ngụy Khắc Đản trong cách phiên âm bằng chữ Nôm và chữ Hán
Cách phiên âm từ ngữ phương Tây của người Trung Quốc vốn ảnh hưởng tới Việt Nam từ sớm, Ngụy Khắc Đản cũng đã dùng cách gọi “France” là “Phú lãng sa” của họ. Tuy vậy, có thể những chữ Nôm và cả chữ Hán sẵn có chưa làm ông hài lòng khi thể hiện cách đọc từ ngoại quốc, lý do vì tiếng Việt vốn được coi là ngôn ngữ đơn âm, trong khi tiếng Pháp là ngôn ngữ đa âm, lại như nhận xét của Ngụy Khắc Đản là:
“西人於平去二聲無所分, 其於出話又最迫急, 常有數聲而併作一反語, 或有餘聲而驟止焉, 聞之似是一入聲”.
(Người Pháp không phân biệt bình thanh với khứ thanh, khi nói ra tiếng thì rất gấp gáp, thường có nhiều âm gộp lại để phiên âm một từ ngữ, có khi nối âm giữa các từ ngữ rồi mới kết thúc câu nói. Nếu nghe họ nói thì cảm thấy giống như là một từ thôi vậy).
Cũng có khả năng, những từ và ngữ tiếng Pháp mà ông muốn phiên âm thì lại chưa thể hoặc không thể tham khảo, đối chiếu với cách phiên âm của người Trung Quốc, bởi không ai có thể chắc chắn rằng mọi từ ngữ nước ngoài đều đã được người Trung Quốc phiên âm. Một khả năng khác nữa, đó là ý thức dùng văn tự của dân tộc mình để trực tiếp phiên âm, dẫu rằng từ nước ngoài đã có cách phiên âm từ trước đó. Bằng chứng là, trong khi người Trung Quốc vẫn gọi đế quốc Phổ là 普魯士 Phổ lỗ sĩ (Prusse), nữ thần sắc đẹp là 衛女 Vệ nữ (Vénus) thì Ngụy Khắc Đản phiên âm những từ đó là 巴凨蛇 Ba ru sà, 喡滝 Vi nuốt. Trong Như Tây ký, ngay từ trang đầu tiên, ông đã thực hành sự phiên âm bằng chữ Nôm:
“富浪沙國地方名坡靭兼居民一言名坡靭... 亦曰滂... 漢音稱富浪沙佛辤西皆坡靭之近音也”.
(Nước Phú lãng sa có tên là Pha răng, gọi cả tên cư dân là Pha răng xe... cũng có cách gọi là Báng xe... Âm Hán đọc là Phú lãng sa, Phật ran tây, đều gần âm với Pha răng cả).
Sự phiên âm tên gọi của nước Pháp là 坡靭 Pha dăng/răng (France), tiếng Pháp/người Pháp là Pha răng xe 坡靭 (口+) 蚩(français) trong đoạn văn này mang dấu ấn địa phương của tác giả, người xuất thân từ làng Xuân Viên (huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An). Việc áp dụng phương ngữ trong phiên âm đã được Edmond Nordemann (tên phiên âm tiếng Việt là Ngô Đê Mân), Giám đốc Học chính Trung kỳ, vào đầu thế kỷ XX nhận xét trong Avis aux lecteurs français(2) (Vài lời với người đọc Pháp) như sau:
"On ne rencontre pas dans le dialecte du Tonkin les articulations tr, gi, r, x.... En revanche, les dialectes de l’Annam et de la Cochinchine font des distinctions entre ces divers éléments."
(Người ta không thấy cách cấu âm tr, gi, r, x... trong phương ngữ Bắc bộ. Ngược lại, phương ngữ Trung bộ và Nam bộ phân biệt rất rõ các yếu tố này).
Cụ thể, cứ theo cách đọc rõ nét phụ âm r của người xứ Nghệ (theo cách gọi đương thời của người nước ngoài, xứ Nghệ thuộc phần đất An Nam), cách phát âm "ran" so với dan/gian sẽ gần giống hơn với âm tiết gốc trong France, français. Ở trong một trường hợp khác, r cũng trợ giúp đắc lực để Ngụy Khắc Đản dùng các chữ Nôm Ba ru sà 蛇 phiên âm gần giống với từ gốc Prusse (theo cách giải thích của người Việt là đế quốc Phổ). Một vài từ địa phương khác cũng được dùng, tuy không nhiều, nhưng đúng lúc, đúng chỗ, nhất là khi ông dùng từ "ghe" (một phương tiện đi lại trên sông nước của nhân dân) để phiên âm Ministère de La Guerre (Bộ Chiến tranh) bằng bảy chữ Nôm và Hán 眉低羅Mi niết tê dơ đê la ghe; hoặc cách đọc "hương" bằng "nhang" (cây hương được thắp trên ban thờ) để phiên âm Perpignan (tên thành phố của Pháp, thủ phủ của vùng Pyrénées - Orientales) bằng bốn chữ Nôm và Hán 湶陂香 Phe rơ phi nhang. Có khi, chữ Hán lại được vay mượn hình dạng để đọc theo âm Việt, đó là khi tác giả phiên âm từ sénateur (nghị viên) bằng ba chữ Hán và Nôm Xe nát tơ, trong đó, cách đọc "ti" được thay bằng "tơ" sẽ giúp phiên âm gần giống hơn với từ gốc. Hoặc là, để phiên âm tên dòng sông Seine nổi tiếng chảy qua Paris, chữ Hán "liên"được dùng để đọc âm Việt là "sen" cũng giúp cho cách đọc phiên âm tương tự so với âm đọc gốc.
Lời kết
Những điều thú vị trong cách phiên âm tiếng Pháp bằng chữ Nôm và chữ Hán được tác giả của Như Tây ký thể hiện rõ nhất trong từng từ, từng ngữ được phiên âm. Xin được giới thiệu sau đây một phần trong kết quả phiên âm đó: 102 từ ngữ chỉ địa danh ở Pháp kể từ thời điểm sứ bộ của Ngụy Khắc Đản sang Pháp (1863) trở về trước(3).
Bảng tên địa danh ở Pháp:
TT
Tên tiếng Pháp
Phiên âm Hán-Nôm
Phiên âm Quốc ngữ
Agen, thủ phủ của vùng Lot-et-Garonne
嚧犀鐗哪,
治阿韠城
Lô tê gà ro na,
trị A ra thành
Ajaccio, thủ phủ của vùng Corse
圸,
治阿韠
Co dơ xè,
trị A ra do thành
Albi, thủ phủ của vùng Tarn
哪,
治阿嚧陂城
Tra dơ na,
trị A lô pha thành
Alençon, thủ phủ của vùng Orne
鳥湶哪,
治阿稜衝城
Ô thưa na,
trị A lăng xung thành
Amiens, thủ phủ của vùng Somme
憄糵,
治麻眉英城
Xâm mờ,
trị Ma mi anh thành
Angers, thủ phủ của vùng Maine-et-Loire
眉泥螺孭湶,
治盎手梨
Mi nê loa ờ dơ,
trị Ang dê thành
Angoulême, thủ phủ của vùng Charente
爺靭,
治安驅驪糵城
Da răng từ,
trị An khu li mờ thành
Annecy, thủ phủ của vùng Haute-Savoie
烏絲車無鍋,
治安那蚩城
Ô tơ xa vô oa,
trị An na xi thành
Arras, thủ phủ của vùng Pas-de-Calais
歌離,
治那阿韠蚩城
Ba đà ca li,
trị na a ra xi thành
10 
Auch, thủ phủ của vùng Gers
手梨圸,
治烏初城
Dê dơ xè,
trị Ô sơ thành
11 
Aurillac, thủ phủ của vùng Cantal
芹些鋴,
治烏迤
Cần ta lô,
trị Ô ri dắc thành
12 
Auxerre, thủ phủ của vùng Yonne
女烏哪,
治烏圸
Y ô na,
trị Ô xè dơ thành
13 
Avignon, thủ phủ của vùng Vaucluse
噗騾,
治阿韋
Vốc loa dơ,
trị A vi nhong thành
14 
Bar-le-Duc, thủ phủ của vùng Meuse
,
治巴鋴德城
Ma chư,
trị Ba lô đức thành
15 
Beauvais, thủ phủ của vùng Oise
,
治酺覥城
Oa dơ,
trị Phô ve thành
16 
Besançon, thủ phủ của vùng Doubs
都,
暏衝城
Đô,
trị Be giong xông thành
17 
Blois, thủ phủ của vùng Loire-et-Cher
手梨, 吧螺城
Loa dê sai dơ,
trị Ba loa thành
18 
Bordeaux, thủ phủ của vùng Gironde
水崙忄多統, 治酺儲都城
Di lon đa thống,
trị Phô sơ đô thành
19 
Bourges, thủ phủ của vùng Cher
,
Sai dơ,
trị Phô sơ thành
20 
Bourg-en-Bresse, thủ phủ của vùng Ain
,
阿城
Yên,
trị Phô dơ a thành
21 
Bourgogne (tỉnh của Pháp thời xưa)
Phô sơ gô nhớ
22 
Brest (cảng)
巴悙
Ba rét
23 
Caen, thủ phủ của vùng Calvados
歌鋴圖,
治崗城
Ca lô pha đồ,
trị Cương thành
24 
Cahors, thủ phủ của vùng Lot
,
治歌女烏湶蛇城
Lốt từ,
trị ca ô thưa sà thành
25 
Carcassonne, thủ phủ của vùng Aude
忄多,
治吉歌芻哪城
Ô đờ,
trị Cát ca xu na thành
26 
Chambéry, thủ phủ của vùng Savoie
車無鍋,
治杉迤城
Xa vô oa,
tr ị Sam be di thành
27 
Chartres, thủ phủ của vùng Eure-et-Loire
,
治沙
Ơ dê loa dơ,
trị Sa từ dơ thành
28 
Chaumont, thủ phủ của vùng Haute-Marne
烏絲麻湶哪,
治篘蒙城
Ô tơ ma thưa na,
trị Xô mông thành
29 
Châlon-en-Champagne,
thủ phủ của vùng Marne
麻湶那,
治沙嚨城
Ma thưa na,
trị Sa long thành
30 
Châteauroux, thủ phủ của vùng Indre
湶,
治沙蘇凨城
Yên từ thưa,
trị Sa tô ru thành
31 
Cherbourg (tỉnh)
糸車
Xe dơ phô
32 
Clermont, thủ phủ của vùng Puy-de-Dôme
皟糵,
治箕鐞蒙城
Vi đờ đua mờ,
trị Ki li dơ mông thành
33 
Colmar, thủ phủ của vùng Haut-Rhin
烏牲孭,
治岞鋴麻
Ô ranh ơ,
trị Con mờ ma dơ thành
34 
Corse (đảo)
圸島
Cô sơ xè đảo
35 
Digne, thủ phủ của vùng Préalpes
坡, 治岃唕城
Ba sà a lạp phi,
trị Đi nhớ thành
36 
Dijon, thủ phủ của vùng Préalpes Côte-d’Or
,治岃暏城
Cô tờ đua dơ,
trị Đi giong thành
37 
Draguignan, thủ phủ của vùng Var
,
治恀韠綋香城
Va dơ, trị Đơ ra ghi nhang thành
38 
Epinal, thủ phủ của vùng Vosges
,
治醫陂雮城
Vo dơ,
trị Ê phi nan thành
39 
Evreux, thủ phủ của vùng Eure
,
治醫鋴城
Ơ dơ,
trị Ê vơ lô thành
40 
Flamanville (thành phố)
坡羅
Pha la mang
41 
France (tên quốc gia),
Français

富浪沙國, 富浪車, 滂沙, 法, 佛辤西, 坡靭, 坡靭嗤, 滂嗤
Phú lãng sa quốc, Phú lãng xa, Báng sa, Pháp,
Phật ran tây, Pha răng
Pha răng xe, Báng xe
42 
Foix, thủ phủ của vùng Ariège
阿迤喈,
A di giai dơ,
tr ị Phô thành
43 
Gap, thủ phủ của vùng Hautes-Alpes
烏絲阿,
治厳城
Ô tơ a,
trị gấp thành
44 
Gaule (tên thời cổ đại của vùng đất bao gồm Pháp, Bỉ và bắc Italie)
Gô lô
45 
Grenoble, thủ phủ của vùng Isère
手梨,
治鐗湶琘鋴城
Y dê dơ,
trị Gà thưa no be lô thành
46 
Guéret, thủ phủ của vùngCreuse
炠,
治稽悙城
Cơ dơ giờ,
trị Khê rét thành
47 
Haute-Loire (tỉnh)
烏絲螺
Ô tơ loa dơ
48 
Hérault, thủ phủ của vùng Béziers
醫囌孭,
治靭喈城
Ê dô ơ,
trị Răng be giai thành
49 
Laon, thủ phủ của vùng Aisne
醫哪,
治郎城
Ê na,
trị Lang thành
50 
La Rochelle, thủ phủ của vùng Charente-Maritime
爺靭焉卑於,
治羅猶鋴城
Da răng dơ yên ti di ư,
trị La do sai lô thành
51 
Laval, thủ phủ của vùngMayenne
枚喈哪,
治羅
Mai giai na,
trị La va thành
52 
Le Mans, thủ phủ của vùng Sarthe
絲,
治鋴芒城
Xe dơ tơ,
trị Lô mang thành
53 
Lille, thủ phủ của vùngNord
,
治厘鋴城
No dơ,
trị Li lô thành
54 
Limoges, thủ phủ của vùng Haute-Vienne
烏絲韋嘕哪,
治厘謨
Ô tơ vi yên na,
trị Li mô dơ thành
55 
Lons-le-Saunier,
thủ phủ của vùng Jura
維韠 ,
治嚨鋴搊
Duy ra,
trị Long lô xu nhe thành
56 
Lyon, thủ phủ của vùng Région Rhône-Alpes
猶哪,
治厘翁城
Do na,
trị Li ông thành
57 
Marseille, thủ phủ của vùng Bouches-du-Rhône
猶哪,
治麻釵城
Phô dơ a do na,
trị Ma dơ xoa thành
58 
Mâcon, thủ phủ của vùng Saône-et-Loire
芻尼螺,
治麻哶城
Xô ni loa dơ,
trị Ma cong thành
59 
Melun, thủ phủ của vùng Seine-et-Marne
車泥麻湶哪,
治麻梁城
Xa nê ma thưa na,
trị Ma lương thành
60 
Mende, thủ phủ của vùng Lozère
手梨,
治芒多城
Lô dê dơ,
trị Măng đi thành
61 
Metz, thủ phủ của vùng Moselle
鋴,
治蔑蚩城
Mo dê lô,
trị Miệt xi thành
62 
Mézières, thủ phủ của vùng Ardennes
阿湶低哪,
治媚兒醫
A thưa đê na,
trị Mị nhi ê dơ thành
63 
Mont-de-Marsan, thủ phủ của vùngLandes
治蒙手多稱城
Lăng đà, trị Mông đơ ma dơ xưng thành
64 
Montauban, thủ phủ của vùng Tarn-et-Garonne
泥鐗,
治蒙蘇冰城
Tra dơ nê gà do,
trị Mông tô băng thành
65 
Montbrison, thủ phủ của vùng Loire
,
治蒙吧迤咚多城
Loa dơ, trị Mông bơ di dong đa thành
66 
Moulins, thủ phủ của vùng Allier
阿釐喈,
治韊嗹城
A li giai,
trị Mo len thành
67 
Nancy, thủ phủ của vùng Meurthe-et-Moselle
絲,
治能蚩城
Ma dơ tơ,
trị Năng xi thành
68 
Nantes, thủ phủ của vùng Pays de la Loire và Loire-Atlantique
阿, 迤於,
治囊詞城, 坊城
Loa dơ yên phi a di ơ dơ, trị Nang từ, Phe phòng thành
69 
Nevers, thủ phủ của vùng Nièvre
尼醫,
治那
Ni ê vơ dơ,
trị Na vơ thành
70 
Nice, thủ phủ của vùng Alpes-Maritimes
阿嚧陂麻迤卑糵,
治尼圸城
A lô phi ma di ti mờ,
trị Ni xè thành
71 
Nîmes, thủ phủ của vùng Gard
鐗孭,
治尼麻城
Gà ơ dơ,
trị Ni ma thành
72 
Niort, thủ phủ của vùng Deux-Sèvres
忄多,
治泥女烏
Đơ xè vơ dơ,
trị Nê ô dơ
73 
Orléans, thủ phủ của vùng Loiret
螺阿悙
梨盎城
Loa a rét,
trị dơ lê ang thành
74 
Paris, thủ phủ của vùng Seine
車哪 ,
治玻迤城
Xe na,
trị Pha di thành
75 
Pau, thủ phủ của vùng Basses - Pyrénées
手梨泥,
治酺城
Ba sà phi lê nê,
trị Phô thành
76 
Périgueux, thủ phủ của vùng Dordogne
皟唕,
治卑阿迤箕城
Đồ dơ đua nhớ,
trị Ti a di cơ thành
77 
Perpignan, thủ phủ của vùng Pyrénées - rientales
手梨,
湶陂香城
Phi lê nê ô di ăn ta lô,
trị Phe thưa phi
nhang thành
78 
Poitiers, thủ phủ của vùng Vienne
韋嘕哪,
治酺卑醫城
Vi yên na,
trị Phô ti ê thành
79 
Privas, thủ phủ của vùng Ardèche
阿湶低,
迤篗城
A thưa đê dơ,
trị Phô di vạt thành
80 
Quimper, thủ phủ của vùng Finistère
披尼,
忄兼手笈
Phi ni tê dơ,
trị Kèm cắp thành
81 
Rennes, thủ phủ của vùng Ille-et-Vilaine
手梨韋離哪,
治阿手梨哪城
Y lê vi li na,
trị A lê na thành
82 
République (đại lộ)
Lê phô li cư
83 
Rhin (sông)
靭江
Răng giang
84 
Rochefort
揁敷
Lụt phô
85 
Rodez, thủ phủ của vùng Aveyron
阿覥,
治囌的蚩城
A ve lon,
trị dô đích xi thành
86 
Rouen, thủ phủ của vùng Seine-Maritime
車哪嘕迤孭,
治凨盎城
Xa na yên ti di ơ dơ,
trị Ru ang thành
87 
Saint-Brieuc, thủ phủ của vùng Côte du Nord
枯詞岃琘,
治籑堏迤孭城
Cô từ đi no dơ,
trị Sanh bà di ơ thành
88 
Saint-Lô, thủ phủ của vùng Manche
,
爐城
Mang dơ,
trị Xan lô thành
89 
Sainte-Hélène (đảo)
醯蹥島
Hi len đảo
90 
Sardaigne (đảo)
釘島
Xa dơ đanh đảo
91 
Strasbourg, thủ phủ của vùng Bas-Rhin
巴牲,
治砌些韠酺孭城
Ba ranh,
trị thế ta ra phô ơ thành
92 
Tarbes, thủ phủ của vùng Hautes-Pyrénées
烏絲陂手梨尼,
治些湶吧城
Ô tơ phi lê ni,
trị Ta thưa bơ thành
93 
Toulouse, thủ phủ của vùng Haute-Garone
烏絲鐗囌哪,
治須鑪
Ô tơ gà dô na,
trị Tu lô dơ thành
94 
Tours, thủ phủ của vùng Indre-et-Loire
焉燶螺,
治修凨城
Yên tre loa dơ,
trị Tu ru thành
95 
Troyes, thủ phủ của vùng Aube
烏吧,
Ô bơ,
trị Từ xoa thành
96 
Tulle, thủ phủ của vùng Corrèze
手梨,
治綏鋴城
Co lê dơ,
trị tuy lô thành
97 
Valence, thủ phủ của vùng Drôme
麻,
郎圸城
Tồ do ma,
trị Phi lang xè thành
98 
Vannes, thủ phủ của vùng Morbihan
陂吿,
哪城
Mo dơ phi ăn,
trị Va na thành
99 
Vendée (tỉnh)
肹低
Vang đê
100 
Versailles (lâu đài)
覥除
Ve trừ xoa thành
101 
Versailles, thủ phủ của vùng Seine-et-Oise
車泥鍋,
治為剶城
Xa nê oa dơ,
trị Vi dơ xoa gia thành
102 
Vesoul, thủ phủ của vùng Haute - Saône
烏絲趨哪,
凨城
Ô tơ xu na,
trị Vi du thành

Chú thích:
([1]) A.764, Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
([1]) Nguyễn Gia Thiều: Cung oán ngâm khúc[L’Odalisque mécontente]. Bản dịch tiếng Pháp, Edmond Nordemann phiên âm và xuất bản, lần 2 (1911), nhà in Mạc Đình Tư, Hà Nội.
([1]) Ngoài ra, các bảng tra tên nhân vật, tên địa danh ngoài Pháp, từ ngữ thuộc về thiết chế nhà nước và những từ ngữ tiếng Pháp khác đã được trình bày trong luận văn La transcription phonétique du Nôm et du Hán vers le français dans les documents diplomatiques de la fin du XIXe siècle au début du XXe siècle [Hiện tượng phiên âm tiếng Pháp bằng chữ Nôm và chữ Hán trong tư liệu bang giao từ nửa cuối thế XIX tới đầu thế kỷ XX]. Người đọc có thể tham khảo tại Thư viện Viện Nghiên cứu Hán Nôm.
Tư liệu tham khảo chính
- Giá Viên biệt lục(VHv.1770), Phạm Phú Thứ , 1863.
- Kỷ Tỵ niên chính nguyệt nhật phúc tư công văn nhật ký己巳年正月日覆咨公文日記(A.1083), Trương Vĩnh Ký張永記1868 và 1869.
- Như Tây ký 如西記(A.764), Ngụy Khắc Đản 魏克亶1863.
- Tây phù thi thảo 西浮詩草 (A.2304), Phạm Phú Thứ 笵富庶1863.
- Nguyễn Tài Cẩn, Nguồn gốc - quá trình hình thành cách đọc Hán Việt, Đại học Quốc gia Hà Nội, lần 1 (1979), lần 2 (2004), 351tr.
- Nguyễn Gia Thiều, Cung oán ngâm khúc[L’Odalisque mécontente]. Bản dịch tiếng Pháp, Edmond Nordemann phiên âm và xuất bản lần 2 (1911), nhà in Mạc Đình Tư, Hà Nội.
- Vũ Bích Thủy, Vấn đề phiên âm nhân danh, địa danh từ các ngôn ngữ châu Âu sang chữ Nôm qua văn bản Nôm Thánh mẫu phương danh, khóa luận tốt nghiệp, Hà Nội, 2000, 53 trang chính văn và 143 trang phụ lục
(Tạp chí Hán Nôm, Số 2 (81) 2007; Tr. 23-33)
(http://www.hannom.org.vn/detail.asp?param=1362&Catid=605)